MATSUO BASHÔ Bậc Đại Sư Haiku

Ueda Makoto & Nguyễn Nam Trân

Chương 4

TẢN VĂN BASHÔ

Hồn haiku hòa quyện vào văn xuôi và văn du ký

Dẫn nhập:

Bài viết dưới đây phỏng dịch chương thứ tư tác phẩm “Matsuo Bashô, The Master Haiku Poet” (1970) của giáo sư Ueda Makoto, đề cập đến vai trò của thể loại văn xuôi bao gồm haibun (bài văn 俳 文, short poetic essay) và kikôbun (kỉ hành văn 紀 行文, travel journal)1 trong sự nghiệp Bashô.

***

clip_image002

Matsuo Bashô đã đưa hồn thơ haiku vào trong tản văn

Bashô là một tác gia tản văn (prose writer) thành công. Bất cứ ai muốn viết về lịch sử tản văn Nhật Bản không thể nào bỏ qua Bashô bởi vì rõ ràng ông đã tạo ra một phong cách viết văn xuôi mới, từ đó được bao nhiêu thế hệ nhà văn lấy làm khuôn mẫu. Dù khi viết văn xuôi, Bashô luôn luôn để ý đến từng chi tiết cũng như lúc ông gieo một vần haiku hay renku (連句 liên cú). Ông còn dặn học trò của mình đều phải làm như vậy. Một thời Bashô có ý định biên tập một tuyển tập văn xuôi gồm tác phẩm của mình và chư đệ tử, tuy nhiên ông bắt buộc phải ngưng chương trình giữa chừng vì thấy không có bao nhiêu đạt được tiêu chuẩn yêu cầu. Việc đòi hỏi những qui định nghiêm khắc để đánh giá giá một tác phẩm văn xuôi thì ở Nhật Bản, trước ông, hầu như không ai quan tâm. Tóm lại, ta thấy Bashô dường như xem văn xuôi và thơ như hai bộ phận bổ túc cho nhau, hai lối viết phục vụ một mục đích chung. Chắc chắn là một trong những yếu tố đã làm cho tản văn Bashô trở nên hấp dẫn là chất thơ của nó bởi vì thi ca đã được đem vào trong đó. Trong tác phẩm như Oku no hosomichi (奥 の細道 Đường mòn miền Bắc)2 thì biên giới thông thường giữa thơ và văn xuôi hầu như đã bị xoá bỏ.

Sự nghiệp tản văn của Bashô xem như gồm trong 3 cụm tác phẩm: haibun, kikobun và hairon.

Haibun (俳 文)có thể định nghĩa là văn xuôi của haiku (haiku prose) hay văn xuôi viết theo tinh thần haiku.Khi áp dụng vào trường hợp tác phẩm của Bashô thì nó thường được hiểu là cách nói dùng để chỉ những đoạn văn ngắn có cùng nhãn quan hay chủ đề đã thấy trong các bài haiku. Nói về Kikôbun (văn du ký (紀 行文) hay nhật ký lữ hành thì đó là nội dung của năm tác phẩm mang tên: Nozarashi Kikô (野ざらし紀行Dọc đường mưa gió)3, Kashima Môde hay Kashima Kikô (鹿 島詣 / 鹿 嶋紀行 Chuyến hành hương đền Kashima)4, Oi no kobumi (笈の小文 Tráp đeo lưng cũ)5, Sarashina Kikô (更 科紀行 Chuyến viếng thăm thôn Sarashina)6 và Oku no hosomichi (奥 の細道Đường mòn miền Bắc). Bên cạnh, có thể 7chúng ta nên cộng thêm Saga Nikki (嵯 峨日記Nhật ký Saga)8 mà ông đã viết ra trong lúc dừng chân giữa một chuyến lữ hành. Nó mang nhiều sắc thái tương tự như những kikôbun. Còn như phần Hairon (bình luận về haiku, 俳 論) thì chúng ta có thể tìm ra trong Kaiôi (貝ほおいTrò chơi bốc vỏ sò) hay một số văn bản ít nổi tiếng hơn cũng như trong các tác phẩm mà chư đệ tử đã ghi chép lại từ những lời đàm thoại của Bashô. Những ghi chép này rất đáng để ý vì nó đã bộc lộ cho chúng ta quan điểm của nhà thơ về vai trò của thi ca, thi pháp và thi nhân. Trong bài này, chúng ta sẽ triển khai hai cụm tác phẩm haibun và kikôbun, nhường hairon cho một dịp khác.

I) Haibun hay haiku viết bằng văn xuôi:

Các học giả Nhật Bản thời nay vẫn còn tranh cãi về con số chính xác các haibun mà Bashô đã viết ra bởi vì một số chủ trương phải tính vào trong cụm tác phẩm đó cả những ghi chép ngắn ở trên đầu (short headnotes) nhiều bài haiku của ông. Riêng phần chúng tôi, xin phép được loại bỏ những ghi chú mào đề ấy và chỉ để ý đến những đoạn văn dài hơn và tồn tại một cách độc lập. Như thế thì chỉ có khoảng 60 hay 70. Chúng lại còn có đặc điểm là khác xa nhau về độ dài: một bút ký như Am đời hư ảo Genjuuan no ki (幻 住庵の記)9 – dài nhất – có thể đếm tới 1.500 đơn vị chữ (Nhật), trong khi ở một chỗ khác – ngắn nhất – thì chỉ mới vượt quá 100. Tuy vậy, chúng vẫn có nhiều nét chung. Rõ ràng hơn cả là hầu hết chúng đều kết thúc bằng một hay vài vần haiku. Nội dung bộ phận văn xuôi tiến dần đến bộ phận haiku đặt đằng sau chứng minh là có một cấu trúc chung giữa những yếu tố tương tự mang đặc tính của chủ đề. Những chủ đề ấy có thể đem sắp xếp vào một số tụ điểm (categories), song thật ra, vốn chẳng có nhiều.

Như chúng ta có thể chờ đợi từ một người vốn dành một quãng thời gian lớn trong đời mình để đi đây đi đó, số lượng lớn haibun của Bashô có liên quan đến những địa điểm ông từng thăm viếng. Nói chung thì trong các áng văn ấy, ông hầu như bắt đầu bằng cách trình bày ngắn gọn về nơi chốn rồi tiếp tục đưa ra những suy nghĩ về chốn ấy, để kết thúc bằng một bài haiku. Chẳng hạn, trong haibun nói về Matsushima (tụ điểm haibun thứ nhất, NNT), một trong những thắng cảnh của Nhật Bản, nơi ông đã ghé qua khi làm chuyến lữ hành về miền Bắc, ông viết:

Matsushima tự hào là nơi danh thắng số một của Nhật Bản. Nhiều nhà thơ đã chú ý đến vẻ đẹp của chùm đảo này từ thuở xa xưa và đem hết cả tài hoa của mình miêu tả nó. Vịnh Matsushima có đường bán kính khoảng ba dặm, gồm những hòn đảo bềnh bồng, muôn hình muôn vẻ, tựa như thiên nhiên đang muốn khoe cái khéo léo của bàn tay Con Tạo. Với những hàng thông đan nhau dày kín trên mỗi hòn đảo, phong cảnh ấy có một cái đẹp tươi tắn không cách nào tả nổi.

Shima-jima ya
Chiji ni kudakete
Natsu no umi

Đảo đảo, trùng điệp đảo
Như biển của mùa hè
Vỡ bắn trăm ngàn mảnh.

Cho dù không thấy đề cập trực tiếp, chúng ta có thể tưởng tượng đến ánh sáng loang loáng của một mùa hè rực nắng trên Thái Bình Dương xanh lam. Cái bao la của đại dương bị chắn ngang lại bằng bờ vịnh hình cánh cung và vô số những hòn đảo nhỏ trải ra trên đó. Thế nhưng ngay cái khung chắn được đại dương bao la kia cũng có một tầm cỡ to lớn. Ở đây chúng ta hình dung được hình ảnh một nhà thơ đang đứng trước cái đẹp và cái vô hạn của thiên nhiên. Cuộc đối đầu đó đã được hiểu ngầm trong phần văn xuôi lẫn trong bài haiku theo sau.

Một haibun được sắp chung vào chung một tụ điểm với nó nhưng chứa nhiều tình cảm cá nhân hơn là một bài viết ngắn nói về Rakushisha (Lạc Thị Xá)10, làm ra khi Bashô đến trú ngụ vào năm 1691.

Có kẻ tên gọi Kyorai, sống ở Kyôto nhưng sở hữu một túp lều giữa những lùm trúc ở vùng Hạ-Saga dưới chân núi Arashi11 và không xa bờ sông Ôi. Đó là một nơi thích hợp cho người tìm cô đơn bởi vì nó chính là địa điểm có thể đem sự lắng dịu đến cho tâm hồn. Kyorai, một gã lười lĩnh, anh ta đã để mặc lau sậy mọc cao bên cửa sổ, cành lá vài cây quả hồng tự do vươn lên mái. Nhân vì mưa hè dột khắp nơi, sàn lát chiếu cũng như những cánh cửa kéo bằng giấy bồi đều toát ra một mùi ẩm mốc, và thật khó lòng tìm được một chỗ ngả lưng qua đêm. Nhưng đối với ta thì dù sao cái âm u (shadiness) của chốn ấy đã trở thành bằng chứng cho lòng hiếu khách của chủ nhân.

Samidare ya
Shikishi hegitaru
Kabe no ato

Mưa hè rơi dầm dề,
Tranh thơ ai gỡ đi
Dấu còn trơ trên vách.

clip_image004

Lạc thị xá (Rakushisha) 
đã tu sửa lại, nơi xưa 
Bashô ẩn cư12

Túp lều này, Lạc Thị Xá (Nhà những quả hồng rụng) được biết trước tiên như là nơi cư trú của một trà sư nổi tiếng. Mỹ học của trà đạo đặt trọng tâm vào cái bóng âm u (shade), trống trải (spareness) và không đối xứng (asymmetry), ngược lại với sáng sủa (brightness), đầy đặn (plenitude) và đối xứng (symmetry). Dĩ nhiên cái mà Bashô thiên trọng là vẻ đẹp của trà đạo và ông tỏ ra hoàn toàn hạnh phúc với cuộc sống lặng lẽ trong túp lều đó. Mảnh giấy đề thơ (shikishi 色 紙 poetry card) giống như bức hoa tiên dày và vuông vắn người ta đặc biệt chế ra để ghi lại những vần thơ hay vẽ tranh, đôi khi đem đi tặng người quen biết làm quà. Bashô ngồi một mình trong căn lều đơn côi, lắng nghe tiếng mưa hè đầu mùa, bất chợt nhận ra có vài vết hình vuông còn hằn lên những bức tường quanh mình. Ông quả quyết rằng đó phải là vết tích những mảnh giấy đề thơ mà người chủ cũ của túp lều, vốn là khách yêu thơ, đã gỡ ra và mang đi khi dọn nhà. Do đó, tiếng mưa rơi rả rích và hình ảnh của những mảnh giấy đề thơ không còn ở trên tường nữa mới hiện ra trong tâm khảm nhà thơ.

clip_image006

Độ Nguyệt Kiều (Cầu Đưa Trăng Qua) ở Sagano, gần Lạc Thị Xá

Đó là hai bài haibun mà Bashô đề cập đến nơi chốn. Thế nhưng tại sao ông lại bị lôi cuốn vì những cảnh trí ? Lý do là mỗi cảnh trí đều có những đặc điểm khác nhau để chinh phục ông. Với Matsushima là cảnh quan thiên nhiên đẹp hùng vỹ còn cánh đồng Saga là vẻ bình dị đạm bạc. Cả hai đều lôi cuốn nhà thơ. Điều thú vị nằm ở chỗ là trong mỗi hoàn cảnh, ta đều thấy Bashô tỏ ra luôn luôn luyến tiếc quá khứ và những con người một thời nào đó đã đi qua hay từng sống ở nơi ấy. Ở Matsushima, Bashô nhớ về những văn nhân thuở xưa từng ca tụng vẻ đẹp của chùm đảo, còn ở Saga, ông trầm ngâm nghĩ về trà sư yêu thơ một thời sống trong cùng căn lều. Bashô đã đi viếng thăm nhiều nơi với ký ức hướng về bao nhiêu người từng sống ở đó và ông có cảm tưởng họ cùng chia sẻ một thái độ với ông khi đứng trước cuộc sống. Tuy ngày nay họ đã đi xa hay đã chết đi nhưng ông vẫn thấy họ đang hiện diện và đang phả vào trong không gian cái nguồn cảm hứng cho người du khách nhạy cảm Bashô.

Không nói cũng hiểu là Bashô cũng còn thích thú được gặp gỡ những con người đang sống, nhất là khi họ chia sẻ với ông tình yêu thơ cũng như quan điểm thi ca. Những người này là trung tâm của tụ điểm haibun thứ hai. Những bài thuộc loại này cũng thường có chung một cấu trúc. Chủ yếu là chúng bắt đầu bằng cách giới thiệu ngắn gọn cá nhân nhân vật, giải nghĩa tình huống đã khiến cho người đó xuất hiện, thế rồi đi đến việc đưa ra những nét đặc thù đã nối kết người đó với tác giả. Chúng lại đều kết thúc bằng một bài haiku nói về nhân vật chính . Một ví dụ cụ thể có thể đem làm mẩu mực là đoạn văn ngắn nói về đệ tử Sora13 (mà chúng ta sẽ đề cập trong chương 1, chương liên quan đến thân thế và hành trạng của Bashô, NNT). Ví dụ thứ hai cũng thành công là bài haibun mà Bashô viết về Ôchi Etsujin14, một đệ tử khác, người đã tháp tùng ông trong những chuyến lữ hành thập niên 1680.

Juuzô, dân ngụ cư vùng Owari, có biệt hiệu là Etsujin. Biệt hiệu này bắt nguồn từ tên nơi sinh quán của anh. Anh chịu đựng được cái náo động quay cuồng của nhịp đời đô thị nhưng chỉ vì sinh kế. Mỗi lần làm việc xong hai hôm thì anh lấy hai hôm để nghỉ ngơi; còn như khi lao động cực nhọc hết ba hôm lại dành ba hôm sau cho những gì làm mình thích chí. Anh uống rượu rất hào và khi say, thường cao hứng ngâm những bài cổ ca15. Anh là bạn ta đấy.

Futari mishi
Yuki wa kotoshi mo
Furikeru ka

Bâng khuâng lòng tự hỏi 
Tuyết hai ta từng ngắm
Năm nay biết có rơi ?

Những câu haibun trên ngắn gọn, cách viết lại giản dị nhưng ngầm chứa tất cả hơi ấm của một tình bạn đồng điệu giữa hai người. Trong bài haiku, Bashô tưởng nhớ đến một chuyến lữ hành vào mùa đông 1687 khi hai ông cùng đi dọc theo bờ biển Thái Bình Dương. Nhắc đến cảnh ngắm tuyết trong cuộc chu du đó, ý Bashô muốn nói lên cả sự đồng điệu vế quan điểm thi ca giữa ông và Etsujin, và chính đó là chất keo để gắn bó một cách vững chắc cơ sở tình bạn giữa hai người.

Khái niệm của Bashô về nhà thơ haiku lý tưởng còn được phản ánh một cách rõ ràng hơn trong một bài haibun xếp cùng trong tụ điểm này. Bài đó được ông soạn ra vào mùa hè năm 1693, khi người đệ tử của ông là Morikawa Kyoroku16 đang sửa soạn lên đường về phiên trấn nhà vì công vụ.

Kẻ đang trên đường trở về bản quán bằng con đường núi Kiso17 tên là Morikawa Kyoroku. Từ thuở xa xưa, những người có tâm hồn thi sĩ đều không màng đến việc phải đeo tráp trên lưng, dận đôi hài cỏ, đội nón lá áo tơi chỉ đủ chở che sương nắng. Họ đều vui thỏa khi khép mình vào kỷ luật, chịu đựng nỗi gian nan và như thế mới hiểu được đâu là chân lý của vạn vật. Nay Kyoroku ta là một người võ sĩ đang phục vụ cho chủ quân và lãnh địa. Anh đeo một thanh trường kiếm bên sườn, cưỡi con ngựa trạm. Còn có thêm kẻ tùy tùng mang giáo dài và chú tiểu đồng cùng theo anh trên đường, vạt áo vải màu đen của họ phất phơ trong gió. Thế nhưng ta chắc chắn rằng những biểu hiện bên ngoài ấy không cho ta thấy con người đích thực của anh đâu.

Shii18 no hana no
Kokoro ni mo niyo
Kiso no tabi

Khi vượt đường Kiso
Xin lòng người hãy giống
Như những cánh hoa shii.

Uki hito no
Tabi ni mo narae
Kiso no hae

Lũ ruồi đường Kiso
Bu theo như đánh bạn
Người lữ khách âu lo.

Con đường Kiso nối kết vùng rừng núi đảo Honshuu rất hiểm trở và vắng vẻ. Lữ khách một mình trên con đường đó lại càng cảm thấy đơn côi khi anh ta bước dưới tàng cây shii (một loại dẻ) mang những chùm hoa bé tí, hay ngủ qua đêm ở quán trọ ven đường đầy ruồi nhặng bu theo. Bashô muốn nhắn cho đệ tử của ông rằng những tình huống như vậy có thể là cơ hội tốt để tôi luyện hồn thơ của mình. Vì Kyoroku là một đệ tử mới nhập môn cho nên Bashô mới tỏ ra trực tiếp và thẳng thắn khi cho biết đâu là cuộc sống phải có của một nhà thơ đích thực. Giữa hai bài haiku bên cuối có tính cách dạy dỗ khác thường đó, Bashô đã bảo Kyoroku hãy chọn một nhưng người học trò này xin giữ lại cả hai.

Bashô còn viết nhiều haibun về một số nhân vật đặc biệt và qua đó, ông không chỉ hiện ra với hình ảnh của một nhà thơ cô độc mà còn là một người bạn có tình cảm ấm áp, một ông thầy hiểu học trò mình, một con người thân ái, đáng yêu. Dù sao cũng phải nói là ông khá kén học trò và bạn bè. Người được ông chọn nhất thiết phải có một hồn thơ đích thực. Người đó phải biết bắt gặp vẻ đẹp của thiên nhiên, nhạy cảm cả trước sự cô đơn cũng như những cái khôi hài của kiếp người, và nhất là biết lãnh đạm thờ ơ với xa hoa vật chất. Bashô đặc biệt sung sướng nếu gặp được những con người như vậy và đó là một trong những lý do đã khiến ông thường xuyên cất bước lữ hành.

Thế nhưng những bài haibun thể hiện được rõ ràng ý tưởng và tình cảm của Bashô là những bài được xếp vào tụ điểm thứ ba, liên quan đến những sự vật đặc biệt và sự kiện. Bắt nguồn từ những sự kiện có thực vừa xảy ra, chúng là những mảng thông tin về cuộc sống ngoại giới và nội tâm nhà thơ và đã được tìm thấy rải rác đó đây trong những trang nhật ký của ông. Tuy nhiên ta khó lòng tìm thấy một định hình chung cho haibun thuộc tụ điểm này. Đôi khi chúng bắt đầu bằng phần miêu tả sự kiện liên hệ rồi trình bày phản ứng của nhà thơ trước sự kiện đó và kết thúc bằng một bài haiku. Đôi khi chúng lại khởi đầu bằng một đoạn thuyết minh đại cương về thiên nhiên hay về cuộc sống, thế rồi đi tiếp bằng cách thảo luận về nếp sống của nhà thơ dưới ánh sáng của những lời thuyết minh ấy, để cuối cùng được kết thúc bằng một vần haiku. Chẳng hạn trường hợp bài haibun sau đây mà Bashô đã viết ra vào mùa thu 1690:

Unchiku19, một nhà tu sống ở vùng Kyôto, có lần vẽ một bức tranh giống như chân dung tự họa. Đó là tranh một thiền sư đang quay mặt đi về phía khác. Unchiku cho ta xem tranh và nhờ ta viết đôi dòng đề từ cho nó. Ta bảo: “Thầy trên 60 tuổi, còn tôi đã xấp xỉ 50. Cả hai chúng ta đều sống trong một cuộc đời mộng ảo và bức tranh này cũng mô tả một con người đang sống trong thế giới mộng đó thôi” Thế rồi, qua mấy vần sau đây, ta mới ghi lại bên cạnh bức tranh câu chuyện về những người đang mơ ngủ đó:

Kochira muke
Ware mo sabishiki
Aki no kure

Quay mặt phía này đi, 
Vì lòng ta cũng nhuốm,
Nỗi sầu của chiều thu.

Nhà sư Unchiku (1630-1703) tương truyền là một nghệ sĩ và là thầy dạy thư pháp cho Bashô. Cái hay của bài haibun này là nó đã cho ta thấy nền tảng tình bạn giữa hai người cũng như của nhiều người khác nữa. Thi nhân đã thấy mọi người đều cô đơn, không nơi nương tựa trong cuộc đời mộng ảo này. Bằng một cách nghịch lý, ông đã xem chính sự cô đơn đó mới là mối giây thắt chặt ông với tha nhân. Riêng bài haiku có một chút bỡn cợt nhưng không dấu nổi niềm cô đơn sâu lắng thấy trong thơ.

Nội dung bài haibun tiếp theo đây cũng tàng ẩn thái độ của Bashô về cuộc đời. Nó được viết vào mùa thu 1692, khi người ta đem những cây chuối vào trồng trong vườn Am Bashô vừa mới được cất lại lần thứ hai (Bashô-an III):

Một người đáng cho ta nể là kẻ không để điều chi làm vướng bận tâm hồn. Đáng khen thay những ai không mang chút chi tài nghệ và kiến thức của người đời. Dường như kẻ lang thang không nhà cũng giống y như thế. Sống được một cuộc đời như vậy thực ra cần phải có ý chí sắt đá, một sức mạnh tinh thần vững chãi không thể nào tìm thấy nơi kẻ như cánh bồ câu yếu ớt20. Có một lúc, như bị cuốn vào một cơn bão lốc, ta bỏ nhà ra đi và rong ruổi trên miền Bắc với một chiếc nón lá rách tả tơi. Ba năm sau ta lại quay về bờ đông con sông Edo, buồn bã nhìn dòng nước tách ra đôi đường21 trong một ngày thu. Ta đã đổ giọt lệ hoài niệm cho những khóm hoàng cúc cũ22. Thế rồi học trò ta là các anh Sanpuu và Kifuu đã có lòng tốt dựng lại cho ta một túp lều mới, từ đó còn thêm bao nhiêu là đồ vật bày biện thanh nhã đến từ sự giúp đỡ của Sora và Taisui23, hai người này vốn yêu chuộng vẻ đẹp đơn sơ. Lều quay mặt về hướng nam nên có thể chịu đựng gió bấc mùa đông và cái nắng ngày hè. Cạnh bờ ao lại dựng hàng dậu tre, hết sức tiện lợi cho ai muốn ngắm trăng. Thật vậy, cứ mỗi buổi chiều ta đều lo lắng không biết có mây hay mưa gì không, cho dù khi trăng hãy còn mới thượng tuần. Mọi người đem đến cho ta bao nhiêu thứ đồ dùng để giúp ta sống được cuộc sống thoải mái ở đây: bồ thì đầy gạo và bình không bao giờ vơi rượu. Mặc dù túp lều đã khuất sâu vào sau những lùm trúc và rặng cây, họ còn mang đến trồng thêm mấy bụi chuối để cảnh trăng lên thêm phần thi vị. Lá chuối đã dài gần hai thước (ta) và có thể đem phủ gọn một chiếc đàn koto hay làm túi xách mang đàn biwa24. Trong gió, những tàu chuối phất phơ như đuôi chim phượng và trong cơn mưa chúng bị tước ra khác nào những tai rồng xanh. Những tàu lá non còn đang cuộn mỗi ngày một trưởng thành giống như sự học vấn theo thuyết của Hoành Cừ tiên sinh; và đến khi đủ sức để tỏa ra rồi thì ta có cảm tưởng chúng đang đợi nét bút của thánh tăng Hạo Nhiên vậy. Nhưng dù sao, khác với hai vị đó, ta chẳng thu lượm được một điều gì có ích từ những cây chuối ấy. Ta chỉ khoan khoái nhìn bóng râm mát của chúng và yêu những tàu là chuối vì chúng dễ bị gió mưa làm cho tơi tả.

Bashô-ba wo
Hashira ni kaken
Io no tsuki

Những tàu lá chuối xanh
Vắt ngang qua cột lều
Khi ta ngắm trăng thanh.

Hoành Cừ tiên sinh ở đây ám chỉ Trương Tái25, nho gia tân Khổng giáo đời Tống, người từng viết một bài thơ những mong tri thức của mình ngày càng phát triển nhanh như những đọt chuối non. Còn thánh tăng Hạo Nhiên, cũng được biết dưới tên Hoài Tố26, là bậc đại sư về thư đạo đời Đường; khi ông hãy còn trẻ và nghèo, thường lấy lá chuối làm giấy để luyện thư pháp. Cả hai người đều là những tài năng mà Bashô trọng vọng. Thế nhưng Bashô cảm thấy mình không thể nào theo gót họ vì kiến thức tân Khổng giáo cũng như thư pháp đều là những “tri thức thế tục” và “tài năng thế tục” làm tổn hại đến tâm hồn. Mục đích tối hậu của Bashô là làm sao để được giải phóng khỏi tất cả, dù nghệ thuật hay triết học. Dù vậy, ông chỉ khiêm tốn bày tỏ rằng mình khó lòng đạt được yêu cầu trên và ông tỏ ra quá tốt bụng để từ khước tấm lòng thơm thảo của một số đệ tử giàu có vẫn muốn cho thầy mình có một cuộc sống đầy tiện nghi. Vì lẽ đó, ông đã vui vẻ chấp nhận đứng trong thế giới của người thế tục trong khi vẫn giữ được những lý tưởng cao hơn họ. Bằng một văn phong tiêu biểu của haibun, đoạn văn xuôi trên đây đã mô tả được lối sống của Bashô lúc cuối đời. Bài haiku đặt dưới cùng tỏ ra đầy ý nghĩa nếu ta hiểu nó theo lối đó.

Bài haibun dài nhất của Bashô là Am đời hư ảo (Genjuu an no ki)27 cũng có hình thức một bài văn trần tình. Đó là một haibun đẹp nhất mọi thời. Nó đã trình bày được kỹ thuật haibun của Bashô lúc cực thịnh. Ông đã viết đi viết lại nhiều lần, mỗi lần lại suy nghĩ và kén câu chọn chữ so với bản thảo có trước. Có lúc ông còn nhờ Kyorai28 và người anh của ông này ráng làm thế nào cho nó hay hơn. Như tựa đề đã cho thấy, đây là bài haibun ông viết về chỗ trú ngụ của ông vào mùa hè 1690 tên là am Genjuu (Huyễn Trú) bên bờ hồ Biwa. Bản thảo cuối cùng xem như hoàn thành vào mùa thu trước khi ông rời nơi ẩn cư trong núi ấy.

Bút ký này có cấu trúc chặt chẽ, mạch lạc. Nó bắt đầu bằng những dòng giới thiệu ngắn gọn về nơi chốn. Câu đầu tiên định vị trí cái am ở lưng chừng đường lên núi, nấp sâu sau đám cây rừng. Nó cũng cho ta biết là có một ngôi chùa cũ từ thời xa xưa và một ngôi đền Thần đạo hãy còn đứng vững ở gần khu vực của am. Những thông tin đó nhấn mạnh tình cảm lẻ loi của người đi ở ẩn đối với xã hội bên ngoài. Trong những dòng kế tiếp, tác giả giải thích tại sao cái am mang tên như thế: nó bắt nguồn từ người đã từng trú ngụ ở đó, vị tăng Genjuu (Huyễn Trú). Dĩ nhiên nhà tu hành ấy đã mất từ lâu.

Sau khi nói về bản chất cô độc lẻ loi của nơi chốn, Bashô tiếp đến tập trung bàn về bản thân mình. Ông tự ví mình như một con sâu nằm trong tổ kén nhưng đã đánh mất cái bọc, như một con ốc sên đã rời cái vỏ ốc. Ông bảo mình là kẻ không nhà và cho biết đã từng làm những cuộc lữ hành trên khắp nước, mới đây vừa rong ruổi suốt miền Bắc đầy gian nguy. Nay thì ông đặt chân đến bên bờ hồ Biwa và trú tại am này từ mùa hè 1690. Trong phần cuối cùng của haibun, ông thú thực rất bằng lòng với chỗ cư ngụ mới.

Phần thứ ba và cũng là phần chính của bút ký miêu tả cuộc sống của Bashô ở am Huyễn Trú, chứng minh tại sao ông thích cuộc sống ấy. Trước tiên, tác giả giải thích rằng ông yêu vẻ đẹp của thiên nhiên với những lùm hoa đỗ quyên, hoa tử đằng, tiếng chim tử quy, chim quà quạ. Hai là ông được tự do ngắm phong cảnh cho đến thỏa mãn, ví dụ như cảnh hồ Biwa và những nếp núi xa gần. Khu vực ấy lại đầy dẫy di tích lịch sử và gợi lên được bao nhiêu là tứ thơ trong tâm hồn của người ngắm cảnh đa sầu đa cảm. Trong khi thưởng thức những cảnh vật ấy từ xa, lòng ông nhớ về kỷ ức về một thời xa vắng. Ba là ông luôn luôn được sống tự do, lười biếng một cách liên tục và thỏa thuê. Được giải phóng khỏi những câu thúc của xã hội, ông có thể đánh một giấc trưa khi mí mắt trĩu, nấu được một bữa cơm khi cảm thấy bụng đói. Ban ngày, ông có thể ghé tai nghe nông dân kể chuyện ruộng đồng, ban đêm một mình lững thững ngắm trăng, để tâm hồn chìm đắm trong suy nghĩ vẩn vơ.

Sau khi đã trình bày về cuộc sống hiện tại của mình như thế rồi, Bashô chuyển sang phần nói về những tình cảm nội tâm. Phần thứ tư và cũng là phần chót của bút ký là phần nội tỉnh (introspection) nơi Bashô đào sâu vào tâm hồn mình:

Dù những lý do như thế nhưng không có nghĩa là ta quyến luyến sự cô đơn và chỉ muốn vào núi ẩn cư một lần cho trót. Đúng hơn ta là kẻ bệnh não đã rời xa xã hội sau khi mệt mỏi vì phải sống giữa chốn xô bồ. Khi nhìn lại những tháng năm không thỏa mãn, ta mới nhớ rằng có lần mình đã muốn sao cho có được một chức vị trong chốn quan trường mà hưởng lộc điền, lúc lại lo âu không biết có nên tự khép vào giữa bốn bức tường tu viện hay chăng. Rốt cuộc, ta tiếp tục cuộc sống lang thang không mục đích như mây bay gió cuốn nhưng đồng thời khổ công tìm cách bắt lấy cái đẹp của lá hoa chim chóc. Thật ra, điều đó đã trở thành ý nghĩa cuộc sống của ta; và nhân vì không có tài cán đặc biệt nào khác, đành bám vào những hàng thơ mỏng manh này. Tấm lòng ta đối với thi ca chẳng khác chi Bạch Cư Dị hay Đỗ Phủ29, những người vì tận tụy làm thơ nên gầy yếu hom hem. Nói thế chứ ta nào dám so đo với hai thi hào Trung Quốc về mặt hiểu biết cũng như tài năng. Chẳng qua cứ nghĩ trên đời này mọi nơi mọi chốn đều là một chỗ trú chân hư ảo. Viết đến đây, ta đã cắt ngang dòng suy tưởng và bỏ đi đánh một giấc.

Mazu tanomu
Shii no ki mo ari
Natsu-kodachi

Trước tiên chỉ xin sao,
Nhà thêm bóng cây shii,
Giữa bụi lùm mùa hạ

Đoạn văn này là tiểu đoạn chủ yếu của bài bút ký Am đời hư ảo (Genjuu-an no ki), một khi đem kết hợp với ba đoạn trước, ý nghĩa của nó càng thêm rõ. Phần đầu là đoạn Bashô đề cập về tăng Genjuu (Huyễn Trú), nhà sư đã dựng am, nay ông lại đặt mình vào địa vị người thừa kế chính thống. Thế rồi ông mô tả cuộc sống lang thang vô định bằng một giọng điệu hơi khinh thị (sâu kén, ốc sên) nên bây giờ cần phải biện minh. Phần thứ ba ông đề cập đến niềm vui được sống ở am Huyễn Trú, nay giải thích nó từ đâu đến. Thời trẻ, lòng ông từng dao động trước nhiều khả năng, từ khuynh hướng xuất sĩ có màu sắc vật chất hay xuất gia có màu sắc tinh thần. Từ những khả năng ấy, ông đã chọn lựa cái mà ông phải chọn: cuốc sống của một cánh chim bay vút vào không gian vô tận để ca ngợi cái đẹp của thiên nhiên. Dĩ nhiên đôi khi cánh chim ấy cũng phải dừng lại nghỉ ngơi, chẳng hạn trong tàng lá của một cây shii cao sừng sững, cho dù chỉ trong giây phút ngắn ngủi. Bài haiku cuối cùng mang đặc tính mơ hồ rất Bashô: không hiểu nó nói về một con chim đang đậu trên cành cây shii (một loại dẻ), về người khách ngụ cư trong am Huyễn Trú hay về tất cả loài người vốn đang sống trong một chỗ nghỉ ngơi tạm bợ giữa dòng thời gian chuyển dịch không ngừng?

Để kết thúc cuộc thảo luận về haibun của Bashô, chúng ta phải trở lời câu hỏi: đâu là sự khác nhau giữa một bút ký haibun và bút ký thông thường? Một câu trả lời thường hiện ra ngay trong trí là haibun – tuy không bắt buộc – thường được kết thúc bằng một haiku. Nó như ngầm bảo haibun là hình thức văn xuôi hoàn hảo để bổ túc cho haiku. Như đã từng nói, haibun có nghĩa là haiku tản văn, là văn xuôi viết theo tinh thần của haiku. Tất cả những phẩm chất của haiku được thấy trong haibun qua những bộ phận văn xuôi tương ứng.

Lại nữa, haibun giống haiku ở chỗ ngắn gọn, cô đọng. Haibun rất ngắn, có khi chỉ cỡ 150 hay 250 chữ. Chính nhờ sự ngắn gọn đó mà người viết bắt buộc phải cô đọng câu văn đến mức tối đa để tránh những chữ thừa thãi, và trên thực tế, nhiều khi bỏ qua những chữ đáng lý ra cần thiết trong ngữ pháp thông thường. Dù khi dịch sang tiếng Anh, ta không nhận ra điều đó nhưng trong nguyên bản, động từ của thuật từ (predicate verb) trong câu lại không được nhắc tới khiến cho người đọc phải tự tìm kiếm mà điền vào. Một yếu tố văn thể khác là việc cố ý dùng một cách mờ mờ ảo ảo những hình thái từ bất biến (particles forms)30 và động từ (verb forms) ở những chỗ mà đúng ra khi dịch sang tiếng Anh, người ta sẽ phải dùng tiếp-tục-từ “and” (và). Chính vì có rất nhiều haiku đã sắp cạnh bên nhau hai sự vật hoàn toàn xa lạ mà không cho biết về mối tương quan giữa chúng, haibun cũng “kết hợp” hai câu văn được móc nối vào nhau bằng một chữ “và” mơ hồ, bắt người đọc phải tự giải nghĩa. Đôi khi ngày cả chữ “và” này cũng bị bỏ qua luôn và hai câu văn cứ như được treo bên nhau nhưng không có giây nối nào rõ rệt. Người đọc phải “nhảy phóc qua” (leap) từ một câu này sang câu nọ bằng trí tưởng tượng của mình. Hãy lấy ví dụ câu văn bài haibun nói về Etsujin.”Anh uống rượu rất hào và khi anh say, thường ngâm những bài cổ ca. Anh là bạn ta”. Chữ “và” trong câu đầu có ý nghĩa hơi mơ hồ. Nhưng hãy còn có một bước “nhảy phóc qua” quan trọng hơn giữa hai câu trên. Giữa chúng không có chữ nối kết. “Anh là bạn ta đấy!” trở thành một kết luận có hiệu quả rất mạnh. Dĩ nhiên, sự thiếu vắng chữ kết nối giữa hai chữ, hai câu hay hai đoạn thì lại càng dễ lộ diện hơn trong văn bản Nhật ngữ; tiếng Nhật là một ngôn ngữ gắn chặt với những từ kết nối (tiếp-tục-từ).

Điều này cũng có thể được thấy trong mối tương quan giữa bộ phận haibun và bài haiku theo sau nó. Bashô chẳng bao giờ giải thích về những bài haiku đó, ông chỉ đơn thuần đặt nó ở cuối haibun của mình, thường không dùng một chữ nào để kết nối chúng. Người đọc do đó phải tự mình nắm bắt ý nghĩa của đoạn văn xuôi và sau đó của bài haiku rồi mới có thể đi tìm những ý nghĩa ẩn dấu bên trong cả hai. Hơn nữa, khi kết thúc bằng một bài haiku như vậy, người đọc có cảm tưởng có một cái gì không trọn vẹn. Việc ấy cũng đã từng thấy nơi haiku khi người ta quan sát cấu trúc của một số lớn haiku: hàng thứ ba không có động từ và bị cắt đứt khỏi hai vế trên về mặt ngữ pháp. Những bài haiku như vậy đã bắt buộc người đọc động não, bận rộn với việc bổ túc ý nghĩa cho cái hàng thứ ba kia. Cũng vậy, một haibun kèm thêm haiku thường mở rộng trí tưởng tượng của ta sau khi đọc xong. Điều đó khiến nhà thơ, đặc biệt trong lãnh vực haiku thường bỏ dở lửng lơ, tránh việc kết thúc như trường hợp văn xuôi.

Một đặc điểm khác nữa của haibun là nó rất tùy thuộc vào ảnh tượng. Dĩ nhiên, văn xuôi Nhật Bản trong mọi thể loại vốn đã nặng về ảnh tượng hơn lý luận rồi, thế nhưng haibun của Bashô còn đưa khuynh hướng này đến chỗ cùng cực. Những chữ có tính cách trừu tượng, tổng quát và khái niệm đã nhường chỗ cho hình ảnh cụ thể nhìn thấy được. Bashô đã dùng chữ “chim câu cánh yếu” thay vì “con người nhu nhược”, nói đến việc “nắm bắt được vẻ đẹp của lá hoa chim chóc” ta vì bảo mình “làm thơ”, hoặc “ta quay lại bờ đông con sông Edo, buồn bã nhìn dòng nước tách ra đôi đường trong một ngày thu. Ta đã đổ giọt lệ hoài niệm cho những khóm hoàng cúc cũ” thay vì bảo “ta về giữa Edo vào một ngày mùa thu”. Lợi ích của việc dùng ngôn ngữ có tính cách trang trí như vậy dĩ nhiên là hiệu ứng cảm xúc (emotional effects) của nó. Một câu văn mang đầy hình ảnh thường mở rộng biên giới trí tưởng tượng của người đọc bởi vì nó không được tri thức hóa. Câu văn của Bashô, đặc biệt trong các tác phẩm càng về sau, đều ngắn gọn và giàu hình ảnh, với một số tối thiểu tiếp tục từ.

Chúng ta đoán được ngay là có hai loại hình ảnh: hình ảnh thiên nhiênhình ảnh cổ điển. Hình ảnh thiên nhiên là lá, hoa, chim chóc và những loài cầm thú mà Bashô quen thuộc và ông đã dùng chúng như phương tiện để biểu hiện những xúc cảm của ông. Biệt hiệu Bashô tự thể là một hình ảnh gây ấn tượng đến từ thiên nhiên. Còn như những hình ảnh cổ điến thì chúng tạo ra hiệu ứng liên tưởng (associative effects). Độc giả phải đọc bài văn dưới ánh sáng những tác phẩm cổ điển Trung Hoa và Nhật Bản. Hình ảnh “con chim câu cánh yếu” dẫn dắt họ về tác phẩm của Đạo gia, trong đó, một con chim bồ câu ngu dốt đã chê cười chim phượng hoàng, còn hình ảnh người “nhỏ lệ tiếc thương những khóm hoàng cúc cũ” khiến họ trầm tư về một bài thơ thu của thi hào Đỗ Phủ.

Tự nhiên là haibun của Bashô sử dụng nhiều chữ Hán và nhân vì Hán tự là một văn tự biểu ý nên rất gợi hình. Văn tự Nhật Bản chỉ là những tín hiệu biểu âm thường bị bỏ qua hay bị thay thế bằng chữ Hán trong haibun của ông ngay cả ở những chỗ đáng lý nó phải được dùng. Thế nhưng việc sử dụng chữ Hán thường xuyên lại giúp cho câu văn được gọn ghẽ, bởi vì một âm Hán đã có thể thay thế hai, ba âm Nhật hay nhiều hơn. Điều này giúp cho haibun ngắn lại, dẫu chỉ là vẻ bên ngoài.

Cuối cùng ta có thể đề cập đến việc tác giả phải đặt một khoảng cách giữa mình với haibun. Không có một bài haibun tràn trề tình cảm hay có sức thuyết phục luận lý lại có thể xem như là haibun hay. Người viết phải thụt lùi trước chủ thể đối tượng, bình tĩnh quan sát cảm xúc của mình và ghi chép nó một cách hờ hững. Trong đoạn haibun cuối của Am đời hư ảo (Genjuu-an no ki), xem ra Bashô có đưa cảm xúc cá nhân vào, thế nhưng, trong câu cuối, ông vội rút ra ngay và bảo: “Viết đến đây, ta đã cắt ngang dòng suy tưởng và bỏ đi đánh một giấc”. Hai bài haibun nói về Etsujin và Kyorai sau sẽ đem biếu họ nhưng Bashô khi nói về hai người chỉ dùng ngôi thứ ba thay vì ngôi thứ hai để có một cái nhìn khách quan hơn về mối liên lạc giữa ông với họ. Nhiều khi nhờ giữ khoảng cách mà tác giả tạo được một chút hài hước. Nhất định là khi Bashô gọi người trong bức tranh và bảo hãy quay mặt về phía mình là ông có ý đùa bỡn. Ông cũng thơ thới khi nói về cái khó khăn không tìm ra một chỗ trong Nhà quả hồng rụng (Rakushisha) để qua đêm. Hay như khi ông ví những tàu lá chuối như đuôi phượng tai rồng. Chắc chắn là những biểu hiện hài hước đó không phải là không có liên quan đến khái niệm karumi (nhẹ lâng, lightness) trong haiku Bashô. Ở đây, chúng ta có thể trở lại điểm khởi hành của mình: xác nhận haibun là bộ phận trong văn xuôi tương ứng với haiku.

II) Kikôbun (紀行文, travel journal) hay nhật ký
ghi lại cuộc sống của một tâm hồn lãng tử:

Nhật ký ( nikki, journal) của Bashô rất giống haibun. Chúng đều là văn chương sự du hành ( 行文kikôbun, du ký, travel journal) trừ một tác phẩm ngoại lệ31. Chúng chứa đựng những đoạn văn ông nói nơi chốn đã thăm viếng, người mình gặp và sự kiện đã xảy ra cho mình, theo một lối hành văn và phong cách giống như haibun. Đôi khi có những đoạn hầu như tương tự về bút pháp và chủ đề như haibun làm người ta nghĩ rằng nó chỉ là một phiên bản khác của haibun. Bài haibun về thắng cảnh Matsushima chẳng hạn dường như là bản nháp cho đoạn văn lữ hành viết về Matsushima trong Đường mòn miền Bắc (Oku no hosomichi) và tiểu đoạn cuối cùng của Am đời hư ảo (Genjuu-an no ki) có thể được xem như là bản đã sửa chữa công phu của một phân đoạn trong lời khai từ của thi tập Tráp đeo lưng cũ (Oi no kobumi). Còn nói đến bút pháp văn xuôi thì không thể nào phân biệt được một haibun với một nikki. Về mặt này, ta có thể xem như nhật ký của Basho chính là – hay ít nhất – một bài haibun.

clip_image008

Bashô và bạn đồng hành dưói nét bút Kyoroku (Hứa Lục)

Tuy thế, nikki (ở đây ám chỉ du ký, NNT) vẫn khác một haibun thông thường ở một phương diện rõ ràng và quan trọng: nikki thường dài hơn và có nhiều phân đoạn mà mỗi phân đoạn như thế tự thể là một haibun. Những phân đoạn tương tự haibun này đều có chủ đề, giọng văn và tâm trạng của riêng nó, được gộp chung làm một theo cách thức để trình bày một lời bình luận duy nhất về những phức tạp cuộc đời. Trên phương diện này, mối liên quan giữa nikki và haibun có thể so sánh với tương quan giữa haiku và renku (liên cú). Cũng thể như khi ta thích thú thưởng thức sự biến hóa trong tâm trạng những câu thơ (của các tác giả khác nhau, NNT) đã hình thành renku, ta cảm thấy thư thái khi tham dự vào những biến chuyển tâm tình của người lữ khách lúc theo chân anh từ nơi này qua nơi khác trong nhật ký lữ hành của anh. Và nhân vì renku nương theo một tiến trình nhất quán (coherent progression) qua những câu thơ kết nối nó lại, trong nikki cũng có một khuynh hướng chiếm ưu thế kết hợp được một số chủ đề và giọng văn để có thể chi phối toàn bộ các bộ phận của nó. Phải như thế mới được bởi vì với vai trò đối tượng được đánh giá như một tác phẩm văn chương, nikki không thể chỉ ghi lại một chuỗi ngày tháng (sequence of dates) mà phải đem lại những thành quả (consequences) lớn hơn thế nữa.

1. Dọc đường mưa gió (Nozarashi Kikô, 野ざらし紀行, 1684-1685):

Bút ký (nhật ký có tính cách văn chương) đầu tiên của Bashô là Dọc đường mưa gió (Nozarashi Kikô) đã được viết ra trong lúc ông làm một cuộc lữ hành dài về miền Tây vào khoảng năm 1684-85. Nó đã đưa ông đi trên hơn mười hai tỉnh nằm giữa Edo và Kyôto. Về phương diện văn học mà nói, bút ký này hãy còn nhiều chỗ bất toàn cho ta thấy Bashô lúc đó còn thiếu kinh nghiệm viết nhật ký. Văn xuôi của ông lúc đó chưa có cái phong phú vả thanh nhã trong những bút ký về sau cho dù những bài haiku rải rác đó đây trong những đoạn văn haibun, ở một trình độ nào đó, đã chứng tỏ Bashô từ sớm đã có kinh nghiệm trong lãnh vực thi ca. Ngoài ra, lúc ấy bộ phận văn xuôi và bộ phận thơ chưa có một sự hòa điệu và quân bình. Thường thường phần văn xuôi chỉ có phận sự làm lời chú thích đầu bài (headnotes) cho vần haiku theo sau; ta đặc biệt nhận ra điều đó ở nửa sau của Dọc đường mưa gió, khi mà những chú thích đầu bài ấy chỉ còn cụt lủn trong một, hai hàng. Nếu nhìn toàn thể thì bút ký này quả là yếu kém về sự thăng bằng giữa hai bộ phận.

Dù sao Dọc đường mưa gió rõ ràng vẫn có một chủ đề chiếm ưu thế trong nội dung và tỏ ra là một chuỗi sự kiện nhất quán nằm bên duới cái bề mặt lủng củng của nó. Chủ đề có thể được đặt ra ra “tìm về giải thoát”. Làm sao để cho con người mà số phận bắt liên tục có những xâu xé nội tâm có thể đạt đến sự bình an trong tâm hồn? Đây là mục đích chính mà Bashô nhắm tới khi cất bước lữ hành. Ông đã bày tỏ rõ ràng trong đoạn văn mào đầu tác phẩm:

Người thời xa xưa, khi làm một chuyến lữ hành dài, không mấy khi phải mang theo lương thực32, thế mà nghe kể lại rằng họ đã tìm ra được sự giải thoát cho tâm hồn một cách hoàn toàn khi đứng dưới ánh trăng thanh. Dựa trên cây gậy đi đường của những lữ khách ấy33, ta đã bỏ lại đằng sau túp lều hoang phế của mình cất bên bờ sông vào tháng tám năm Jôkyô nguyên niên34 khi gió thu áo ào nổi dậy, luồn trong đó bao nhiêu là rét mướt.

Nozarashi wo
Kokoro ni kaze no 
Shimu mi kana

Xương trắng phơi ngoài nội
Ám ảnh mãi trong hồn
Gió lạnh buốt thân côi.

Bashô càng ngày càng thấu hiểu nỗi khổ cuộc đời, mong tìm thấy một “tâm cảnh được giải thoát hoàn toàn” bằng bất cứ phương tiện nào. Một giải pháp được cổ nhân đề nghị là hãy làm những chuyến lữ hành: lên đường với bao nhiêu rủi ro bất trắc đang đón chờ, kể cả cái chết. Bashô quyết định chọn giải pháp này và ông biết rằng để thực hiện nó, ông có thể mất mạng. Ông tưởng tượng trong đầu hình ảnh của đầu lâu, hài cốt dầu dãi giữa đồng hoang và bị tuyết mưa vùi dập. Biết thế rồi, ông vẫn mạo hiểm. Nếu như những bài haiku lúc đó của ông có đôi chút màu sắc tự hào chỉ vì ông cần một thứ hùng tâm giả tạo mà chúng ta đều cần đến, khi phải đối đầu với cái chết. Bashô chưa sẵn sàng chết, và chính vì vậy, ông phải cường điệu là mình hoàn toàn có quyết tâm trong tư thế trực diện với cái chết.

Hơn thế, chúng ta đều biết là những cuộc lữ hành vào thế kỷ thứ 17 ở Nhật Bản nguy hiểm hơn vào thời nay nhiều. Thực sự là vừa mới lên đường, ông đã chứng kiến cảnh con người phải đối đầu với chết chóc. Trong đoạn văn thường được trích dẫn từ Dọc đường mưa gió, ông viết:

Trên con đường dọc theo bờ sông Fuji35, chúng tôi bắt gặp một đứa trẻ bị bỏ rơi. Em bé mới lên hai và đang khóc lóc thảm thiết. Hình như cha mẹ của em thấy rằng những đợt sóng của đời phù thế không thể nào kìm hãm được, nó giống như dòng lũ dữ dội của con sông này. Phải chăng đó là lý do họ đã vứt bỏ em ở đây cho đến khi đời của em tan biến như một giọt sương mai. Em bé giống như một chùm hoa hagi dại, có thể một sớm một chiều ngả nghiêng vì trận bão mùa thu. Tôi nhường lại cho em ít lương thực lấy từ túi áo và gieo những vần sau đây khi rời khỏi nơi đó:

Saru wo kiku hito
Sutego36 ni aki no
Kaze ika ni

Nhà thơ sầu vượn hú37,
Nghĩ gì trẻ bỏ rơi?
Khi gió mùa thu nổi.

Làm sao chuyện này có thể xảy ra được? Có phải em đã bị cha mẹ bỏ bê hất hủi? Không đâu, cha chẳng hất hủi em, mẹ chẳng bỏ bê em đâu! Đó là định mệnh Ông Trời sắp đặt mà thôi. Em chẳng còn cách chi khác ngoài việc than van cho số kiếp bất hạnh của mình.

Trong khoảnh khắc này, Bashô giải quyết vấn đề bằng cách dựa vào thuyết định mệnh. Cuộc đời này vốn có quá lắm sự tàn nhẫn, và đôi khi con người có thể mất mạng vì một lý do phi nhân và phi lý. Thế nhưng đó là số Trời đã định và chúng ta không thể làm cách nào hơn là nhẫn nhục tuân theo. Khi hiểu cái sự thật là cuối cùng có ngày mình cũng phải đầu hàng số mệnh, có lẽ Bashô hết sức xuống tinh thần. Giọng văn vô cùng thương xót và ảnh tượng đầy tình cảm ở đây dường như gợi cho ta thấy có một sự cố gắng trong ý thức muốn đè nén cái phần bên trong nội tâm ông đang muốn chống trả lại thuyết định mệnh. Bài haiku này có 19 âm tiết thay vì 17 như thông thường, bìểu lộ cảm xúc của ông như đang tràn bờ.

Ở một chỗ khác ông đã để nỗi lòng bức bách và không sao giải quyết của mình tuôn trào thực sự. Việc này sau có ghi vào nhật ký. Đó là khi ông trở về sinh quán để được thấy một lọn tóc của người mẹ già nay đã mất (trong thời gian ông vắng nhà, NNT). Như đã trình bày, Bashô hạ bút viết bài haiku sau đây:

Te ni toraba
Kien namida zo atsushi
Aki no shimo

Cầm lấy giữa lòng tay,
Tan theo lệ nóng bỏng,
Là một giải sương thu38.

Lại thêm một bài thơ với thể 5-9-5 bất thường vốn gợi cho ta thấy một sự tuôn trào tình cảm không kìm hãm nổi. Thế nhưng bài haiku này hàm chứa một yếu tố mà ta không thấy trong hai bài dẫn ra trước đó, nó đã giúp cho ta hiểu Bashô đang trên đường tìm ra giải pháp. Ảnh tượng chính là sương thu. Trong đầu Bashô, ông đã chuyển hóa lọn tóc mẹ già thành một giải sương thu, và khi làm như thế, ông có thể dấu được nỗi buồn cá nhân vào trong một nỗi buồn phổ quát rộng lớn hơn. Nhờ đó, ông có thể nhìn thấy nổi buồn mình từ một tư thế khách quan, và vì vậy, trầm tĩnh. Khi so sánh lọn tóc bạc với sương thu là đã xem nó như một phần của thiên nhiên vốn chuyển đổi không ngừng.

Có những sự kiện khác đã được ghi chép lại trong Dọc đường mưa gió, chứng minh một cách cụ thể sự trưởng thành dần dà của Bashô. Một trong những sự kiện đó đã xảy ra trong đoạn đầu của cuộc hành trình và đưa đến việc sáng tác bài haiku sau đây:

Michinobe no
Mukuge wa uma ni
Kuwarekeri

Nở thắm bên bờ đường,
Mukuge hồng ngát,
Bị ngựa ta ngoặm mất.

Bài thơ hãy còn hơi lửng lơ nhưng qua đó, ta có thể ngờ rằng nhà thơ đã có một mức độ tình cảm tương thân nào đó đối với đóa mukage (mộc cẩn) hồng ngát (tương thân giữa con người và thiên nhiên, NNT). Tuy vậy, một sự kiện khác chứng minh rõ rệt hơn bản chất sự trưởng thành của Bashô được ghi ở khoảng giữa du ký. Khi ấy, Bashô đang viếng thăm một ngôi chùa Thiền gần Nara, nơi ông thấy có một cây tùng cổ:

Sô asagao
Iku shinikaeru
Nori no matsu

Sư và hoa triêu nhan
Đến rồi đi, bao đời,
Dưới bóng tùng chính pháp.

Bài haiku này hơi có ý dạy dỗ, khó thể cho là thơ hay. Thực tình, phải xem nó như một bài ca tán mỹ (hymn) có tính cách tôn giáo. Một lần nữa, Bashô đã để trào lòng của ông bị lôi cuốn nên không thể đẻ ra thơ hay. Sơ hở hết sức lớn này chứng tỏ ông quá hối hả đi tìm một giải pháp cho thơ mình.

Phần thứ hai Dọc đường mưa gió bắt đầu hé lộ một số thành quả của việc tìm kiếm sự bình an trong tâm hồn của Bashô. Ông không còn đặt bút viết những câu văn oai hùng, to tát nữa, và cũng không có cái giọng quá ư thương cảm. Ông trở nên bình tĩnh hơn và có thể lấy một khoảng cách để tự ngắm mình từ xa. Thực vậy, ông có thể xét lại lập trường quá khoa trương của mình khi đặt bút viết mấy hàng sau:

Đến Ôgaki, ta trú lại ở nhà Bokuin39. Ta hồi tưởng lại ám ảnh về đầu lâu và xương trắng bị mưa vùi gió dập khi ta vừa khởi hành từ vùng bình nguyên Musashi40.

Shimi mo senu
Tabine no hate yo
Aki no kure

Vẫn thấy mình chưa chết,
Sau bao đêm bờ bụi.
Cô lữ giữa chiều thu.

Chúng ta có thể tưởng tượng Bashô như đã mỉm cười khi trao bài haiku cho Bokuin đêm đó. Sự khách quan hóa bản thân và một chút hài hước nhẹ nhàng ở đây cũng lại được nhận ra trong một bài haiku khác nằm ở vài đoạn bên dưới:

Kyôku41

Kogarashi no
Mi wa Chikusai ni
Nitaru kana

Cuồng cú (Thơ ngông)

Ai đi trong gió bão
Giống thầy lang Chikusai
Lữ khách chắc là ta.

Chikusai là một nhân vật rất được yêu chuộng trong tiểu thuyết bình dân đương thời. Ông thầy lang vườn này sống đời phiêu du qua nhiều tỉnh và trên đường đã viết những bài thơ hài hước. Bashô thích thú khi tự ví với Chikusai. Ông bắt đầu biết thưởng thức cuộc đời ngao du kể từ đây.

Cũng dễ dàng đi đến kết luận là Dọc đường mưa gió đã không kết thúc cùng một lối như nó đã bắt đầu. Du ký chấm dứt bằng đoạn văn sau đây:

Vào khoảng cuối tháng tư, ta trở về mái lều cũ để lấy lại sức sau những nhọc nhằn của cuộc hành trình.

Natsugoromo
Imada shirami wo
Toritsukukazu

Trong áo mát mùa hè
Hãy còn vài chú rận,
Ta còn chưa tóm được.

Bashô đã dành 9 tháng trường để làm cuộc lữ hành. Trong thời gian đó, ông thu thập được nhiều kinh nghiệm khác nhau trên một bình diện khá rộng nhưng trong đó có một số ông không kham nổi. Nhọc nhằn đã hằn trên thân thể ông như vết cắn những con rận để lại trên da thịt người, và khi trở lại nhà rồi, ông mới có thể nhận ra. Những gì ông phải làm là hồi tưởng lại từng sự kiện, từng lớp lang của chuyến đi và bình tĩnh thể nghiệm chúng thêm một lần nữa trước khi xa lìa chúng bằng cách đặt tất cả lên mặt giấy. Đây có thể là một việc làm đem được sự tươi mát và phong phú đến cho tâm hồn, vực Bashô dậy từ tình trạng sức mòn lực kiệt. Bài haiku kết thúc bút ký đã trình bày một hình ảnh song đôi rất đạt: người lữ khách mệt mỏi săn lùng dăm ba chú rận sau một chuyến đi dài, nhà thơ hồi tưởng trong tĩnh lặng những cảm xúc đến từ một số kinh nghiệm mới. Giọng văn quá cảm thương trong đoạn văn bắt đầu du ký không còn thấy ở đoạn kết thúc. Thay vào đó là một thoáng hài hước: nỗi nhọc nhằn của cuộc hành trình xuất hiện dưới hình thù những chú rận. Trong truyền thống văn chương Nhật Bản, con rận (shirami) không nhất thiết là một con vật đáng ghét; chúng ta sẽ có dịp thấy trong phần kết thúc của Vầng trăng hạ (Natsu no tsuki 夏の月)42, nó được xem như là bạn đồng hành để mua vui của người ở ẩn yêu cuộc sống nhàn tản và đơn chiếc.

2. Chuyến hành hương đền Kashima (Kashima Môde, 鹿島詣, 1687):

Nhật ký (du hành) thứ hai của Bashô là Chuyến hành hương đền Kashima43 (Kashima Mode 鹿 嶋詣, còn gọi là Kashima Kikô 鹿 嶋紀行) thì ngắn hơn nhiều. Ngay cả cuộc hành trình cũng ngắn, bởi vì từ Edo đến Kashima đường chỉ có 50 dặm và Bashô thực hiện chuyến đi nội trong vài hôm. Không những độ dài nhưng ngay cả cấu trúc nó cũng khác với Dọc đường mưa gió bởi vì trong đó chỉ có phần trước bằng văn xuôi dành để giới thiệu và mô tả nơi chốn, phần sau bao gồm những bài haiku Bashô và những người bạn khác viết ở Kashima hay vùng kề bên. Như thế, cấu trúc của bút ký này giống như một haibun thông thường vì được tạo bằng phần văn xuôi ngắn nối tiếp bằng một hay nhiều bài haiku..

Lý do chuyến hành hương đền Kashima có tính cách thẩm mỹ. Bashô đến đó để ngắm cảnh vật thiên nhiên và qua đó, hòa điệu lòng với những nhà thơ trong quá khứ. Chuyến đi chơi tìm sự sáng khoái này có mục đích chính là xem thăm trăng ngày mùa ở Kashima và cảnh sắc vùng ven hồ44. Bashô đã viết ngay trang đầu bút ký:

Ta đã quyết chí đi thăm trăng ngày mùa ở Kashima vào mùa thu năm nay sau khi hồi tưởng với lòng mến mộ chuyến đi tương tự mà một nhà thơ tiền bối từng làm.

Bắt đầu, Bashô đã đi qua một số vùng phong cảnh hữu tình. Như khi đến Kumagai, ông được ngắm ngọn Tsukuba dựng lên sừng sững giữa giải bình nguyên rộng và nhớ lại một bài thơ xưa nói về nó. Ở làng chài Fusa, trong óc ông hiện lên hình ảnh nhà thơ du hành Trung Quốc đã viết về mùi cá thoảng đến cả căn phòng người ấy ngủ. Và khi đến địa điểm đích của cuộc hành trình, Bashô vô cùng cảm động trước vẻ đẹp của phong cảnh cho dù thời tiết hôm ấy không mấy tốt. Trong đoạn bài về khí hậu, ông hạ bút:

Mưa rào bắt đầu từ buổi chiều, rơi càng lúc càng nhặt. Trăng chắc khó thể hé ra vào tối nay. Ta nghe rằng vị trụ trì trước đây của chùa Konpon (Căn Bản Tự) đang sống ẩn cư dưới chân đồi cho nên tìm đến nơi ông cư trú và xin trọ qua đêm45. Như một thi hào Trung Quốc46 từng tìm được sự tĩnh tâm sâu lắng trong một ngôi chùa, ta cảm thấy mình cũng đã đạt đến sự thanh thản của tâm hồn vào một lúc nào đó trong đêm. Khi ánh bình minh bắt đầu le lói, ta bèn đánh thức nhà sư, những người chung quanh cũng lục tục dậy. Có ánh trăng đêm, có cả tiếng mưa rơi, vẻ đẹp của cảnh trí này choáng ngợp hồn ta làm ta không thốt được nên lời. Ta cảm thấy buồn khi nghĩ rằng mình đã phải vượt đường dài đến đây ngắm trăng mà không sao gieo được một vần thơ thật giá trị. Thế nhưng ta lại nhớ một bậc nữ sĩ nổi tiếng47 từng bảo, có lần bà đã không tài nào viết ra được một bài thơ hay về tiếng chim cuốc và cứ phải để nỗi bất an về nhà tay trắng ấy trĩu nặng trong lòng. Ta nghĩ bà đáng là người bạn đồng hành đồng điệu của ta trong buổi chiều hôm đó.

Mục đích thẩm mỹ mà Bashô nhắc ở đầu du ký đã được đẩy đến cùng cực ở phần cuối nảy. Vẻ đẹp vô hạn của thiên nhiên vượt quá khả năng hữu hạn của người nghệ sĩ. Thế nhưng ông không chút ngã lòng vì chuyện này, bởi nói cho cùng, ông chỉ là một người tham gia, một nhân chứng. Có thể ông không bắt lấy được cảnh vật bằng ngôn ngữ hay màu sắc nhưng ông có thể thu hết nó vào trong tâm hồn. Thi ca đâu chỉ là một hình thức diễn đạt, nó còn là một phương pháp tôi luyện tinh thần nữa. Thật là có ý nghĩa khi ông đã chọn ngắm trăng ngày mùa với một thiền sư. Bởi vì tinh hoa sâu thẳm nhất của Thiền Tông không thể diễn đạt bằnh lời nói, thành ra Bashô đã nhận thức rằng vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên thì khó có bút nào tả nổi.

Phần kế tiếp của đoạn văn xuôi gồm có 8 bài haiku mà Bashô là tác giả, 6 của hai bạn đồng hành, 1 tanka do nhà sư qui ẩn và 3 câu đầu của một renku Bashô tham dự. Đặc điểm trong 8 bài haiku của Bashô lần này là các ưu điểm như tính khách quan, phi cá nhân: giọng văn nồng nhiệt đi đến thương cảm quá đà trong Dọc đường mưa gió không còn bóng dáng nữa và nhà thơ, thay vì đưa tình cảm mình vào trong thơ, đã trình bày cảnh sắc thiên nhiên mà ông nhìn ngắm một cách bình tĩnh. Ví dụ:

Tsuki hayashi
Kozue wa ame wo
Mochinagara

Khi vầng trăng trôi nhanh,
Những ngọn cây như muốn,
Ghìm lấy trận mưa cho.

Shizu no ko ya
Ine surikakete
Tsuki wo miru

Bé con nhà nông nghèo,
Bỗng dừng tay xát lúa,
Ngẩng đầu nhòm ông trăng.

Imo no ha ya
Tsuki matsu sato no
Yakebatake

Những ngọn lá khoai lang,
Trên nương khô vì hạn
Thôn xóm đợi chờ trăng48.

Những bài hài cú này đều có liên quan đến trăng ngày mùa, đã nắm bắt vẻ đẹp của thiên nhiên qua nhiều hình dạng biểu hiện của nó. Nhà thơ chỉ là người chiêm ngưỡng vẻ đẹp thiên nhiên, một kẻ thụ động nhưng nhạy cảm.Vầng trăng đêm bão băng băng qua cánh rừng sũng nước, vầng trăng xưa cũ chiếu trên đầu đứa bé con nhà nông, hay vầng trăng trong tưởng tượng trên nương rẫy hạn hán – Bashô đều thưởng thức được cả ba. Những bài haiku này đã bổ sung cho chủ trương mà ông đã trình bày trong phần văn xuôi.

3) Tráp đeo lưng cũ ( Oi no kobumi, 笈 の小文, 1687)49:

Tráp đeo lưng cũ là tập du ký thứ ba của Bashô, ghi chép phần đầu chuyến lữ hành dài về miền Tây của ông vào năm 1687-88. Nó dài hơn hai du ký trước, đi theo bước chân của Bashô từ khi ông rời ngôi nhà bên bờ sông ở Edo, dọc theo bờ biển Thái Bình Dương cho đến khi ông về tới cố hương Iga Ueno. Tiếp đó, nó trình bày những cuộc du ngoạn ngắn của nhà thơ ở những nơi danh thắng trong khu vực như các ngọn núi Yoshino, Kôya, những bãi biển Wakanoura, Suma và kinh đô cũ Nara. Cuối cùng nó chấm dứt với Akashi50, cực tây của cuộc hành trình. Để ghi lại kinh nghiệm của chuyến lữ hành, Tráp đeo lưng cũ đã có một cấu trúc giống như Dọc đường mưa gió. Nó hình thành từ một số lượng haibun ngắn và hầu hết đều được kết thúc bằng một bài haiku, tất cả theo một thứ tự thời gian. Về lối viết văn xuôi thì du ký này gần gũi Chuyến viếng thăm đền Kashima nhưng với một ngôn ngữ tương đối thận trọng và những ảnh tượng khiêm tốn hơn.

Dù sao Tráp đeo lưng cũ cũng có một cái gì khác rõ rệt với hai tập bút ký trước đó, thời mà Bashô còn đặt nặng hơn về nhân sinh quan. Nhưng bây giờ Bashô không còn mò mẫm đi tìm một lối sống thích hợp cho mình nữa. Ông đã chọn lựa xong và biết hướng cuộc đời của mình đúng theo lựa chọn đó. Điều này đã được nhận ra rõ ràng ngay phần khai từ. Trong phần ấy, ông cũng đã nói giống như đoạn cuối của Am đời hư ảo. Ông hồi tưởng lại sự do dự của mình trong việc lựa chọn một hướng đi cho tương lai và tại sao cuối cùng ông đã chọn thi ca như nghề chính. Thế rồi, với một giọng văn dạy dỗ ít khi thấy ở các tác phẩm ban đầu, ông viết tiếp:

Nếu có một cái gì đã thấm đượm cả vào bên trong tanka của Saigyô51, renga của Sôgi52, hội họa của Sesshuu53 và trà đạo của Rikyuu54 thì đó là tâm hồn của người nghệ sĩ biết sống cùng thiên nhiên và làm bạn với bốn mùa. Mỗi vật họ nhìn hóa ra một đóa hoa, mỗi cái họ tưởng tượng biến thành một vầng trăng. Người không nhìn thấy được đóa hoa chẳng qua là một kẻ man rợ, còn người không nhận ra vầng trăng nào khác chi muông thú. Nên bỏ những kẻ vô văn hoá và cầm thú lại đằng sau. Hãy theo gót thiên nhiên và trở về với thiên nhiên.

Thực chất thì đây là phần nối tiếp và được lý thuyết hóa của chủ nghĩa duy mỹ đã thấy trong Chuyến viếng thăm đền Kashima. Nhận chân được vẻ đẹp của thiên nhiên không những là cách giúp con người dịu đi khổ não nhưng nó còn là điều căn bản để phân biệt con người với loài cầm thú. Đó là cơ sở của văn minh. Trình độ thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên của một người là thước đo mức độ văn hóa của kẻ ấy. Nếu là một người nghệ sĩ thì trình độ đó ắt phải cao hơn. Chính bởi khi người nghệ sĩ cảm nhận được cái đẹp nơi thiên nhiên, anh ta sẽ có thể tiến gần Đấng Tạo Hóa. Chỗ đứng của Bashô là của một nhà mỹ học theo chủ nghĩa nguyên thủy (aesthetic primitivist)55 cho nên ông mới khẩn khoản: “Hãy trở về với thiên nhiên”. Có thể nói đây là đề tài cốt lõi của Tráp đeo lưng cũ vậy.

Vẫn còn hào hứng thuyết lý, Bashô trong những câu sau đã trình bày rõ ràng hơn về nghệ thuật viết văn du ký: Thói quen viết văn du ký bắt nguồn từ hai ông Tsurayuki56, Chômei57 và ni sư Abutsu58. Họ đã giải bày những tình cảm thi ca trong những đoạn văn thật đẹp. Những người về sau cứ thế bắt chước nên không tiến bộ hơn các mô hình cũ. Bất tài vô tướng như ta thì hòng viết được gì đuổi kịp những tác phẩm danh tiếng của thời xưa.

Ai ai cũng có thể ghi chép rằng ngày hôm ấy trời mưa buổi sáng và tạnh buổi chiều, cây tùng nọ được thấy ở chỗ nào, và dòng sông kia chảy qua những địa phận nào. Thực vậy, chúng ta không thể nào viết một bút ký có giá trị trừ phi ta có một cái gì mới để nói, chẳng hạn những điều đã thấy trong văn Hoàng Sơn Cốc59 hay Tô Đông Pha60. Ít nhất ta phải nói rằng những gì thấy được trong chuyến lữ hành hãy còn đọng lại trong ký ức của ta và những nỗi nhọc nhằn kinh qua hãy là đề tài nói chuyện cho đến bây giờ. Những ghi chép đó sẽ giúp ta tìm về với thiên nhiên. Khi đã chắc chắn như thế rồi, ta bèn thu thập và kết nối các đoạn văn ghi chép những giây phút đặc biệt đáng nhớ của cuộc lữ hành. Hy vọng rằng độc giả sẽ tha thứ khi thấy ta làm việc này. Nó không khác chi cái anh say đang nói xàm hay kẻ mớ ngủ lầu bầu một mình.

clip_image010 Ki no Tsurayuki, tác giả Tosa Nikki

Ngoài đặc điểm là giọng điệu khiêm cung (bề ngoài, NNT) của ông, ta còn thấy Bashô có vẻ hết sức tự tin vào công việc mình làm. Ông đang mang đến một cái gì mới cho bút ký, một điều chưa hề thấy trong văn chương những tác giả nổi tiếng như Tsurayuki61 và ni sư Abutsu62. Bởi vì ông đã ghi chép cuộc lữ hành của một người cầm bút đang mong muốn một cách có ý thức được trở về với thiên nhiên, của một nhà thơ muốn theo chân thiên nhiên và làm bạn với bốn mùa. Bất cứ ai yêu thơ đều sẽ được một sự trợ giúp từ ông để tìm về thiên nhiên khi đọc bút ký này. Còn như đối với những người khác thì nó không đáng chi cả, nếu không là những lời ba láp ba xàm của người say hay tiếng lầu bầu của anh ngủ mớ.

clip_image012 Kamo no Chomei, tác giả Hôjôki

clip_image014 Abutsuni, tác giả Izayoi Nikki

Phần cuối của Tráp đeo lưng cũ tuy chính yếu là miêu tả những biến cố xảy ra dọc đường nhưng đã phản chiếu lòng tin của Bashô vào mỹ học theo chủ nghĩa nguyên thủy này. Có một vài đoạn cho ta thấy ông cố gắng tiếp cận Hóa Công bằng những phương pháp lồng sự tồn tại này vào trong một đối tượng trong thiên nhiên. Chẳng hạn như bài thơ ông viết khi viếng thăm Đại thần cung Ise:

Nan no ki no
Hana to wa shirazu
Nioi kana

Từ hoa cây nào nhỉ,
Đến tên còn chưa tường,
Thoảng lại một làn hương.

Làn hương thoáng nhẹ lan trong khu thánh địa và nhà thơ không thể bảo nó đến từ cây nào. Quỳ trước ngôi đền và thưởng thức làn hương ấy một ít lâu, ông như đưa hồn mình vào một huyễn ảnh xuất phát từ thế giới bí ẩn của chư thần cổ đại. Cách đó không xa là một bài haiku khác cũng rất thú vị:

Nao mitashi
Hana ni akeyuku
Kami no kao

Giữa lùm hoa bình minh,
Điều ta những mong đợi,
Là lộ mặt ông thần.

Vị thần được thờ phượng trong đền trên núi Kazuraki gần Nara tương truyền có bộ mặt xấu xí khó coi.Thế nhưng nhà thơ đã muốn tiếp cận sức mạnh thiêng liêng này như một phương tiện hội nhập vào với thiên nhiên bởi vì ông không nghĩ vị thần có thể xấu xí trong khi thế giới thiên nhiên bao bọc chung quanh đền thần lại đẹp đến như vậy. Ông suy rằng có thể tín ngưỡng trong dân gian đã có hình ảnh không chính xác về vị thần này và ông càng lúc càng nôn nóng biết cho được khuôn mặt thật của vị thần đó.

Bài haiku sau đây đã được Bashô làm ra khi ông đi viếng di tích một ngôi đền ở Awa trong vùng Iga gợi cho ta thấy ông đã thực sự gặp được Đức Phật:

Jôroku ni 
Kagerô takashi
Ishi no ue

Từ bên trên bệ đá,
Hơi nắng ấm bốc lên
Thân ngài cao trượng sáu.

Trong đoạn văn xuôi đi trước bài haiku, Bashô đã nói rõ rằng không có gì được xây dựng trên cái bệ đá bị mưa gió dập vùi này và hình ảnh của Đức Phật đã từ lâu biến mất. Cái mà nhà thơ thấy chỉ là hơi nắng ấm mùa xuân (kagerô) dâng lên như làn sóng, một biểu hiện của sức sống thiên nhiên. Thế nhưng khi nhìn chăm chăm vào nó, ông thấy hiện ra những làn hơi ấm mỏng ấy dần dà kết thành hình dạng của Đức Phật

Dĩ nhiên, trong Tráp đeo lưng cũ có những đoạn haibun và những bài haiku đề cập đến một số chủ đề đặc thù khác. Thế nhưng không ai có thể phủ nhận là trong bút ký này, Bashô đã tỏ ra hạnh phúc hơn, tự tin hơn và không còn ưu tư nữa. Bút ký chứa đựng một số haiku có tính vui đùa hiếm thấy ở những tập khác. Ví dụ bài sau đây viết ở Nagoya sau một trận mưa tuyết:

Iza yukan
Yukimi ni korobu
Tokoro made

Hãy ra ngoài chơi nào,
Dạo đến khi trượt chân
Ngả lăn đùng giữa tuyết.

Một bài thơ khác viết vào dịp Tết Nguyên Đán, khi ông ngủ quá say nên dậy muộn, không tham dự được những nghi lễ cử hành vào lúc sáng mồng một:

Futsuka ni mo
Nukari wa seji na
Hana no haru

Bước qua ngày mồng hai,
Phải để tâm một chút,
Xuân đang độ hoa khai.

Đây không phải là những bài thơ nghiêm trang và Bashô không cố ý lập nghiêm. Dù vậy, ông cũng ghi nó vào trong bút ký, có lẽ vì nó thể hiện được một cách trung thành tâm trạng vui vẻ của ông lúc đó.

4) Chuyến viếng thăm thôn Sarashina (Sarashina Kikô, 更科紀行, 1687):

clip_image016 Rừng thu bên sông

Tiếp theo đây là Chuyến viếng thăm Sarashina63, bút ký thứ tư và ngắn nhất trong chùm bút ký của Bashô. Cũng như bút ký ngắn Chuyến hành hương đền Kashima trước đó, cấu trúc của bút ký này cũng tương tự như một haibun: phần đầu văn xuôi, phần sau là thơ. Giống như thế, mục đích của chuyến đi là xem trăng ngày mùa ở một nơi thôn dã cổ xưa và chủ đề của bút ký đặt trọng tâm vào đó. Bashô đã bắt đầu bút ký bằng câu: “Lòng ham muốn được đi ngắm trăng ngày mùa ở ngọn núi Obasute64 gần thôn Sarashina càng ngày càng mạnh trong ta mỗi lần thấy trận gió thu nổi dậy….”. Sau đó, ông giới thiệu hai bạn đồng hành với mình trong chuyến đi này: một người là Etsujin, thân hữu và cũng là học trò của ông, cùng với một người tùy tùng mà đệ tử là Kakei phái đi theo. Sau đó có một nhà sư dáng điệu khắc khổ cũng nhập đoàn. Bộ phận chính của nội dung bút ký mô tả sự gian hiểm của đoạn đường khó lường, lúc thì dốc dựng đứng như thành, lúc thì cheo leo bên bờ vực, lúc lại như lao đầu xuống những dòng thác nước đổ xiết. Phần văn xuôi có một phân đoạn trong đó Bashô cho biết mình đã rất hài lòng khi ngắm được con trăng thu trong một quán trọ ở Sarashina. Phần còn lại là thơ, gồm có 13 bài haiku viết trong chuyến đi, 11 do chính Bashô và 2 của Etsujin.

Chúng ta tự hỏi động cơ nào đã thúc đẩy Bashô viết bút ký ngắn này. Sau khi xong Dọc đường mưa gió, tập bút ký thuật lại chuyến lữ hành về miền Tây của ông đến tận Akashi65; từ đó ông ngừng viết tuy vẫn tiếp tục ngao du đây đó. Có thể Bashô cảm thấy ông không còn gì để nói thêm và nếu cứ viết nữa thì ông sẽ rơi xuống hàng nhà văn viết nhật ký du hành thông thường chỉ biết mô phỏng Tsurayuki và ni sư Abutsu. Thế thì tại sao bây giờ ông lại chọn viết Chuyến viếng thăm thôn Sarashina một khi đã ý thức tất cả về những điều nói trên?

Câu trả lời phải là việc Bashô đang có điều gì mới đáng thổ lộ, một điều gì đó mà ta không hề thấy trong Dọc đường mưa gió. Điều này đã được khơi gợi ra rõ rệt ở cuối phần văn xuôi của bút ký, trong đoạn mà hơi văn đạt đến cao điểm:

Trong khi sự chú ý của ta bị những sự vật khác lôi cuốn, con trăng đã leo lên bên trên những rặng cây và tia sáng của nó bắt đầu len lỏi qua mảnh tường đổ. Tiếng khua của thanh gỗ chập vào nhau đuổi chim phá hoại hoa màu và tiếng những người thợ săn nai gọi bạn nghề nghe lúc xa lúc gần. Không khí gợi lên sự tư lự của mùa thu chưa bao giờ được cảm thấy như vậy. “Nào”, ta nói với những người bạn đồng hành, “giờ đây cho phép tôi đãi các bạn cùng ngắm trăng một chung ruợu nhé!”. Mấy cái chén mà chủ quán đem ra là những dụng cụ uống rượu mà ta nhận xét có sức chứa nhiều gấp bội cái chung bình thường, lại còn trang trí bằng những mô hình sơn kim nhũ nhưng có hơi thô. Một người dân kinh đô có thể chê nó không tinh xảo và chẳng muốn đụng đến, thế nhưng ta lại bị ấn tượng mạnh về những cái chén đó. Ta thấy chúng như là những bảo vật vô giá trang điểm bằng kim cương lóng lánh66. Lý do có thể là vì nơi chốn nữa.

Sarashina, chốn này, khác hẳn với những nơi Bashô đã từng qua bởi vì phong cảnh của nó hãy còn giữ được nét hoang dã, chưa ai khai khẩn. Nhà thơ tìm thấy ở đó một kích thích tươi mát, đến nỗi ông khám phá được cả vẻ đẹp từ những vật dụng mà trước đây ông cho là quá thô lậu..

clip_image018 Bà Sugawara no Takasue no Musume, 
tác giả Sarashina Nikki, đi thăm chùa Ishiyama.

Với châm ngôn “Hãy trở về với thiên nhiên!”, Bashô đã đi hết nơi này đến nơi khác nhưng bao giờ những cuộc du hành của ông cũng quanh quẩn chung quanh vùng đã có cuộc sống văn minh, không biết rằng mình chưa hề “trở về” thực sự giữa lòng thiên nhiên sâu thẳm. Có thể ông hơi hối hận về những câu chữ khoa trương viết lúc cao hứng khi tuyên bố mục đích của cuộc hành trình về miền Tây trong Dọc đường mưa gió. Ông thấy không cần phải loại chúng ra vì chúng đánh dấu được một giai đoạn trong sự trưởng thành của ông. Thế nhưng bằng cách nào ông cũng phải để lại đôi dòng cho thấy ông đã vượt qua giai đoạn ấy. Ít nhất đó là phần nào lý do làm cho ông đặt bút viết Chuyến viếng thăm thôn Sarashina và chắc chắn nó là động cơ chính yếu đưa đẩy ông làm cuộc hành trình dài về miền Bắc ít lâu sau.

Tâm trạng này cũng được phản ánh ở một trong 11 bài haiku ông viết cho phần hai của Chuyến viếng thăm thôn Sarashina. Nó như sau:

Kiso no tochi
Ukiyo no hito no
Miyake kana

Hạt dẻ núi Kiso,
Muốn đem tặng cho người,
Còn đắm trong phù thế.

Những hạt dẻ này không phải là loại thông thường. Nó chỉ được tìm thấy trong vùng núi sâu, ví dụ khu vực Kiso, nơi có thôn Sarashina. So với các loại hạt dẻ khác, hạt dẻ do cây tochi (horse chestnut)67 không thơm ngon gì và chỉ ăn được khi đã nấu nướng. Rõ ràng hạt dẻ này tượng trưng cho thiên nhiên hoang dã, chưa từng được nhìn thấy một lần bởi những người phố thị đang mãi mê ngụp lặn trong khoái lạc của đời phù thế. Qua mấy câu này, Bashô hình như còn có ẩn ý cho rằng những bài haiku tưởng chừng thiếu tính nghệ thuật và quá thô lậu ông viết trong dịp này lại chính là món quà quí hiếm mà ông muốn dành cho những ai chỉ quen với văn chương đô thị. Như thế, ông muốn đưa cái vẻ đẹp đáng yêu của sự hoang dã đến cho đại chúng độc giả.

clip_image020

Thủ bút của Bashô (Sarashina Kikô)

Và không ai ngạc nhiên khi thấy chuyến lữ hành sau đó của ông hướng về miền Bắc, nơi thâm sâu và hoang dã nhất Nhật Bản. Thành quả của nó là tập bút ký Đường mòn miền Bắc.

5) Đường mòn miền Bắc (Oku no hosomichi 奥 の細道, 1689):

Đường mòn” ở đây có nghĩa ẩn dụ (metaphorical) hơn là văn chương bình thường (literal) và “miền Bắc68 sâu thẳm cũng vậy. Về bề mặt, đây là nhật ký đường trường dài nhất của Bashô, ghi lại những sự kiện xảy ra trên con đường ông đi vào năm 1689 về miền Bắc đảo Honshuu.Về mặt ẩn dụ thì tập du ký này ghi chép cuộc du hành trong tâm thức của Bashô đi tìm cái đẹp tối thượng của thiên nhiên, sự tìm tòi của một người đã lạc lối trong cõi phù thế của xã hội đương thời. Bút ký đã hầu như đi đến chỗ chung cục khi ông đến Ôgaki, nơi đây các người ngưỡng mộ bao quanh ông. Ông đã một lần nữa trở về cõi phù thế ở đấy cho nên ông không thấy việc viết tiếp bút ký ấy có ý nghĩa gì nữa.

Như thế, Đường mòn miền Bắc chỉ mô tả những con người và sự vật mà vẻ đẹp chẳng bao giờ làm vướng mắt của họ không đi ra ngoài phạm vi của thiên nhiên thô lậu, hoang sơ. Chẳng hạn đoạn văn sau đây được thấy ở đầu tập:

Dưới bóng cây hạt dẻ cổ thụ gần khu phố nhà trạm, có một vị sư đang sống cuộc sống lánh đời. Dường như đời ông thật tĩnh lặng, chẳng khác chuyện một nhà thơ ở ẩn đi nhặt hạt dẻ trong núi thời xưa. Ta bèn viết lên trên giấy chữ “hạt dẻ” (lật ) theo văn tự Trung Quốc. Nó gồm hai phần, có nghĩa là “phía Tây” (tây 西) và “cái cây” (mộc). Có lần Bồ tát Gyôki69 đã liên tưởng cây hạt dẻ với cõi Tây Phương tịnh độ và ông dùng vật liệu cây ấy để chế ra gậy và cả kèo cột trong nhà mình.

Yo no hito no
Mitsukenu hana ya
Noki no kuri

Có mấy ai trong đời
Chợt tìm ra vẻ đẹp
Chùm hoa dẻ bên hiên.

Bài thơ này có thể giải thích hai lối: văn chương thông thường hoặc ẩn dụ. Chùm hoa dẻ rất bé và không có gì lôi cuốn, nó lại nở vào mùa mưa, cho nên có thể so sánh với cuộc đời của nhà tu đi ở ẩn này. “Đời” (yo) trong văn mạch ám chỉ cõi phù thế (ukiyo). Bài haiku này gợi ta nhớ đến bài thơ nói về hạt dẻ núi Kiso ở đoạn cuối cùng trong Chuyếnviếng thăm thôn Shirashina.

Trong một tiểu đoạn trước đó, Bashô đã tỏ lời ca ngợi một nhân vật đã giữ được khoảng cách với cõi phù thế. Ông ta chẳng phải là nhà sư; chỉ là một ông chủ nhà trọ sống bình thường giữa mọi người:

Ngày thứ 13, chúng tôi dùng chân dưới chân núi Nikkô. Ông chủ quán nơi chúng tôi ở trọ tự giới thiệu : “Tên tôi là Hotoke (Phật) Monzaemon. Mọi người thương mà đặt biệt hiệu cho tôi như vậy vì lúc nào tôi cũng cố gắng lương thiện trong mọi công việc. Vậy xin các ông cứ qua đêm ở đây và chớ có khách sáo”. Ông làm tôi nghĩ không hiểu ông là một vị Phật nào đã hòa mình vào đống bùn nhơ này để cứu giúp những kẻ hành hương đói khát như chúng tôi. Tôi nhìn ông chăm chú và nhận thấy ông chỉ là một con người chất phác, không thông minh lanh lợi như người đời. Khổng Tử có lần nhận xét rằng kẻ ngu phu với tấm lòng đơn sơ mới dễ tìm về chân lý. Lòng dạ ông chủ quán cũng trong trắng như thế khiến cho ông được mọi người đánh giá cao.

Thay vào một cõi thiên nhiên với bản chất nguyên sơ hoang dã, ở đây là ông chủ quán cứ đeo đẳng cuộc đời lương thiện. Ông là một loại người khó tìm ra nơi thành thị xô bồ. Ông không khôn khéo, còn ngây thơ đằng khác khi ông kể cho khách nghe người ta gọi ông là “ông Phật” mà không e dè rằng thiên hạ sẽ cười mình tự cao tự đại. Nghi ngờ điều này, Bashô đã xích lại gần ông để nhìn cho rõ và nhận được rằng chủ quán không phải là một vị Phật nhưng là một loại người có tấm lòng đơn sơ trong trắng từng xuất hiện trước cả thời của Khổng giáo và Phật giáo. Bashô thấy nơi ông hình ảnh con người thái cổ chưa bị ác quỷ của nếp sống văn minh làm cho nhơ bẩn.

Dĩ nhiên không phải ai ai Bashô gặp trên bước lữ hành cũng đều giống hai nhân vật nói trên. Một số người chưa tỉnh ngộ, còm bám mùi trần tục và đó là chuyện khó tránh. Thế nhưng có viết về họ cũng chẳng bõ công vì họ chẳng đem lại lợi ích gì cho chủ trưong của ông. Tốt hơn hết, bỏ mặc họ tất cả. Rõ ràng đó là điều Bashô đã làm. Theo Sora, bạn đồng hành với Bashô và là người đã viết một nhật ký song song cho chuyến đi với nhiều tình tiết cụ thể, thì ở nhiều thị trấn, Bashô đã được các samurai cao cấp và thương nhân giàu có tổ chức chiêu đãi. Chẳng hạn khi đến Sakata, ông đã được các tay phú hào ở thành phố thương mại bên bờ biển Nhật Bản này hết lòng cung phụng. Ở Murakami, một thị trấn kế cận Sakata, ông đã được một samurai chủ thành của địa phương mời đến và trao tặng một món tiền đáng kể. Còn ở Kashiwazaki, một thành phố khác ven biển nữa, ông đã được mời qua đêm tại phủ đệ một tay phú hào nhưng vì thấy bị đối xử thiếu cung kính nên đã bỏ đi, ngay trong lúc trời con đang mưa và người trong phủ hối hả chạy ra kéo giữ. Những con người và sự kiện như thế, nơi người viết du ký bình thường, nếu có nhật ký thì đáng là những tình tiết cần phải ghi chép lại. Thế nhưng Bashô không mảy may nhắc tới. Bởi vì Đường lên miền Bắc là một du ký văn học mà tác giả của nó đã tự do chọn lựa tình tiết cần giữ lại theo ý mình.

Không những Bashô tự ý bỏ qua một số tài liệu mà ông còn thay đổi một số sự kiện sao cho chúng ăn khớp với điều mình muốn nói. Do đó mà ở một trình độ nào đó, Đường lên miền Bắc là một tập du ký có tính hư cấu. Một lần nữa, nó có cùng lý do: Bashô muốn trình bày chủ trương của mình một cách có hiệu quả. Chẳng hạn qua đoạn văn sau đây tả lại những gì đã xảy ra cho Bashô khi họ rời Matsushima:

Vào ngày 12, chúng tôi rời Hiraizumi. Từng biết có những thắng cảnh như cây tùng Aneha và chiếc cầu Odae ở gần đấy, chúng tôi đã mượn một con đường vắng vẻ chỉ có thợ săn và tiều phu lui tới. Thế nhưng chẳng bao lâu chúng tôi hoàn toàn bị mất hướng và lựa nhầm một con đường khác, nhờ đó lại tình cờ đến được một bến cảng tên gọi Ishinomaki. Kinkazan70, hòn đảo mà thơ phú ngày xưa ca tụng nơi ấy hoa nở thành vàng hiện ra lờ mờ ở ngoài khơi. Trong lòng vịnh là hàng trăm chiếc thuyền con đang neo, còn trên bãi biển có nhiều ngôi nhà chụm đầu vào nhau, từ đó những đợt khỏi thổi cơm bay lên không ngớt. Không hề hy vọng đến được một thị trấn như thế này! Chúng tôi bèn đi kiếm chỗ trọ nhưng chẳng ai cho ở qua đêm. Cuối cùng đành phải ngủ lại trong một túp lều hoang phế. Ngày hôm sau chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình trên một tuyến đường mình hoàn toàn xa lạ. Nhìn hướng con lạch Sode, cánh đồng Obuchi và đầm Mano đằng xa, chúng tôi đi dọc theo con đê dài ngút mắt. Sau đó chúng tôi đi vào vùng đất trũng bao la trong một khu vực thật vắng vẻ tiêu điều để cuối cùng nhận ra một nơi tên gọi Toima. Sau khi ngủ lại một tối ở đây, chúng tôi mới lên đường đi Hiraizumi. Ta nghĩ rằng đoàn mình đã phải vượt đến trên ba mươi dặm71.

Đoạn văn nói trên miêu tả thành công tình cảm lẻ loi, không nơi nương tựa của hai người lữ khách nhầm đường, đã đi vào một khu vực lẩn khuất mình hoàn toàn xa lạ. Nó cũng bi kịch hóa cái niềm vui khi cả hai đến được Ishinomaki và vùng lân cận, từng nổi tiếng trong thi phú. Tuy nhiên, trên thực tế hình như Bashô và Sora không hề lạc đường. Cây tùng Aneha và chiếc cầu Odae nằm ở phía tây Matsushima, còn Ishinomaki lại ở đằng đông. Không thể nghĩ được rằng hai người lữ khách đầy kinh nghiệm của chúng ta chưa biết điều đó, đến nỗi đi về hướng Ishinomaki khi họ muốn viếng Aneha và Odae. Nhật ký của Sora cho thấy họ không hề lạc đường, và hiểu rằng họ đã có kế hoạch đi Ishinomaki từ trước. Thực sự cái tên Ishinomaki đã hiện ra nhiều lần trong một lộ trình mà Sora soạn cho Bashô trước khi toàn bộ cuộc lữ hành bắt đầu. Hơn nữa, Bashô đã than phiền rằng: “Chúng tôi bèn đi kiếm chỗ trọ nhưng chẳng ai cho ngủ qua đêm” , một điều không đúng sự thật. Có người Bashô và Sora tình cờ gặp gỡ trên đường đã đưa họ đến một lữ quán (chứ không phải “túp lều hoang phế”) ở Ishinomaki; và họ đã được cung cấp đầy đủ tiện nghi. Câu kế tiếp “Ngày hôm sau chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình trên một tuyến đường mình hoàn toàn xa lạ” cũng không đúng nốt vì đã có hai cư dân Ishinomaki rất thạo đường mà Bashô và Sora vừa mới làm quen đã tháp tùng khi họ rời thị trấn.

Có nhiều đoạn tương tự như thế trong Đường mòn miền Bắc. Thử đưa ra dăm thí dụ. Chẳng hạn ở Iizuka, Bashô bị một chứng bệnh mạn tính tái phát và hầu như ngất xỉu, nhưng nhật ký của Sora, đặc biệt ghi lại chi tiết ngày hôm đó, lại không hề nhắc đến. Ở Matsushima, du ký của Bashô viết là ông choáng ngợp trước vẻ đẹp cảnh sắc đến độ không viết được câu nào, trên thực tế, như ta vừa nói tới bên trên, ông đã để lại một bài haiku. Ở Kisagata, du ký viết: “Hôm ấy trời trong xanh. Khi mặt trời ban mai tỏa sáng, chúng tôi lên thuyền ra ngoài biển”. Thế nhưng nhật ký của Sora lại chép hôm ấy mưa phùn suốt buổi sáng và họ chỉ lên thuyền sau bữa cơm chiều. Để biện hộ cho những điều tréo cẳng ngỗng như thế thì có giải thích là ký ức của Bashô về những sự kiện xảy ra đã trở nên mù mờ khi ông ngồi viết du ký ấy. Đôi trường hợp điều này đã xảy ra nhưng những sửa đổi về các sự kiện mà Bashô đã làm, đồng loạt đã đi theo một hướng nhất định cho nên khó thể nói một cách đơn thuần là trí nhớ đã phản bội ông. Hầu như trong mỗi trường hợp tu sửa, ông đều có ý định mỹ hóa hay bi kịch hóa cái kinh nghiệm của một nhà văn trong cuộc hành trình lẻ loi suốt miền Bắc đầy hiểm nghèo. Nhà văn như có vẻ nhắm vào việc đem đến cho chúng ta một kinh nghiệm tâm linh chứ không phải đơn thuần ghi lại những sự kiện xảy ra theo lối văn xuôi. Đó là điều chúng ta ngóng đợi nơi một bút ký văn học. Dù ở một trình độ kém hơn về lượng, Bashô cũng đã từng làm như vậy trong những du ký trước đây của ông rồi. Ở điểm này, ông chẳng có chi độc đáo hơn người xưa. Nhật ký cung đình Nhật Bản, bắt đầu với Tsurayuki, không ít thì nhiều đã có tính hư cấu nằm bên trong. Một số hình như đã tuân theo tiền đề là việc mô tả kinh nghiệm nội tâm chứ không phải sự thực bên ngoài mới là quan trọng.

Ngoài ra, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy đối với Bashô, đó là một cuộc khám phá vào không gian lẫn thời gian. Khi du hành trên miền Bắc hoang đã, ông đã tìm gặp những con người rắn rỏi, chân chất nhưng ông cũng đã du hành vào quá khứ để có những cuộc đàm thoại trong tưởng tượng với những nhân vật từng xuất hiện ở đấy. Trong một số đoạn của Đường mòn miền Bắc, ông đã rút ngắn việc mô tả nơi chốn để có thể viết nhiều hơn về những biến cố xảy ra có liên hệ với chúng. Đây là đoạn văn mà Bashô đã đặt bút ghi khi ông ghé thăm đền thần đạo ở Kanazawa:

Chúng tôi đến viếng đền Tada ở vùng này, nhân đó nhìn thấy mũ trụ của chiến tướng Sanemori 72 và tàn dư manh chiến bào ông mặc dưới lần áo giáp. Theo truyền thuyết, đó là những vật báu mà chủ quân thời trẻ của ông, đại tướng Yoshitomo, đã ban cho. Thực vậy, chúng không giống đồ dùng của một chiến binh bình thường. Hoa văn hình hoa cúc trên mũ trụ được nạm vàng từ bộ phận che trán đến bộ phận che hai tai, tô điểm thêm bằng một cái đầu rồng với hai chiếc sừng cong. Truyền thuyết về việc sau khi Sanemori bị giết chết, đại tướng phe địch Kiso (Minamoto no) Yoshinaka đã gửi phó tướng của mình là Higuchi Jirô đến đền này để cúng dường một bài văn ai điếu và những di vật ấy, thấy như còn hiển hiện.

Muzan ya na
Kabuto no shita no
Kirigirisu

Ôi thảm thiết làm sao
Bên dưới chiếc mũ trụ
Rả rích dế mùa thu.

Sanemori là một trang anh hùng thời trung cổ đã từng xuất hiện trong nhiều tác phẩm văn chương Nhật Bản, kể cả có một bản tuồng Nô nói về ông. Khi ấy đã ngoài 70, ông nhuộm tóc bạc cho đen để có thể chiến đấu một trận cuối cùng giữa những chiến sĩ trẻ. Nhìn lại mũ trụ và chiến bào trưng bày ở đền thần, Bashô để trí tưởng tượng lùi về thế kỷ 12, một thế kỷ đầy chiến tranh và biến loạn mà người ta đòi hỏi hành động anh hùng cùng cực ở mỗi con người trung nghĩa. Sanemori là một trang võ sĩ đã sống hào hùng và chết cũng hào hùng. Trong cung cách của mình, Sanemori đã làm một cuộc hành trình dọc theo “Đường mòn miền Bắc” sâu thẳm. Câu đầu của bài haiku Bashô “Ôi thảm thiết làm sao!” đã được trích ra từ ca từ của vở tuồng Nô nhan đề Sanemori, không những ám chỉ tiếng dế mùa thu kêu thê thảm mà còn đả động đến trận chiến cuối cùng của vị lão tướng. Thật là bi thảm nhưng cũng cao thượng xiết bao khi viên tướng già nua đó đã đi hết đoạn đường định mệnh73 của mình với tất cả quyết tâm và can đảm.

Những cuộc du hành nho nhỏ vào trong quá khứ như vậy đã xảy ra suốt trong chuyến đi dọc Đường mòn miền Bắc. Trong đoạn ghé Yashima, một nơi nằm kề Nikkô, quá khứ được gợi ra trong câu chuyện một nàng công nương chịu ở lại chết cháy trong ngôi nhà để giữ lòng trung trinh với chồng mình. Phần nói về Hiraizumi, ông chỉ nhắc đến ký vãng thời liệt oanh của nó vào thế kỷ thứ 1274. Ở Shiogoshi, một ngôi làng nằm ở phía tây Kanazawa, ông chẳng có một câu nào nói về cảnh vật mà chỉ bàn về một bài tanka mà pháp sư Saigyô đã để lại khi ông ghé ghe nơi đây vài thế kỷ trước đó. Đọc hết tất cả những đoạn này, ta có cảm tưởng như Bashô thích thú được gặp gỡ những hồn ma trong quá khứ, từng sống nơi đây từ xa xưa, y như việc gặp gỡ những người cùng thời đại với mình. Trong ý nghĩa này, tác giả đã đóng vai trò của kẻ siêu độ cho các vong hồn (deuteragonist), có mặt trong những bản tuồng Nô. Người ấy thường xuất hiện dưới dạng thầy tăng vân du khơi gợi chuyện những hồn ma trong quá khứ tại các địa phương suốt bước đường mình đi. Như vậy, Bashô không chỉ là du khách trong cái nghĩa địa lý của nó mà còn trong chiều hướng lịch sử nữa. Ông là một linh môi (cô đồng, medium) gọi hồn người chết và các biến cố đã qua lên gặp độc giả. Và dĩ nhiên, những hình ảnh họ nhìn thấy đều tập trung về một hướng: tất cả đều gợi ra vẻ đẹp và nỗi buồn của thiên nhiên nguyên sơ cũng như những người con người tiền cận đại ngoan cố sống theo cuộc sống của mình.

(Còn tiếp)

Chú thích:

1 Còn được biết dưới tên haikai kikô (bài hài kỷ hành , 俳諧紀行).

2 Việc dịch tên các tác phẩm là tùy thuộc vào ý kiến mỗi người, chỉ có nội dung tác phẩm là đáng kể. Đây chỉ là cách dịch của người viết.Ví dụ nơi đây Ueda đã dùng tựa tiếng Anh The narrow road to the Deep North, từ mượn của một nhà nghiên cứu khác, Yuasa Nobuyuki..

3 The Records of a Weather’s Exposed Skeleton (tựa đề tiếng Anh dùng bởi Yusa Nobuyuki, Ueda Makoto …).

4 A Visit to the Kashima Shrine (như trên)

5 The Records of a Travel-Worn Satchel (như trên).

6 A Visit to Sarashina Village (như trên)

7 The Seashell Game (như trên)

8 The Saga Diary (như trên)

9 An Essay on the Unreal Dwelling (như trên)

10 The House of Fallen Persimmons (như trên)

11 Saga nay nằm gần trung tâm thành phố Kyôto. Là một thắng cảnh được du khách bốn phương yêu chuộng với Dogetsukyo (Độ Nguyệt Kiều) thơ mộng bắt qua dòng Hotsugawa, chi lưu của sông Ôi, và những con đường thanh vắng dưới vòm trúc.

12 Ngôi nhà mang tên “Nhà quả hồng rụng”, ở Sagano gần Kyôto của Kyorai, học trò của Bashô. Kyorai mời ông đến ở vào năm 1691. Nơi đây nhà thơ đã viết tác phẩm Saga nikki (Nhật ký Saga).

13 Sora 曽良(1649-1710), tên thật là Iwanami Masataka 波正字, tác gia haikai và cũng là nhà thần đạo học thời Edo trung kỳ, đệ tử của Bashô. từng đồng hành với ông trong chuyến đi lên miền Oku năm 1689.

14 Etsujin 越人 (1656-1735?), tên thật là Ochi Juuzô 越 智十蔵, tác gia haiku thời edo trung kỳ, đệ tử gần gủi của Bashô nhưng cuối đời, thơ nhuốm màu cổ kính. Thường tranh luận về thi pháp với các bạn đồng môn như Shikô 支考, Rosen 露 川. Biệt hiệu là Etsujin (Việt Nhân) vì sinh quán ông là vùng Hokuetsu (Bắc Việt 北越) gần Niigata bây giờ. Niigata và vùng phụ cận đặc biệt lắm tuyết, được gọi là Yukiguni.

15 Người Nhật gọi thơ quốc âm là ca hay cú. Thi ám chỉ thơ chữ Hán.

16 Còn đọc Kyoriku 許六 (1656-1715), tên thật là Morikawa Hakuchuu 森川百仲 tác gia haiku thời Edo trung kỳ, đệ tử của Bashô. Ông vốn là một phiên sĩ (samurai) phiên Hikone (tỉnh Shiga bây giờ). Ông nhập môn muộn (1692) lúc đã 36 tuổi nhưng là một người đã nối được di chí của thầy mình trong việc đào tạo nhân tài ở địa phương. Tiếc là buổi vãn niên vì có thái độ cố chấp nên trường phái không phát triển được nữa.

17 Kisoji木曾路 (Mộc Tăng lộ) còn lại là Nakasendô 中山道 (Trung sơn đạo) là tuyến đường nằm trong vùng núi non ở miền trung đảo Honshuu. Nó vốn đã có tự thời Vạn Diệp nhưng chỉ được tu sửa, lập nhà trạm cho lữ khách vào dưới thời Edo.mà thôi.

18 Tên tiếng Anh: Pasania, chinquapin. Chuy (shii) 推 có thể hiểu là một loại cây dẻ (oak), một loại cây cao dùng vào kiến trúc, chế tạo vật dụng trong nhà. Thường mọc ở các vùng núi non ven biển. Tháng năm, tháng sáu, ra hoa nhỏ, thành chùm và nồng mùi hương. Quả ăn được.

19 Nhân vật không rõ lai lịch hành trạng.

20 Mượn ý Trang Tử. Con chim câu cánh yếu cười chim phượng hoàng. Ý nói người tầm thường thì sao hiểu được đại chí của một nhân vật lỗi lạc.

21 Ông về ngụ ở Am Bashô mới, cạnh nơi dòng sông Hakozaki tách ra khỏi sông Sumida.

22 Đến từ thơ thu của Đỗ Phủ 杜甫 (712-770): Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ, Cô chu nhất hệ cố viên tâm (Một chiếc thuyền con tình cũ buộc, Hai phen cúc nở, lệ xưa đầy). Hai câu này cũng đã gợi hứng cho Nguyễn Khuyến: Mấy chùm trước giậu, hoa năm ngoái, Một tiếng trên không, ngỗng nước nào.

23 Các trò Sanpuu và Sora thì chúng ta đã biết nhưng ít ai rõ về Kifuu và Taisui dầu họ cũng đã từng xướng họa với Bashô, nhất là trong lãnh vực renku (liên cú).

24 Đoạn văn này có hơi hướng của tác gia thời trung cổ Kamo no Chômei 鴨 長明 trong Hôjôki 方丈記 (Phương Trượng Ký) khi ông tả lại cuộc sống ẩn cư của mình trong vùng rừng núi Hino. (NNT)..

25 Trương Tái 張載 (1020-1077) nho gia thời Bắc Tống, tự là Tử Hậu, người trấn Hoành Cừ 横渠tỉnh Thiểm Tây. Ông chơi thân với Nhị Trình (anh em Trình Di và Trình Hiệu) và là một trong những người khai sáng ra Tống Học. Tác phẩm còn để lại có Dịch Thuyết, Chính Mông, Trương Tử Toàn Thư.

26 Hoài Tố 懐素, có hai thuyết về năm sinh năm mất : 725-sau 785 hay 737- sau799, bậc đại sư về thư pháp đời Đường, tự là Tàng Chân 蔵真, họ Tiền 錢, là một tăng sĩ. Có tác phẩm “Thảo thư thiên tự văn 草書千字文”. Liên hệ với cái tên Hạo Nhiên 浩然 như thế nào thì người viết chưa rõ (NNT).

27 Ki 記 nghĩa là văn bút ký 筆記. Ueda cho biết có một bản gọi là Genjuuan no Fu (幻住庵の賦Huyễn Trú Am phú) và cũng được viết với một văn phong tinh tế và hoàn hảo. Phú 賦 thì có nhiều chất thơ hơn ký. Thế nhưng các học giả Nhật Bản ngày nay hầu như cho rằng đó là một bài bút ký (essay) thay vì một áng thơ (poem). Bài phú đã được đăng trước đó trong thi tập Áo tơi cho khỉ (Sarumino 猿蓑) nhưng không phải là bản được viết cuối cùng.

28 Kyorai 去来 (1651-1704) tức Khứ Lai, tên thật là Mukai Kyorai 向井去来, đệ tử gần gũi của Bashô và là một nhà thơ haiku lớn thời Edo trung kỳ. Sinh trong một gia đình thầy thuốc. Đã cùng đồng môn biên tập nhiều tác phẩm của thầy, đặc biệt để lại Ghi chép của Kyorai (Kyorai shô 去来抄), trong đó ông thu thập những lời phát biểu cụ thể của thầy đánh giá các bài haiku và nó đã trở thành tác phẩm cơ sở để tìm hiểu lý luận thơ Bashô.

29 Theo các thi thoại, Bạch Cự Dị và Đỗ Phủ đều vì quá chăm làm thơ mà thân xác mệt mỏi hom hem.

30 Các phó từ (adverb), tiếp tục từ (conjunction), tiền trí từ (preposition) v.v. . Có thể Ueda muốn nói tới những tiếp tục từ như ya, những tiền trí từ như wo… và những tiếp vĩ ngữ khi chia động từ như te, keri, tari, ruru… những tán thán từ như kana… những trợ từ cường điệu như zo (NNT).

31 Ueda muốn nói đến Saga Nikki, lý do sẽ được giải thích trong những trang sau.

32 Có thể Bashô muốn nói đến những cuộc “khất thực hành cước” của du tăng thời xưa (NNT).

33 Ý nói theo gương hay được sự hỗ trợ tinh thần từ hành động của họ.

34 Năm đầu tiên niên hiệu Trinh Hưởng (1684-88).

35 Fujikawa 富士川, con sông phát nguyên từ rặng Akaishi (nơi cao nhất 3198 m), hợp lưu với sông Fuefuki chảy qua địa phận hai tỉnh Yamanashi và Shizuoka, không xa núi Fuji. Cùng với Mogami (tỉnh Yamagata) và Kumagawa (tỉnh Kumamoto) là 3 sông nước xiết (tam đại cấp lưu) của Nhật Bản.

36 Thời Edo, đói kém xảy ra liên miên, thêm sưu cao thuế nặng, cha mẹ nhiều khi phải “đem con bỏ chợ” (hiện tượng sutego 捨て子、棄児) để bớt miệng ăn trong nhà. Xem thêm Giáo trình lịch sử Nhật Bản của NNT, đoạn nói về xã hội thời Edo (tư liệu mạng)

37 Saru 猿có thể hiểu là khỉ (viên, monkey, 猿) hay vượn (ape, hầu, 猴) nhưng trong văn chương cổ, thường dùng với nghĩa sau. Ueda dịch là monkeys nhưng ý ở đây cho thấy Bashô đã lấy cảm hứng từ điển cố Trung Quốc (Thính viên thực hạ tam thanh lệ, Thu hứng của Đỗ Phủ) hay máy câu cổ thi: Ba Lăng Tam Giáp, Vu Giáp trường. Thính viên tam thanh lệ triêm thường..Tương truyền, vượn cái đi tìm con bị thợ săn bắn chết, hú thảm thiết rồi đứt ruột mà chết.

38 Sương mùa thu đồng nghĩa với tóc bạcmối sầu. Lý Bạch có bài ngũ ngôn tứ tuyệt trong chùm thơ Thu Phố Ca 秋浦歌: Bạch phát tam thiên trượng. Duyên sầu tự cá trường. Bất tri minh kính lý. Hà xứ đáo thu sương (NNT).

39 Tani Bokuin谷木因 (1646-1725), chủ nhân giàu có sinh trong một gia đình sống bằng nghề chở hàng đường biển ở Ôgaki 大 垣 (tỉnh Gifu). Bạn cũ của Bashô. Có lẽ cả hai đã quen biết nhau từ thập niên 1660 khi cùng lên Edo học haikai.

40 Bình nguyên Musashi là tên cũ của Edo và ngoại vi, nay là Tôkyô và các vùng phụ cận.

41 Cuồng cú 狂句 là câu thơ vô tâm (ý nói không cần dè dặt) trong renga hay câu phóng cuồng trong haikai. Tuy tất cả đều có tính hài hước nhưng cần phân biệt nó với với Kyôka (Cuồng ca) và Senryuu (Xuyên liễu). Cuồng ca 狂歌 là một thể thơ bỡn cợt vốn có từ đời Vạn Diệp, là loại thơ được xếp vào mục Gishôka (Hí tiếu ca 戯笑歌) trong Man.yôshuu vả Haikaika (Bài hài ca 俳諧歌) trong Kokin Wakashuu. Thời trung đại, nó đã dấy lên như một dòng thơ diễu cợt chống lại Waka chính thống. Thịnh hành một lúc vào thời Edo sơ kỳ và trung kỳ.Còn như Senryuu 川 柳 mang tên người phát triển nó (Karai Senryuu, 柄井川柳) thì có tính cách bông lơn và phúng thích xã hội bằng cơ trí, dựa vào chơi chữ, được phổ biến trong đại chúng từ sau niên hiệu Bunka Bunsei (1804-1830).

42 Ý Ueda muốn nhắc đến bài renku (liên cú) 36 vận đã đăng trong Saramino (Áo tơi cho khỉ). Bashô đã liên ngâm với các cao đồ của ông như Kyorai và Bonchô vào năm 1690 ở Kyôto, lúc ông đang nghỉ mệt sau chuyến lữ hành dài trên miền Bắc. Được xem như là một renku thành công nhờ tài năng của 3 nhà thơ lão luyện.

43 Đền thần đạo thờ các võ tướng ở vùng Kashima, tỉnh Ibaraki, đông bắc Tôkyô và Chiba.

44 Chắc Ueda muốn nói phong cảnh hồ Kasumigaura 霞ケ浦, hồ thiên nhiên lớn thứ 2 Nhật Bản, chu vi rộng đến 120 km và không xa Kashima, một thành phố cảng. Du khách đến Nhật có thể thấy từ trên phi cơ trước khi đáp xuống sân bay Narita.

45 Ám chỉ nhà sư Butchô (Phật Đính), người quen cũ ở Edo.

46 Ám chỉ Đỗ Phủ 杜甫 trong đêm ngủ đỗ ở chùa Phượng Tiên gần Long Môn. Nghe tiếng chuông sớm khi sắp thức dậy, ông cảm thấy nó như đưa được người ta vào cõi tĩnh tâm sâu lắng.

47 Bashô muốn nói đến tâm trạng của bà Sei Shônagon清少納言 ( 996-1025?) thấy chép trong một đoạn của tùy bút Makura no Sôshi 枕草子 (Pillow Book, Ghi nhanh bên gối)

48 Trăng ngày mùa (harvest moon)? (NNT)

49 Cấp (Oi 笈) là cái tráp đeo trên lưng (oi = 負い) của nhà sư hành cước đựng Phật cụ, áo quần áo, giấy mực và bát đũa. Bốn góc có chân đứng để dựng xuống và nắp bên trên mở ra đóng vào.Tuy nhiên âm oi老い còn có nghĩa là cũ kỹ nên phải dịch là Tráp đeo lưng cũ. Kobumi 小文 là thếp giấy khổ nhỏ như tờ thư dùng để ghi chép.

50 Những địa danh này đều là “gối” thơ (uta-makura) tức phong cảnh gợi nguồn thi hứng, từng thấy nhiều lần trong Manyôshuu (Vạn Diệp Tập) và những tác phẩm Waka kinh điển về sau.

51 Saigyô 西行(1118-1190), thi tăng và nhà văn hóa lớn thời Heian hậu kỳ, nổi tiếng yêu thiên nhiên.

52 Sôgi 宗祇 (1421-1502), thầy dạy renga 連歌vào thời Muromachi. Để lại Minase sangin hyakuin 水瀬三吟百韻 (Một trăm câu ba người ngâm trước đền thờ Thái thượng hoàng Go -Toba ở Minase) một chuỗi thơ 3 người ngâm tả lại khung cảnh mùa thu. Ông là nhà thơ có tiếng là đi nhiều.

53 Sesshuu 雪舟 (1420-1506?), họa tăng thời Muromachi, một sự nghiệp hội họa phong phú. Có Sansuichôkan 山水長卷 (Sơn thủy trường quyển, 1486) nổi tiếng.

54 Sen no Rikyuu 千利休 (1522-1591), trà sư thời Azuchi Momoyama. Được xem như ông tổ của wabicha 侘茶, hình thức trà đạo đạm bạc, chọn sự u nhàn tĩnh mặc giữa thiên nhiên.

55 Có thể hiểu là chủ thuyết xem cái đẹp lý tưởng chỉ ở trong trạng thái ban sơ của sự vật, ví dụ như cánh rừng nguyên sinh chưa có sự can thiệp của bàn tay con người.

56Ki no Tsurayuki 紀貫之 (868?-945?), học giả về Waka, một trong Tam thập lục ca tiên, sống vào thời Heian. Ông có Tosa Nikki 土 佐日記 (Nhật ký Tosa, 934) viết trong cuộc đường lữ hành bằng thuyền từ nơi trấn nhậm (vùng Tosa) về kinh đô, trong đó đã thấy hình thức bút ký văn xuôi với một đoạn tản văn kết thúc bằng một bài thơ waka. Hình thức này đồng thời cũng thấy trong truyện thơ Ise Monagatari 伊勢物語(Truyện Ise, tiến bán thế kỷ thứ 10).

57 Kamo no Chômei 鴨長明 1155-1216, người thời Kamakura, nguyên là một chức quan giữ đền thần. Tác giả Hôjôki方丈記 (Phương Trượng Ký) nói về cuộc sống ở ẩn của mình trong túp lều con giữa rừng núi. Vào thời Bashô, người ta tin ông còn là tác giả của tập du ký về miền Đông mang tên Tôkan Kikô (東関紀行).

58 Đọc là Abutsuni 阿仏尼 (? – 1216), thi nhân nữ lưu thời Heian trung kỳ, trắc thất của nhà thơ Fujiwara no Tameie 藤原為家, sau xuống tóc làm ni. Có Izayoi Nikki 十六夜日記 (Nhật ký đêm trăng mười sáu) nổi tiếng nói về chuyến lữ hành từ Kyôto lên Kamakua, trong đó ngoài văn xuôi không thiếu gì thơ Waka..

59 Sơn Cốc 山谷 là biệt hiệu của thi nhân và thư pháp gia Hoàng Đình Kiên 黄庭堅 (1045-1105) thời Bắc Tống, còn gọi là Hoàng Lỗ Trực. Ông rất gần gũi với Tô Thức, có văn phong mới mẻ và được xem như tổ của Giang Tây thi phái.

60 Tô Đông Pha 蘇東坡 (1036-1101) tức Tô Thức 蘇軾, đại văn hào thi hào thời Bắc Tống, có ảnh hưởng lớn trên văn hóa Nhật. Có thể Bashô muốn nhắc tới hai bài Xích Bích Phú 赤壁賦, áng danh văn của ông mô tả sự hùng tráng và trữ tình của thiên nhiên.

61 Tosa Nikki của Tsurayuki chỉ nói về sóng gió, nguy hiểm đường trường và nỗi buồn mất con.

62 Izayoi Nikki tập trung vào tâm cảnh của Abutsu khi bà lên Kamakura kiện tụng cho con.

63 Sarashina Kikô 更科紀行, bút ký của Bashô ghi lại chuyến thăm thôn Sarashina 更科 (1688) vùng Shinshuu信州 (nay là tỉnh Nagano) của Bashô viết vào khoảng năm 1688-89. Nó làm ta liên tưởng tới Sarashina Nikki 更級日記 của bà Sugawara Takesue no Musume 菅原孝標の女 viết vào năm 1020 nhưng phần lớn bà chỉ nói nhiều về thế giới mộng hơn là hiện thực.

64 Obasuteyama 姨捨山, ngọn núi cao khoảng 1252m ở tỉnh Nagano, nơi có truyền thuyết về anh con trai vùng Sarashina đem người mẹ không còn sức lao động bỏ trên núi cho gia đình bớt miệng ăn nhưng sau vì động tình mẫu tử lại cõng về. Nhờ kiến thức của mẹ già giải đáp được câu đố của nước lân bang, lãnh trọng thưởng của nhà vua, cho thấy người già không hẳn là kẻ chỉ ăn hại.

65 Akashi 明石、tên eo biển gần Kobe, thắng cảnh và địa điểm giao thông quan trọng tự thời Vạn Diệp và là tên của một chương nổi tiếng trong Truyện Genji.

66 Có phải chăng điều nói ở đây đã ảnh hưởng tới cách nhìn của nhà nghiên cứu nghệ thuật dân gian Yanagi Muneyoshi 柳宗悦 (Liễu Tông Duyệt 1889-1961) khi ông cho rằng những vật dụng của người thợ gốm thủ công mới đáng nghiên cứu chứ không phải là những tác phẩm của các đại sư?

67 Cây tochi (tochi no ki) 橡の木 cao khoảng 25m, có quả thuộc loại hạt dẻ, hình viên chùy với 3 khứa, vỏ màu nâu láng đẹp nhưng không ăn sống được mà phải nghiền thành bột, lấy hết chất chát, làm bánh hay nấu chè cháo. Cây marronnier ở vùng Địa Trung Hải cùng một họ với nó.

68 Có thuyết cho là đường mòn không phải là một con đường cổ nhân đi đã mòn nhẵn, nó chỉ là con đường hẹp, tượng trưng cho những ý thơ tinh tế mới mẻ mà khi đi hút vào miền Bắc thâm u (chiều cực sâu của sự vật) người ta mới có thể bắt lấy được. (Theo ý tư liệu 3 trong Thư mục tham khảo)

69 Gyôki 行基 (hay Hành Cơ, 668-749), sống vào thời Nara, một trong những tăng sĩ Nhật Bản buổi đầu. Được kính trọng nhiều nhất vì đã kêu gọi làm những công tác thổ mộc giúp đời như dựng chùa chiền, xây cầu, đắp đường và biết sống gần gũi với đại chúng bình dân. Ông cũng là người đi rất nhiều.

70 Kinkazan 金華山, hòn đảo ngoài khơi tỉnh Miyagi, diện tích 9km2, cao khoảng 445 m. Đã được nhắc đến trong một bài thơ khánh hạ của Ôtomo Yakamochi 大伴家持 (716?-785) thi nhân thời Vạn Diệp khi các bộ tộc miền Bắc đến dâng vàng cho Thiên hoàng. Bài thơ nói về “những đóa hoa bằng vàng” nở trên núi Michinoku 陸奥山mà người ta tưởng lầm là Kinkazan.

71 Nguyên văn của Ueda là twenty leagues mà mỗi league là 4,8 km. Như vậy Bashô cho rằng đoàn của mình đã đi hết 96 km. Còn đây, người dịch dặm từ ri里 (lý). Một lý khoảng 3,9 km nên cũng xem như tương đương..

72 Sanemori 実盛 tên thực là Saitô Sanemori 斎藤実盛, samurai sống vào cuối đời Heian. Trước đầu quân cho họ Minamoto (Yoshitomo), sau theo tập đoàn Taira (Munemori). Khi cuộc xung đột Genpei giữa hai nhà Minamoto (Genji) và Taira (Heike) xảy ra, theo Taira no Koremori chống nhau với Minamoto (Kiso) no Yoshinaka. Khi bị địch giết chết, cho đem rửa thủ cấp dưới ao, mới thấy đã nhuộm tóc cho đen để có thể chiến đấu giữa hàng ngũ các chiến sĩ trẻ. Truyện tích có ghi lại trong một chương của Heike Monogatari平家物語.

clip_image022

Comments are closed.