Hiện đại hóa, sự Thay đổi Văn hóa, và Dân chủ: Trình tự Phát triển Con Người (kỳ 12)

Donald InglehartChristian Welzel

Nguyễn Quang A dịch

NXB Dân Khí – 2022

Nguyên bản: Modernization, Cultural Change, and Democracy: The Human Development Sequence. Cambridge University Press, 2005.

undefined

Các Giá trị Tự-thể hiệnDân chủ Hiệu quả

Như trước đây, chúng tôi áp dụng tính nhân quả Granger để kiểm định liệu các giá trị tự-thể hiện có một tác động lên các số đo đến sau của dân chủ hiệu quả, kiểm soát cho các số đo dân chủ trước theo thời gian. Bởi vì các số đo dân chủ hiệu quả không sẵn có sớm hơn 1998 (khi các số đo “kiểm soát tham nhũng” của World Bank bắt đầu), chúng tôi sử dụng độ dài thời gian mà một xã hội được cai quản bởi các định chế dân chủ – hay “truyền thống dân chủ” – như một vật thay thế. Độ dài của truyền thống dân chủ là một nhân tố then chốt, theo một số nhà lý luận xuất sắc những người cho rằng sự nổi lên của các giá trị dân chủ nội tại phụ thuộc vào các định chế dân chủ kéo dài bao lâu (xem Rustow, 1970; Linz and Stepan, 1996). Theo các tác giả này, các định chế dân chủ càng kéo dài, chúng càng trở thành một phần không thể thiếu được của bản sắc tập thể của một xã hội giữa cả các elite và quần chúng. Nếu lý lẽ này đúng, bản chất trước dân chủ của các giá trị tự-thể hiện đơn giản là một hệ quả của việc một xã hội sống lâu bao nhiêu dưới các định chế dân chủ, mà có nghĩa rằng các giá trị này sẽ không có tác động nào lên dân chủ hiệu quả khi chúng ta kiểm soát cho sự liên kết của chúng với truyền thống dân chủ. Chúng tôi kiểm định giả thuyết này ở đây. Hơn nữa, đi theo Bunce (2000: 715–17) và Kopstein and Reilly (2000), những người cho rằng sự khuếch tán không gian hoạt động như một yếu tố xác định (determinant) tự trị lên dân chủ, chúng tôi xem xét sự khuếch tán bên trong các vùng văn hóa như một bộ tiên đoán thêm, kiểm soát cho các tác động ngoại sinh do sự khuếch tán vùng.

BẢNG 8.2. Tác động của Dân chủ lên các Giá trị Tự-thể hiện, Kiểm soát cho sự Phát triển Kinh tế Xã hội và sự Khuếch tán Văn hóa

image

Ghi chú: các mục (số) là các hệ số hồi quy đã chuẩn hóa (các giá trị-T ở trong ngoặc). Các mức có ý nghĩa: *p < 0,100; **p < 0,010; ***p < 0,001; n.s. not significant- không có ý nghĩa; Các thống kê kiểm định cho tính cộng tuyến (colinerity), phương sai thay đổi (heteroskedasticity) và các trường hợp ảnh hưởng tất cả đều dưới các ngưỡng tới hạn.

a Khảo sát sẵn có sớm nhất từ các Khảo sát Giá trị II-III (1989-91 đến 1995-97). Số đo trung bình là trong năm 1992; N = 61.

Các phân tích trong các chương trước cho thấy rằng các biến kinh tế, văn hóa, và chính trị thay đổi hết sức ngang các vùng văn hóa. Quả thực, chỉ tám vùng văn hóa thâu tóm khoảng 85 phần trăm của phương sai ngang-quốc gia về các nguồn lực kinh tế xã hội của một xã hội, các giá trị tự-thể hiện của nó, và mức độ dân chủ hiệu quả của nó ngang hơn 70 quốc gia. Phát hiện này gợi ý rằng sự phát triển kinh tế xã hội, các giá trị quần chúng, và các định chế không thể được xem như các đặc tính nội sinh thuần túy của các quốc gia mà cũng phản ánh các quá trình khuếch tán ngoại sinh, thấm vào và đồng nhất hóa các quốc gia của các vùng văn hóa cho trước (xem Starr, 1991; L. Diamond, 1993a; Whitehead, 1996; Kopstein and Reilly, 2000). Nhằm để kiểm soát cho các tác động khuếch tán, chúng tôi bao gồm các trung bình vùng văn hóa trên các biến độc lập như một nhân tố kiểm soát thêm (cho một thủ tục tương tự, xem Gasiorowski and Power, 1998).

Thí dụ, trong việc tiên đoán các giá trị tự-thể hiện trong đầu các năm 1990, chúng tôi dùng mức trung bình của các giá trị tự-thể hiện trong mỗi vùng văn hóa như một bộ tiên đoán thêm, gán cho mỗi nước số điểm các giá trị tự-thể hiện trung bình của tất cả các nước khác trong vùng văn hóa của nó, loại trừ giá trị riêng của nước đó.[1] Việc này bảo đảm rằng chúng tôi gán cho mỗi nước một số điểm trung bình độc lập với số điểm riêng của nó. Tương tự, trong việc tiên đoán các mức đến sau của dân chủ hiệu quả, chúng tôi bao gồm mức dân chủ hiệu quả trung bình của mỗi vùng như một bộ tiên đoán thêm. Như thế, chúng tôi mô hình mỗi biến phụ thuộc như một hàm của sự khuếch tán của nó bên trong các vùng văn hóa.

Hãy để chúng tôi nhấn mạnh rằng các trung bình này đã được tính theo cách làm cho chúng là ngoại sinh đối với mỗi nước, với số điểm riêng của mỗi nước bị loại trừ khỏi sự tính toán trung bình vùng văn hóa được gán cho nước đó. Điều này có nghĩa rằng chúng tôi gán một trung bình vùng văn hóa hơi khác nhau cho mỗi nước trong vùng văn hóa đó. Về mặt kinh nghiệm việc này tạo ra ít sự khác biệt, nhưng về mặt quan niệm là quan trọng bởi vì quan niệm về các tác động ngoại sinh là cốt yếu cho khái niệm khuếch tán (Starr, 1991).

Bảng 8.2 cho thấy các kết quả hồi quy từ chuỗi các mô hình đầu tiên của chúng tôi. Chúng tiên đoán các giá trị tự-thể hiện như được đo vào đầu các năm 1990, sử dụng các biến độc lập sau đây: độ dài của truyền thống dân chủ của một xã hội trước 1990 (tức là, số năm dân chủ nó trải nghiệm trước thời gian đó);[2] mức phát triển kinh tế xã hội của xã hội trước 1990 (sử dụng số đo Vanhanen về mức và sự phân bố của các nguồn lực kinh tế xã hội); và các mức vùng văn hóa của các giá trị tự-thể hiện. Các mô hình đầu tiên của chúng tôi là các mô hình hồi quy hai biến, và các mô hình tiếp theo là các sự kết hợp đa biến, kiểm soát cho tác động của truyền thống dân chủ cho một trong các bộ tiên đoán khác.

Các mô hình được thấy trong Bảng 8.3 đảo ngược hướng nhân quả từ các mô hình trong Bảng 8.2, kiểm định tác động của các giá trị tự-thể hiện trong đầu các năm 1990 lên các mức đến sau của dân chủ hiệu quả trong 2000–2, kiểm soát cho sự phát triển kinh tế xã hội, truyền thống dân chủ trước, và mức vùng văn hóa của dân chủ hiệu quả.[3] Nhằm để kiểm định giả thuyết của chúng tôi, chúng tôi so sánh các kết quả từ các Bảng 8.2 và 8.3.

BẢNG 8.3. Tác động của các Giá trị Tự-thể hiện lên Dân chủ, kiểm soát cho sự Phát triển Kinh tế Xã hội, Truyền thống Dân chủ, và sự Khuếch tán Văn hóa

image

Ghi chú: các mục (số) là các hệ số hồi quy đã chuẩn hóa (các giá trị-T ở trong ngoặc). N= 61. Các mức có ý nghĩa: *p < 0,100; **p < 0,010; ***p < 0,001; n.s. not significant- không có ý nghĩa; Các thống kê kiểm định cho tính cộng tuyến (colinerity), phương sai thay đổi (heteroskedasticity) và các trường hợp ảnh hưởng tất cả đều dưới các ngưỡng tới hạn.

Mô hình 1 trong Bảng 8.2 gợi ý rằng truyền thống dân chủ của một quốc gia có một tác động hết sức có ý nghĩa lên sự nhấn mạnh đến sau của nó lên các giá trị tự-thể hiện. Cụ thể, số năm dưới dân chủ giải thích 62 phần trăm của phương sai ngang-quốc gia đến sau trong các giá trị tự-thể hiện – miễn là chúng ta không kiểm soát cho bất kể biến khác nào. Tác động này là đáng kể. Tuy vậy, nó giải thích phương sai ít hơn đáng kể trong các giá trị tự-thể hiện so với được giải thích bởi mức các nguồn lực kinh tế xã hội (81 phần trăm). Quan trọng hơn, nó cũng ít hơn đáng kể so với mức độ mà các giá trị tự-thể hiện giải thích các mức đến sau của dân chủ hiệu quả (80 phần trăm), như Mô hình 1 của Bảng 8.3 chứng minh. Quyết định nhất, tác động của truyền thống dân chủ lên các giá trị tự-thể hiện giảm xuống một mức đáng kể khi chúng ta kiểm soát cho các nguồn lực kinh tế xã hội. Khi chúng ta làm vậy, độ dài của truyền thống dân chủ của một xã hội giải thích không phương sai nào trong các giá trị tự-thể hiện vượt quá cái một mình các nguồn lực kinh tế xã hội giải thích, như ta thấy khi so sánh các Mô hình 2 và 5 trong Bảng 8.2.

imageHÌNH 8.6a. Tác động của các giá trị tự-thể hiện lên dân chủ hiệu quả, kiểm soát cho thời gian ở dưới dân chủ.

Ngược lại, tác động của các giá trị tự-thể hiện lên mức dân chủ hiệu quả đến sau của một quốc gia vẫn hết sức có ý nghĩa đối lại mọi sự kiểm soát, ngay cả khi chúng tôi kiểm soát cho số năm nó ở dưới dân chủ. Thực ra, truyền thống dân chủ của một nước thêm chẳng gì cho tác động của các giá trị tự-thể hiện lên dân chủ hiệu quả, như một so sánh các Mô hình 1 và 6 trong Bảng 8.3 chứng minh. Đây, lại một lần nữa, là một kiểm định tích cực của tính nhân quả-Granger: các giá trị tự-thể hiện có một tác động tích cực hết sức lên dân chủ, ngay cả khi chúng ta kiểm soát cho tương quan của dân chủ với các số đo trước của chính nó.[4]

image

HÌNH 8.6b. Tác động của thời gian ở dưới dân chủ lên dân chủ hiệu quả, kiểm soát cho mức các giá trị tự-thể hiện.

Các phát hiện này tranh luận chống lại sự giải thích thể chế của các giá trị dân chủ quần chúng. Là không đúng rằng các định hướng ủng hộ dân chủ cơ bản như vậy như các giá trị tự-thể hiện chỉ có thể nổi lên từ kinh nghiệm dài dưới các định chế dân chủ. Các giá trị này có thể nảy sinh ngay cả trong các xã hội độc đoán nhất, và chúng có một tác động mạnh hơn nhiều lên thành tích dân chủ đến sau của một xã hội so với kinh nghiệm trước của nó với dân chủ. Cường độ của các giá trị tự-thể hiện trong một xã hội không phụ thuộc vào dân chủ trước đó nhưng bị ảnh hưởng mạnh bởi mức các nguồn lực kinh tế xã hội của xã hội đó. Các Hình 8.6 và 8.7 minh họa các sự thực này về mặt đồ thị.

image

HÌNH 8.7a. Tác động của các nguồn lực kinh tế xã hội lên các giá trị tự-thể hiện, kiểm soát cho độ dài thời gian ở dưới dân chủ.

Hình 8.6a mô tả tác động của các giá trị tự-thể hiện lên dân chủ hiệu quả, kiểm soát cho độ dài của truyền thống dân chủ của xã hội. Chúng ta thấy rằng các xã hội có các mức cao của các giá trị tự-thể hiện hơn truyền thống dân chủ của chúng cũng gợi ý có các mức cao của dân chủ hiệu quả hơn truyền thống dân chủ của chúng gợi ý (xem các vị trí của Đông Đức, Đan Mạch, Phần Lan, Thụy Điển, Hà Lan, và Tây Đức). Theo cùng cách, các xã hội với các giá trị tự-thể hiện yếu hơn kinh nghiệm trước của chúng với dân chủ cũng gợi ý các mức dân chủ hiệu quả thấp hơn kinh nghiệm của chúng với dân chủ gợi ý (xem các vị trí của Hoa Kỳ, Bỉ, Ấn Độ, Venezuela, hay Nigeria). Tổng thể, sự biến thiên độc lập trong các giá trị tự-thể hiện giải thích 53 phần trăm của sự biến thiên độc lập trong dân chủ hiệu quả. Các giá trị tự-thể hiện có một tác động lên dân chủ hiệu quả, ngay cả khi chúng ta kiểm soát cho thời kỳ dài bao nhiêu mọi người sống dưới các định chế dân chủ.

Hình 8.6b mô tả tác động của truyền thống dân chủ lên dân chủ hiệu quả, kiểm soát cho mức các giá trị tự-thể hiện của mỗi xã hội. Như rõ ràng ngay lập tức, hình này giống một biểu đồ phân tán ngẫu nhiên. Rất nhiều biến thiên trong các truyền thống dân chủ là độc lập với mức các giá trị tự-thể hiện của một xã hội, nhưng nó chỉ giải thích 4 phần trăm không đáng kể của sự biến thiên độc lập trong dân chủ hiệu quả: các xã hội có một truyền thống dân chủ dài hơn các giá trị tự-thể hiện của chúng gợi ý không có nhiều dân chủ hiệu quả hơn các giá trị tự-thể hiện của chúng gợi ý. Như thế, tách khỏi cường độ của các giá trị tự-thể hiện, độ dài truyền thống dân chủ của một xã hội không có tác động có ý nghĩa nào lên mức độ dân chủ hiệu quả. Truyền thống dân chủ liên kết với dân chủ hiệu quả trong chừng mực – và hầu như chỉ trong chừng mực – nó liên kết với các giá trị tự-thể hiện mạnh. Vì thế, tác động này biến mất hầu như hoàn toàn khi chúng ta kiểm soát cho các mức của các giá trị tự-thể hiện.

image

HÌNH 8.7b. Tác động của Truyền thống Dân chủ lên các Giá trị Tự-thể hiện, kiểm soát cho các nguồn lực kinh tế xã hội.

Hình 8.7a xem các giá trị tự-thể hiện như biến phụ thuộc, minh họa nó bị ảnh hưởng như thế nào bởi mức của các nguồn lực kinh tế xã hội, kiểm soát cho độ dài của truyền thống dân chủ. Như hình này chứng minh, các xã hội có nhiều nguồn lực kinh tế xã hội hơn truyền thống dân chủ của chúng gợi ý cũng có các giá trị tự-thể hiện mạnh hơn truyền thống dân chủ của chúng gợi ý (xem các vị trí của Đông Đức, Hà Lan, Hàn Quốc, và Argentina). Tương tự, các xã hội với các mức nguồn lực thấp hơn truyền thống dân chủ của chúng gợi ý cũng có các giá trị tự-thể hiện yếu hơn truyền thống dân chủ của chúng gợi ý (xem các vị trí của Hoa Kỳ, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Phi, và Thụy Sĩ). Về tổng thể, sự biến thiên trong các nguồn lực kinh tế xã hội mà độc lập với độ dài của truyền thống dân chủ của một xã hội giải thích 54 phần trăm của sự biến thiên độc lập trong các giá trị tự-thể hiện. Như thế, các nguồn lực kinh tế xã hội của một xã hội có một tác động quan trọng lên cường độ của các giá trị tự-thể hiện, và tác động này phần lớn độc lập với việc xã hội sống dưới các định chế dân chủ lâu thế nào.

Hình 8.7b cho thấy tác động của truyền thống dân chủ lên các giá trị tự-thể hiện, kiểm soát cho các nguồn lực kinh tế xã hội. Có sự biến thiên trong truyền thống dân chủ mà là độc lập với các nguồn lực của một xã hội, nhưng nó giải thích chỉ 4 phần trăm không đáng kể biến thiên độc lập của các giá trị tự-thể hiện. Số năm dân chủ mà một xã hội trải nghiệm không có tác động đáng kể nào lên các giá trị tự-thể hiện khi chúng ta kiểm soát cho mức các nguồn lực kinh tế xã hội của nó.

Các phát hiện này giải quyết câu đố của Dahl về cái gì quyết định cái gì, được trích trong Chương 7. Chúng cho biết rằng hội chứng phát triển con người nổi lên qua một trình tự trong đó các nguồn lực kinh tế xã hội tăng lên có khuynh hướng nuôi dưỡng các lực xã hội giải phóng, được phản ánh trong các giá trị tự-thể hiện tăng lên, mà đến lượt là thuận lợi cho dân chủ.

Vai trò của các Nhân tố Cấu trúc Khác

Sự phát triển kinh tế xã hội là yếu tố quyết định được chấp nhận rộng rãi nhất của dân chủ trong văn liệu dân chủ hóa. Các kết quả của chúng tôi xác nhận rằng sự phát triển kinh tế xã hội có một tác động quan trọng lên dân chủ, nhưng một tác động yếu hơn tác động của các giá trị tự-thể hiện: phần lớn, nó liên kết với dân chủ bởi vì nó mang lại các thay đổi trong các giá trị mà là thuận lợi cho dân chủ. Hơn nữa, chúng tôi đã kiểm soát tác động của các giá trị tự-thể hiện trên thành tích dân chủ đến sau của một xã hội cho truyền thống dân chủ trước của xã hội này và sự khuếch tán khu vực của dân chủ. Cả hai nhân tố này đã không làm cho tác động của các giá trị tự-thể hiện trở nên không đáng kể.

Kết quả này có đứng vững khi chúng ta kiểm soát cho các nhân tố cấu trúc thêm mà cũng được thảo luận như các yếu tố quyết định của dân chủ trong văn liệu? Hãy để sang một bên các thái độ quần chúng khác (mà chúng tôi xem xét trong Chương 11), các yếu tố cấu trúc của dân chủ được thảo luận rộng rãi gồm các ảnh hưởng quốc tế, truyền thống tôn giáo, và các sự chia tách (cleavage) xã hội (cho một tổng quan, xem Bollen and Jackman 1985; Gasiorowski and Power, 1998; Berg-Schlosser and Mitchell, 2000; Doorenspleet, 2004).

Giữa các nhân tố quốc tế, lý thuyết hệ thống thế giới cho rằng sự phát triển kinh tế xã hội sẽ thuận lợi cho dân chủ chỉ nếu một nước có một vị thế thuận lợi trong nền kinh tế thế giới, có khả năng để trao đổi ngang hàng với các trung tâm tư bản chủ nghĩa (Wallerstein, 1974). Từ một quan điểm khác, lý thuyết thương mại tự do kết luận rằng các nước mà có khả năng tích tụ sự giàu có qua thương mại tự do sẽ phát triển một cách tự nhiên các xu hướng tự do (liberal) bởi vì chúng liên tục bị phơi ra cho các ý tưởng mới đa dạng từ bên ngoài (Bollen and Jackman, 1985; McNeill, 1990; Landes, 1998). Liệu một xã hội có một vị trí thuận lợi trong thị trường thế giới được cho biết bởi giá trị xuất khẩu của nó trên đầu người: giá trị này càng cao, vị thế của một nước càng tốt. Vì thế, ta sẽ kỳ vọng một giá trị xuất khẩu cao trên đầu người để có một tác động tích cực lên dân chủ tự do.[5]

Các nhân tố chia tách xã hội đã được thảo luận rộng trong văn liệu dân chủ hóa. Các sự phân chia giai cấp sắc nét, sự phân cực xã hội, và phân bổ của cải cực kỳ không đều được xem là thù nghịch với dân chủ (Muller, 1997). Sự bất bình đẳng xã hội khiến các giai cấp trên hùng mạnh sợ rằng dân chủ sẽ cho phép các giai cấp thấp hơn thực hiện các biện pháp tái phân phối mà sẽ tước quyền chiếm hữu của họ. Việc này cho các giai cấp trên một khuyến khích mạnh mẽ để ngăn cản dân chủ đích thực. Ngược lại, một sự phân bổ của cải bình đẳng hơn dẫn tới sự chi phối của các giai cấp trung lưu ôn hòa về mặt chính trị, mà có ít để sợ và nhiều để được từ dân chủ. Vì thế, các sự phân bổ của cải tương đối bình đẳng phải có một tác động tích cực lên dân chủ (Boix, 2001).[6]

Khi có các sự mất cân bằng cực kỳ về phân phối của cải, các nhà nước có khuynh hướng thiết lập các năng lực cưỡng chế mạnh, bởi vì các giai cấp có đặc quyền cần quyền lực cưỡng chế để bảo vệ địa vị của họ chống lại các đòi hỏi tái phân phối của các giai cấp thấp hơn (Dahl, 1973). Vì thế, sự hiện diện của các năng lực nhà nước cưỡng bức phải có một tác động tiêu cực lên dân chủ, đặc biệt khi chi tiêu nhà nước cho các phương tiện cưỡng bức đến với cái giá của chi tiêu cho phúc lợi công.[7]

Sự phân đoạn hóa (fractionalization) sắc tộc cũng được coi là thù nghịch với dân chủ (Muller and Seligson, 1994). Sự đa dạng sắc tộc có thể được dùng để tạo ra các sự thù nghịch giữa các nhóm sắc tộc, làm xói mòn ý tưởng dân chủ về một cộng đồng của những người bình đẳng; vì thế được cho rằng sự phân đoạn hóa sắc tộc có một tác động tiêu cực lên dân chủ.[8]

Một nhân tố cấu trúc cuối cùng là truyền thống tín ngưỡng của một xã hội. Nhiều tác giả đã quy một thế giới quan cá nhân chủ nghĩa cho Đạo Tin lành (Bollen and Jackman, 1985). Điều này ngụ ý rằng dân chủ tự do với sự nhấn mạnh của nó đến các quyền cá nhân phải thấy mảnh đất màu mỡ nhất trong các xã hội Tin lành. Nếu điều này là đúng và dấu ấn Tin lành của một xã hội được phản ánh trong tỷ lệ phần trăm của những người Tin lành của nó, phải có một tác động tích cực lên dân chủ. Ngược lại, một xu hướng chống dân chủ đặc thù đã được quy cho các xã hội Islamic (Huntington, 1996). Nếu điều này cũng đúng và dấu ấn Islamic của một xã hội được phản ánh trong tỷ lệ phần trăm của những người Muslim của nó, thì nó phải có một tác động tiêu cực lên dân chủ. Nếu các số đo này được kết hợp thành một index tỷ lệ phần trăm khác biệt mà trở nên ngày càng dương khi những người Tin lành càng đông hơn những người Muslim, một tác động tích cực lên dân chủ sẽ được kỳ vọng.[9]

BẢNG 8.4. Tác động của các giá trị tự-thể hiện lên Dân chủ, Kiểm soát cho các Nhân tố Cấu trúc Khác nhau

image

Ghi chú: các mục (số) là các hệ số hồi quy đã chuẩn hóa (các giá trị-T ở trong ngoặc). N= 61. Các mức có ý nghĩa: *p < 0,100; **p < 0,010; ***p < 0,001; n.s. not significant-không có ý nghĩa; Các thống kê kiểm định cho tính cộng tuyến (colinerity), phương sai thay đổi (heteroskedasticity) và các trường hợp ảnh hưởng tất cả đều bên trong các giới hạn có thể chấp nhận được.

Bảng 8.4 chứng minh cái gì xảy ra khi chúng ta đưa mỗi trong số các nhân tố cấu trúc này vào, ngoài các giá trị tự-thể hiện. Đi theo nguyên lý của tính nhân quả Granger, chúng tôi kiểm soát cho truyền thống dân chủ của một xã hội kéo dài bao lâu để nhận diện các tác động của các biến này lên dân chủ đến sau trong chừng mực chúng hoạt động một cách độc lập với dân chủ trước của một xã hội.

Các kết quả được thấy trong Bảng 8.4 cho biết rằng một số nhân tố cấu trúc được đề xuất trong văn liệu có các tác động thêm đáng kể lên dân chủ hiệu quả, nhưng không nhân tố nào trong số đó làm giảm một mức đáng kể tác động của các giá trị tự-thể hiện lên dân chủ hiệu quả. Quả thực, không nhân tố nào trong số chúng có một tác động mạnh như tác động của các giá trị tự-thể hiện. Vì thế, chúng ta có thể kết luận rằng tác động của các giá trị tự-thể hiện lên dân chủ không phải là một thành phần lạ của các nhân tố cấu trúc khác được thảo luận trong văn liệu dân chủ hóa.

Bước 4: Giải thích các sự Khác biệt giữa Dân chủ Hình thức và Hiệu quả

Việc phân biệt giữa dân chủ hình thức và hiệu quả chỉ có ý nghĩa nếu các sự khác biệt đáng kể giữa hai phiên bản này của dân chủ tự do. Như Hình 8.5 chứng minh, các sự khác biệt đầy kịch tính quả thực có tồn tại giữa dân chủ hình thức và hiệu quả.

image

HÌNH 8.8. Tác động của các giá trị tự-thể hiện lên tính liêm chính elite.

Tính liêm chính elite tạo ra toàn bộ sự khác biệt giữa dân chủ hình thức và dân chủ hiệu quả: sự khác biệt giữa dân chủ hình thức và dân chủ hiệu quả phản ánh các thiếu sót trong tính liêm chính elite. Các mức tương đối cao của tính liêm chính elite đưa mức dân chủ hiệu quả của một xã hội lên mức dân chủ hình thức của nó, nhưng các mức thấp của tính liêm chính elite hạ cấp mức dân chủ hiệu quả của một xã hội xuống xa dưới mức dân chủ hình thức của nó. Vì thế, nhằm để hiểu các giá trị tự-thể hiện tác động thế nào đến các sự khác biệt giữa dân chủ hữu hiệu và dân chủ hình thức, ta phải xem xét tác động của các giá trị tự-thể hiện lên tính liêm chính elite.

Như Hình 8.8 chứng minh, các giá trị tự-thể hiện có một tác động mạnh nổi bật lên các số đo đến sau của tính liêm chính elite, giải thích 79 phần trăm của biến thiên ngang-quốc gia trong tính liêm chính elite. Điều này ngụ ý rằng các giá trị tự-thể hiện tăng lên hoạt động như một lực xã hội mà khép lại khoảng cách giữa dân chủ hiệu quả và hình thức, bằng việc tăng cường tính liêm chính elite – nhân tố làm giảm bớt sự khác biệt giữa dân chủ hình thức và dân chủ hiệu quả.

Tác động của các giá trị tự-thể hiện lên dân chủ hình thức là hơi khác, như Hình 7.1 chứng minh. Một mặt, tác động là mạnh và hết sức có ý nghĩa, giải thích khoảng 50 phần trăm của biến thiên trong dân chủ hình thức. Ngoài ra, tác động có vẻ hoạt động theo một hướng cụ thể: các giá trị tự-thể hiện mạnh là một điều kiện đủ để tạo ra dân chủ hình thức, bởi vì bất cứ xã hội nào xếp hạng trên bách phân vị thứ 33 trên thang các giá trị tự-thể hiện (tức là, tại hay trên mức của Venezuela) có số điểm tại hay trên bách phân vị thứ 60 về dân chủ hình thức – không có ngoại lệ nào. Mặt khác, tác động của các giá trị tự-thể hiện lên dân chủ hình thức bị làm yếu đi bởi sự thực rằng các giá trị tự-thể hiện mạnh không phải là một điều kiện cần cho dân chủ hình thức: các cuộc bầu cử tự do có thể được tổ chức hầu như ở bất cứ đâu, và bách phân vị thứ 80 trong dân chủ hình thức có thể đạt được thậm chí bởi các xã hội bên dưới bách phân vị thứ 25 trong các giá trị tự-thể hiện.

Bulgaria, Romania, và Ấn Độ là các trường hợp nơi chúng ta thấy các mức cao của dân chủ hình thức, mặc dù các giá trị tự-thể hiện là yếu. Nhưng trong tất cả các trường hợp này, các giá trị tự-thể hiện yếu liên kết với các sự thiếu sót nghiêm trọng trong tính liêm chính elite, làm cho các mức dân chủ hình thức cao của chúng chuyển thành các mức dân chủ hiệu quả thấp. Nói cách khác, các mức dân chủ hình thức cao có khuynh hướng bị làm cho vô hiệu nếu chúng tồn tại trong một xã hội nơi công chúng đặt sự nhấn mạnh yếu lên sự tự-thể hiện. Ngược lại, khi các giá trị tự-thể hiện là mạnh, tính liêm chính elite cũng có khuynh hướng là cao, làm cho các mức cho trước của dân chủ hình thức có hiệu quả. Như thế, các mức dân chủ hình thức cao hầu như luôn luôn có hiệu quả nếu công chúng đặt sự nhấn mạnh mạnh lên các giá trị tự-thể hiện. Các giá trị tự-thể hiện là một lực xã hội khép lại khoảng cách giữa dân chủ hình thức và dân chủ hiệu quả lại bằng việc nuôi dưỡng tính liêm chính elite.

Từ một góc nhìn khác, các giá trị tự-thể hiện yếu ngụ ý các giá trị sinh tồn mạnh, mà thúc mọi người tìm kiếm sự bảo vệ trong các nhóm gắn kết chặt chẽ và tạo ra các mối quan hệ gắn kết mạnh, nuôi dưỡng sự thiên vị cho sự bảo hiểm chống lại các rủi ro của đời sống. Sự thiên vị cung cấp một mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng. Tham nhũng trở thành hành vi tiêu chuẩn mà mọi người kỳ vọng từ các elite trong một văn hóa sinh tồn. Ngược lại, bản chất giải phóng của các giá trị tự-thể hiện cổ vũ các quan niệm không phân biệt đối xử và phổ quát về sự an lạc con người. Sự lên của một văn hóa giải phóng mang lại sự phản đối quần chúng tăng lên đối với sự thiên vị và tham nhũng. Như thế, khi dân chủ hình thức được kết hợp với các giá trị tự-thể hiện phổ biến, các lực xã hội mạnh tạo ra các áp lực cho tính liêm chính elite cao, làm cho dân chủ hình thức có hiệu quả. Các giá trị tự-thể hiện tăng lên mang lại các áp lực xã hội mà có khuynh hướng khép lại khoảng cách giữa dân chủ hình thức và dân chủ hiệu quả.

Kết luận

Chương này xem xét tác động của các giá trị tự-thể hiện lên dân chủ từ vài góc nhìn khác nhau. Chúng ta thấy rằng các giá trị tự-thể hiện liên kết một cách đáng kể với các số đo khác nhau của dân chủ, kể cả dân chủ hiến định, dân chủ bàu cử, và dân chủ tự do. Từ góc nhìn phát triển con người, dân chủ tự do là đặc biệt quan trọng, và phân tích của chúng tôi tập trung vào nó, phân biệt giữa các phiên bản hình thức và hiệu quả của dân chủ tự do. Rồi chúng tôi chứng minh rằng: (1) các giá trị tự-thể hiện có một tác động nhân quả mạnh đến sự nổi lên của dân chủ hình thức, nhưng (2) các giá trị này có một tác động thậm chí mạnh hơn đến sự nổi lên của dân chủ hiệu quả, và (3) các giá trị tự-thể hiện là thuận lợi cho tính liêm chính elite, nhân tố khép lại khoảng cách giữa dân chủ hình thức và dân chủ hiệu quả. Các tác động nhân quả theo hướng ngược lại, tức là, từ các định chế dân chủ tới các giá trị tự-thể hiện, được thấy là không đáng kể. Các phát hiện này ủng hộ mạnh mẽ sự giải thích văn hóa của dân chủ và không xác nhận một sự giải thích thể chế về văn hóa chính trị. Chúng cho biết rằng các giá trị tự-thể hiện tăng lên đóng một vai trò trung tâm trong xu hướng tới dân chủ.


[1] Về các chi tiết của việc đo trung bình vùng văn hóa của các giá trị tự-thể hiện, xem Phụ lục Internet, #51 dưới Variables.

[2] Để xây dựng số đo về các năm của dân chủ, chúng tôi sử dụng thang “Chế độ Chuyên quyền-Dân chủ” được cung cấp bởi dự án Polity IV (Marshall and Jaggers, 2000). Chúng tôi đã tính cho mỗi nước số năm trong đó nó có số điểm ít nhất +7. Cho nhiều chi tiết hơn, xem Phụ lục Internet, #23 dưới Variables.

[3] Về các chi tiết về việc đo biến này, xeme Phụ lục Internet, #22 dưới Variables.

[4] Granger (1969) cho rằng tác động của một bộ tiên đoán lên một biến phụ thuộc là nhân quả, nếu tác động này giữ vững đối lại các số đo trước theo thời gian của biến phụ thuộc. Các phát hiện của chúng tôi thỏa mãn đòi hỏi này, cho thấy rằng các giá trị tự-thể hiện có một tác động đáng kể lên dân chủ, ngay cả kiểm soát cho các số đo trước của dân chủ.

[5] Cho việc đo giá trị xuất khẩu trên đầu người trong 1990, xem Phụ lục Internet, #09 dưới Variables.

[6] Để đo sự bất bình đẳng của phân bố thu nhập, chúng tôi sử dụng index Gini vào khoảng 1990. Về chi tiết hơn, xem Phụ lục Internet, #10 dưới Variables.

[7] Để đo chi tiêu nhà nước cho các phương tiện cưỡng chế đi xa đến đâu với cái giá của các chi phí cho phúc lợi công, chúng tôi tính hiệu số trong các ngân sách nhà nước đầu tư cho quân đội và vào sức khỏe và giáo dục. Về chi tiết hơn, xem Phụ lục Internet, #13.

[8] Chúng tôi sử dụng các index về phân đoạn hóa sắc tộc và ngôn ngữ được Alesina and Devleeschauwer (2002) và Roeder (2001) cung cấp. Về chi tiết hơn, xem Phụ lục Internet, #11 dưới Variables.

[9] Cho các chi tiết đo lường, xem Phụ lục Internet, #14 dưới Variables.

Comments are closed.