Thơ nữ trong hành trình cắt đuôi hậu tố ‘nữ’

Inrasara

 

Trong cuốn Le
deuxième Sexe
xuất bản
đầu tiên vào năm 1949 , phát
biểu của Simone de Beauvoir: “Người ta
không sinh ra là phụ nữ, người ta trở thành phụ nữ / On ne nait pas femme, on
le devient
” vang lên như một thách đố. Dẫu câu văn được những kẻ đấu tranh
và không đấu tranh cho nữ quyền trích đi dẫn lại đến sáo nhàm, nhưng đến hôm
nay nó vẫn còn nguyên giá trị thời sự.

Từ xuất phát điểm đó, gần hai thập kỉ sau, Robert
Stoller dấn thêm một bước mới: phân định rạch ròi hai khái niệm giống và giới
tính (Sex and Gender: On the
Development of Masculinity and Femininity
, 1968); hay nói như Dr. Harry
Benjamin: Giống (sexe)
là điều ta thấy, giới
tính (genre) là điều ta cảm
thấy (Le sexe, c’est ce que l’on voit, le genre, c’est ce que l’on
ressent
). Giống là của trời cho: mông to/ nhỏ, vú nở/ lép, của quý lõm vào/
thò ra, trên người ít/ nhiều lông gắn liền với các đặc điểm sinh lí. Còn giới
tính, nó bị quy định triền phược bởi truyền thống văn hóa, tập tục, giáo dục,
tôn giáo, chính trị. Nghĩa là toàn bộ những gì ta cảm thấy qua cách nhìn nhận
của một cá nhân hay tập thể về tính cách nữ/ nam. Giống không thể thay đổi, còn
giới tính thì có thể. Cái gì có thể thay đổi được thì sẽ thay đổi được. Dĩ nhiên
cái không thể này cũng cần trừ ra trường hợp cá biệt như siêu sao nhạc Pop
Michael Jackson tẩy trắng da hay những kẻ giải phẫu quyết thay đổi giới tính.
Chính tại điểm nhấn này, các nhà đấu tranh cho nữ quyền thế hệ thứ hai lập
thuyết và đấu tranh.

Sang
thập niên tám mươi, ảnh hưởng chủ nghĩa hậu hiện đại, thế hệ nữ quyền thứ ba
đẩy tư tưởng nữ quyền tiến thêm một bước quan trọng: vấn đề giới tính thực chất
là vấn đề thể hiện, “một hệ thống biểu
trưng hay hệ thống ý nghĩa nối liền các giống với những nội dung văn hoá tương
ứng với những giá trị và đẳng cấp xã hội tương ứng
” (Nguyễn Hưng Quốc). Và
cả vấn đề ngôn ngữ nữa; bởi ngôn ngữ hôm nay chỉ là thứ ngôn ngữ do nam giới áp
đặt trong đó hầu hết những gì liên quan đến nữ giới đành phải nhận phận hậu tố
tòng thuộc hay như một phái sinh đầy thứ yếu.

Các nhà đấu tranh cho sự bình đẳng giới không chấp nhận
đóng vai tòng thuộc đó. Không phải đảo ngược hay nổi dậy hô hào lật đổ: phụ nữ
quan trọng hơn đàn ông, nữ quyền thay thế nam quyền, mẫu hệ đảo chính phụ hệ mà
là, đạp đổ bức vách ngăn vô hình phi lí đầy tệ hại tồn tại suốt mấy ngàn năm
lịch sử nhân loại. Bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó sáng tác và phê bình
văn chương có vai trò nhất định.

Trên thế giới, nhất là trong các nước phương Tây không
chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng Khổng Mạnh, giới nữ đã khẳng định vai trò và tư thế
mình trong xã hội dân chủ: từ nguyên thủ quốc gia cho đến nhà hoạt động hòa
bình, từ nhà khoa học cho đến tác gia văn chương. Đâu đâu cũng có những khuôn
mặt nổi bật. Không phải do cơ cấu mà ở ý thức tự do, bình đẳng và nỗ lực vận
động tự thân: Bà Mahatma Gandhi, Marie Curie hay Szymborska… Họ có đó, không như
vài hiện tượng hiếm hoi nữa mà là một cái gì đã trở thành phổ quát.

Trong trào lưu mang tính toàn cầu đó, các nhà văn nữ
Việt Nam đứng ở đâu?

Ngược dòng lịch sử, chúng ta có được tấm gương sáng: Hồ
Xuân Hương. Trong xã hội bị thống ngự bởi giống đực, viết thơ thôi cũng bị coi
là hành vi xúc xiểm rồi, nói chi dùng văn chương để kêu ca về thân phận hèn kém
của phụ nữ, hơn nữa để phản kháng sự chèn ép đầy bất công mà chế độ phụ hệ áp
đặt lên phía giới chân yếu tay mềm.

 

Kẻ
đắp chăn bông kẻ lạnh lùng

Chém
cha cái kiếp lấy chồng chung

Năm
thì mười họa hay chăng chớ

Một tháng đôi lần có cũng
không

Cố đấm ăn xôi, xôi
lại hẩm

Cầm bằng làm mướn,
mướn không công

Thân này ví
biết đường nào nhỉ

Thà
trước thôi đành ở vậy xong
.

Phản kháng
ngang tàng oanh liệt thế, Hồ Xuân Hương chịu nhận cái nhìn dè bỉu hay bị phê
phán gay gắt của dư luận là khó tránh khỏi; thế nhưng đó là tư duy mang ở tự
thân khả tính cách mạng. Nên, với thế giới hôm nay, thơ của nữ sĩ họ Hồ được
đánh giá cao hơn cả Nguyễn Du – nhất là về mặt tư tưởng cách mạng – không phải
không lí do của nó. Nó chuẩn bị tinh thần, bên cạnh như báo hiệu một trào lưu nữ
quyền trong văn chương Việt một ngày không xa.

Ở miền Nam trước 1975, những Lệ Hằng, Nguyễn Thị Hoàng,
Nhã Ca, Túy Hồng đã khẳng định được mình với tư cách nhà văn đồng thời qua quan
điểm về tính dục phi-truyền thống, họ đã nói lên được sự bất mãn tính dục của
chị em trong xã hội bị áp chế bởi thứ chủ nghĩa duy dương vật (phallocentrism).
Sau đó, một Lê Thị Huệ viết để chống lại cơ chế xã hội được tạo dựng bởi chế độ
đực tính qua hàng loạt kí sự hoặc, một Phạm Thị Hoài phê phán kịch liệt “tư cách
trí thức [đàn ông] Việt Nam” trong suốt quá trình lịch sử. Là những vùng vẫy
đáng trân trọng. Ở một chân trời khác, Trịnh T. Minh-hà được công nhận là một
nhà nữ quyền hậu hiện đại sáng giá. Trong nghệ thuật,

không chỉ lấy
“tính Việt Nam” làm đề tài, mà còn lấy cả “tính phụ nữ”. Làm thế, dường như chị
nhân gấp đôi cái vị thế ngoại biên của mình. Nhưng chẳng hề gì: chị được cộng
đồng mỹ thuật quốc tế công nhận như một nghệ sĩ thay vì như một “người Việt Nam”
hay “một phụ nữ”. Làm thế nào chị Minh-hà đạt được sự công nhận ấy? Chị đạt được
nó vì những ý tưởng “là người Việt Nam” và “là đàn bà”, dù được chị trình bày
thẳng thắn và thường xuyên, đã chỉ tồn tại như những đề tài trong nghệ thuật của
chị và đã không che khuất cái độc đáo của nghệ thuật của
chị
(1).

Còn hôm nay thì sao? Nhà thơ nữ Việt giai đoạn qua đứng
ở đâu trong hành lịch văn chương và xã hội đầy biến động?

 

Từ
khủng hoảng…

Các bạn thơ nữ thời đại toàn cầu hóa quyết tháo tung
cương ngựa non mà kỉ cương cũ [toan] buộc ràng chúng, cho chúng mặc sức tung
vó, hí vang. Không còn kiêng nể gì nữa, sex hay không sex, bản năng hay không
bản năng, truyền thống với định kiến xã hội: bất chấp tất! Họ thể hiện mình,
phơi mở và phô bày cái Tôi chủ quan, không che giấu. Không cần qua trung gian
ẩn dụ hay nhờ cậy sự đánh tráo của ngôn ngữ để gợi mà, trực tiếp, đẩy tới, nâng
cao, phóng đại. Từ tâm tình, thái độ hay cả hành cử của thân xác trong sinh
hoạt dục tính. Tất cả đều được phép, giấy phép họ tự ban cho mình. Ngay cách
xuất hiện của họ cũng đúng a-la-mốt của cư dân mạng: họ chọn Evan
hay Tienve.org và các trang mạng để
đăng thơ.

Mươi, mười năm trước thôi, đàn chị Phạm Thị Ngọc Liên
dẫu có “giang tay giữa trời mà hét” cũng biết dừng lại ở đường biên tự vạch:
Tôi đi giữa sóng như loài ngư nữ / Lời
thở than trôi về phía sau / Mặt trời trên tóc tôi là nụ hôn của chàng / Lời chúc
ngủ ngon mỗi tối / Tôi bồng bềnh trong mơ
”.

Vẫn còn lành quá, hôm nay Trần Lê Sơn Ý:

… Chỉ
cơn điên mới cứu khỏi nỗi sợ hãi

Hèn
nhát

Trước
khi băng qua bờ vực

Chỉ
cơn điên mới vượt khỏi nỗi đau…

Thức
dậy, dẫm chân và lắc đầu kiêu hãnh

Trước
những yên cương rực rỡ sắc màu

Thức
dậy để đón sương mai
(11)

Cả vài giọng thơ nữ ở phía Bắc, Vi Thùy Linh chẳng hạn,
được/ bị cho là táo bạo.

Bởi
vì trong đêm
Em bùng lên nỗi nhớ, khát khao và cả những điều thầm kín nhất

Bởi vì trong đêm, em là em toàn vẹn nhất
Anh hiểu không?
Cái lạnh
ngấm dần, em tự ôm em
Em tự xát thương vết thương đau đang rỉ ra
nơi cắt
rốn cô đơn bằng những giọt lòng
và lần cởi từng chiếc
cúc
(2)

Vi Thùy Linh mới “Khỏa
thân trong chăn / Thèm chồng
” thôi mà đã bị dè bỉu; còn những “lần cởi từng
chiếc cúc” nữa, bạo gì đâu. Phương Lan đã khác, khác lắm:

Rướn    cong mùa chín       mọng
trong đêm

Chờ
một linh tín để hân    hoan giờ khai      mở,

Dưới
em là    rầm rì cỏ           mềm


những phôi     mầm
phập           phồng cố nén cơn phấn      khích

                                               trong viễn tượng đồng           loạt đội lên

 

Và rồi
êm       lịm

                            hơi thở phủ        xuống em

Giấc
mơ khoan               thai bay đến

khe      rãnh róc rách
 khơi   chảy

Cơn
gió hoang    phiêu mát
lạnh trườn       ngược lên đỉnh        đồi…
(3)

Cả lối đặt
tên bài thơ cũng khác. Không còn vụ “Giấc mơ của lưỡi”, “Thất vọng tạm thời”,
“Hè lỗi hẹn”, “Lãng mạn giải lao” (Phan Huyền Thư) hay “Anh còn cho em”, “Em –
bí mật”, “Nói với anh”, “Mùa anh”, “Thung lũng anh và em” (Vi Thùy Linh) nữa.
Phương Lan bộc trực hơn, nếu không nói là đanh đá đầy khiêu khích: “Lỗ rỗng”,
“Mùa căng”, “Đào thoát”, “Nẻ”, “Lên cao”, “Chờ mưa”, “Vọng
kinh”.

Cùng thế hệ Ngô Thị Hạnh, Nhật Quỳnh nhưng Thanh Xuân,
Lynh Bacardi, Nguyệt Phạm, Phương Lan, Khương Hà Bùi hết còn nền nếp khép mình
trong khuôn phép, họ “quậy” hơn, phá phách táo tợn hơn. Để có mặt.

Nếu lãng mạn-trữ tình của thế hệ Hậu-đổi mới còn muốn
giữ lại cọng hành an toàn, những buông thả mang tính bản năng còn cuộn mình
trong kén ý định:

Em sẵn
sàng chết vì anh nhưng không phải là cái chết đau đớn
Nếu anh không của em

Em sẽ vắt mình đến giọt sống cuối cùng
làm nghiêng ngã mọi ổn
định
.(2)

Thì lãng mạn của cư dân mạng đã khác hẳn. Nó tung hê
tất, dám nói tất. Đây là thế hệ say đắm yêu, nhưng say đắm với con mắt mở lớn
đầy ý thức, từ/ qua thức nhận đòi hỏi bình đẳng giới tuyệt đối.

 

Tôi nghĩ thái
độ hậu hiện đại cũng tương tự như thái độ của một người đàn ông yêu một phụ nữ
học thức cao; anh ta biết rằng anh không thể nói với cô kiểu “anh yêu em mê
mệt”, bởi vì anh thừa hiểu là cô ta biết (và cô ấy cũng biết là anh biết) những
chữ ấy đã được Barbara Cartland viết ra rồi. Tuy nhiên, vẫn còn có cách khác.
Anh có thể nói thế này: “Như Barbara Cartland đã từng nói, anh yêu em mê mệt.”
Như thế, vừa tránh được sự ngây thơ vờ vĩnh vừa có thể nói được rõ ràng những gì
vốn không còn có thể được nói một cách ngây thơ, đồng thời, anh lại vừa nói lên
được những gì anh muốn nói với người phụ nữ: anh yêu cô, nhưng anh yêu cô trong
một thời đại đã mất sự ngây thơ
(4)

Nguyệt Phạm cũng yêu, cũng say, nhưng đã khác nhiều.
Song hành với “chết cóng vì sự nổi loạn
nửa mùa của những cơn mê
.(5)
cái tỉnh táo của ý thức để nhận rõ “đôi
mắt giấy
” của người yêu, nhiều lần
(6). Khương Hà
Bùi nữa, cũng không chịu thua kém:

Xin
anh giữ chặt vai em
cùng quay những vòng xoay chóng mặt
Thảo nguyên rỉ máu
từ những hố sâu rền rĩ đòi trở lại là hoang mạc
Quằn quại nỗi đau tìm về khởi
thủy
Một vòng xoay
Hai vòng xoay
Vũ trụ sinh sôi từ những vòng xoay đơn
giản nhất
Từ xưa và rất xưa…

Hỡi
cơn gió mấy ngàn năm vọng tưởng sóng cồn
Xin gài vào đêm những giấc mơ tình
yêu nồng nàn môi ngọt
Em và anh
Say đắm tìm, say đắm yêu, say đắm tin
Say đắm điệu múa thảo nguyên mộng mị đường về
(7)

Từ “em thuộc
về
anh” hay “anh của em” đến “em
anh” là cả một vực thẳm ý thức!
Và, trong lúc lối quan sát của Phan Huyền Thư – dẫu tinh tế, một tinh tế không
thiếu cái cười tinh nghịch – vẫn còn chịu khuôn định bởi suy nghĩ đơn
tuyến:

Tôi đi

tiếng
còi hú dẹp đường

xe đi
họp lao như tia chớp

để lại
đàng sau phố xá nườm nượp

người
người chẳng hiểu mình sẽ về đâu

 

Tôi đi

những
thằng bé lau nhau

chạy
long đường bán vé số

đánh
giày, tử vi và “kết quả”

thành
phố của tôi

mọi
người sống và biết kết quả từng ngày…
(8)

Cuộc sống đô thị dưới mắt Thanh Xuân đã ngổn ngang, bề
bộn với những chuyển động đa chiều khó nắm bắt:

… Ngày
tân cảng cuốn hút dòng người vào vòng xoáy trách nhiệm

Con
thoi chính mình và mai một những đam mê

Đôi
bàn tay chạm vào nhau, ngổn ngang vô số hoài nghi có thật

Bí mật
có phanh phui?

Rồi tự
phỉ báng vào sự hèn nhát vô nghĩa

 

Trưa
tân cảng mang con người vào khói bụi

Vào sự
thiếu kiềm chế của hai-mươi-tư giờ nhân bản

Khẽ
khàng quay lưng như sợ tâm hồn vỡ tung

Chẳng
muộn màng cho những khát khao

Nhưng
vẫn thấy kiệt sức nếu bắt đầu lại những đấu tranh thần
thánh
(9)

Thanh Xuân: “Tôi đi bằng những bức họa ở ELrời
khỏi bầy đàn âm thầm như cơn bão
” (“Bão cấp”, Evan).
Tôi thực sự thích phát biểu này, và chờ cơn bão tới. Thế nhưng, tôi cứ nơm nớp
rằng không ít những bước được coi là đột phá dũng cảm của các bạn thơ nữ hôm
nay nguy cơ dẫm lên dấu vết người đi trước, không thể nói là không hay, nhưng
đã là cái hay hơi cũ rồi!
(10)

Về nghệ thuật, phát ngôn chỉ là những phát ngôn, dẫu
chúng táo bạo hay táo tợn đến đâu đi nữa. Đầy cảm tính, chúng ta hay nhầm lẫn
lối phát ngôn ngổ ngáo hay gân guốc với sự cách tân thơ! Nhầm lẫn kéo dài gần
mươi năm qua, từ thuở hiện tượng thơ trẻ xuất hiện và gây ồn ào, nỗi nhầm lẫn
mãi hôm nay vẫn còn chưa có dấu hiệu ngưng lại.

Đây là một khủng hoảng bởi ức chế xã hội hay chỉ thuần
bế tắc mang tính thi pháp? Hoặc, tệ hơn: nó chỉ là một cách làm dáng, thời
thượng? Bởi không ít người, mượn cớ cách tân, đã sa bước và chìm nghỉm trong
cõi hỗn mang của trùng trùng lối viết mà không tự biết, hoặc biết, nhưng tự
đánh lừa. Nói cách khác: không nhập cuộc chịu chơi mà bị lôi cuốn vào cuộc
chơi, nên chẳng khám phá được gì. Để cuối cùng tự đánh mất mình và đánh mất
luôn sự kết nối với thế giới xung quanh.

Thế là họ lên ­đường “đi tìm mình”. Cuộc lên đường
tấp nập, nhộn nhịp. Như một tập thể lớn, vừa cố tạo lối đi riêng đồng thời rất
sợ cô độc trong cái mới của thế hệ.
Không phải cái mới hôm nay không dẫm đạp lên nhau,
nhiều nữa là khác. Do lười lao động nghệ thuật, cái mới rất dễ “lừa mị” người
đọc rằng nó độc đáo, khi nó chỉ lo “khác cái cũ” thôi mà bỏ qua không tính tới
công đoạn “khác chính nó”. Đó là sự hời hợt và đồng bộ trong cái mới [hay cái ra
vẻ mới] hôm nay. Các tác giả trang bị thứ tâm lí rất kì lạ: vừa khao khát, đồng
lúc vừa sợ khác các bạn đồng hành. Thế là lặp lại nhau, vô thức hay hữu thức. Rõ
hơn cả, không chỉ ở ngôn ngữ thơ mà, ở chính hình ảnh và ý tưởng thơ. Hình ảnh
“ngựa” hay cái nỗi “tìm mình” chẳng hạn. Ngựa từ Xuân Diệu sang Hoàng Hưng đến
Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Trần Lê Sơn Ý… cứ thế mà ngựa!

Thức dậy đi
hỡi chú ngựa non của đồng ngực trẻ

Thức dậy và
tung bờm cất vó

Phóng như
điên…

Thức dậy đi
ơi chú ngựa

đã ngủ sâu
trong đáy tim nhiều năm tháng
(11).

Mãi tận Đinh
Thị Như Thúy nữa, ngựa chưa bao giờ làm vắng mặt.

Trái tim tôi là con ngựa bất kham

Sải vó dài trên đồng cỏ

Gió ngùn ngụt gió(12)

Rồi khi Ngựa Trời xuất hiện, ngựa đã thành một
cuộc [mốt] chơi không biết đâu là cùng tận:

Em là con
ngựa bất kham vừa chạy trốn vừa chạy theo những ám
ảnh
(13)

Nếu ngựa Xuân
Diệu (“Và hồn tôi như ngựa trẻ không
cương / Con ngựa chiến ngất ngây đường viêu viễn
”) biểu hiện nỗi ngây thơ,
mơ mộng đẫm chất lãng mạn; hoặc ngựa của Hoàng Hưng là ngựa cô độc đầy kiêu hãnh
lạc giữa tập thể bầy (“Em là con ngựa
non thon vó / Lạc giữa rừng người hoang vu
”) thì ngựa của các bạn thơ nữ hôm
nay nhất tề hô khẩu hiệu đòi tháo cũi sổ lồng, giải phóng mình khỏi buộc ràng
phép nhà xã hội. Tất cả – một giuộc!

Ừ, thì vậy.
Đó là tâm thế chung của phụ nữ thời đại. Nó đã vậy và phải vậy. Cả chuyện “đi
tìm mình”, “dám là mình”, “là chính mình” cũng không khác nhau phân tấc.

lọt qua kẽ tay

tôi muốn nhoài người ra biển lớn

tìm mình(14).

Tôi tìm lại
mình trong những giấc mơ cong queo hình vỏ quế
(15)

Em là ai mà
chưa chính mình?
(16)

Thời đại hôm
nay không chấp nhận sự đồng bộ trong lối nghĩ/ lối sống, không chịu vong thân
giữa cộng đồng bầy đàn như đã. Là ý hướng tốt, nhưng đó là nói chuyện đời; còn
trong thơ thì khác. Khác hay là chết! Anh/ chị phải nỗ lực khai phá tìm tòi thi
ảnh lạ, tứ thơ mới. Hoặc, ví có xài hàng cũ, thì thái độ ứng xử với chúng phải
khác, trên tinh thần khác: đùa xíu chẳng hạn; chứ tôi thấy các bạn vẫn còn
nghiêm nghị căng thẳng bật máu quá xá. Nếu không, vô hình trung các bạn rập
khuôn người đi trước và, rập khuôn bạn thơ ở ngay thế hệ mình.

Vẫn còn cả khoảng trắng phía trước cho kẻ sáng tác và,
cho cả các thẩm định.

Làn sóng thơ nữ trẻ Sài Gòn, tách ra từng người viết,
chưa đủ định hình. Chưa tạo phong cách rõ nét, chưa báo hiệu cuộc đổi mới thơ,
như chúng ta mong đợi. Không vấn đề gì cả. Bù lại, nó có đó, như một hiện tượng:
nó là cuộc khủng hoảng. Chúng ta chấp nhận nó hay không, hoàn toàn không quan
trọng.

 

… tới
nỗ lực cắt đuôi hậu tố “nữ”

            Thật
nguy hiểm cho nhà văn nào khi viết lại nghĩ về giới tính của
mình
”.

 
Virginia
Woolf.

 

Qua click
chuột xem thơ, ta thấy lối nhìn, nghĩ, cảm và cả việc chọn cách xuất hiện của
các cây viết nữ Sài Gòn đợt sóng mới thế hệ hậu hiện đại (2002-2006) đã khác,
rất khác. Nhục cảm trần trụi đến bất chấp của Phương Lan, ở cấp độ khác: Lynh
Barcadi, hoặc sôi nổi hồn nhiên nhưng không kém buông thả ở Khương Hà Bùi, cảm
nhận cuộc yêu tinh tế mà lạnh lùng của Nguyệt Phạm hay cái nhìn sắc lạnh ném
vào cuộc sống đương đại ảo/ thực chồng chéo đầy bất trắc như Thanh Xuân. Là
những gì chúng ta ghi nhận từ sáng tác của các cây viết này, từ vài năm
qua.

Dẫu sao, mọi phô bày chỉ mới dừng lại ở phát ngôn về/
cho cái Tôi chủ quan, chưa vươn ra ngoài, ngoại trừ Thanh Xuân, Lynh Barcadi có
vươn ra nhưng chưa thoát hẳn. Nỗ lực phát ngôn mới ở “thời kì quá độ”, còn gồng
mình phá vòng vây phân cách giới. Có cảm tưởng như các bạn đang mặc tấm áo
chật, ướt nữa, mãi loay hoay tìm cách cởi bỏ. Vẫn còn lúng túng trong tìm lối,
chưa đáo bỉ ngạn để làm cuộc tương thoại thích đáng với giới kia. Do đó, vẫn
chưa thể đối thoại sòng phẳng với xã hội, như là một thực thể tự do và tự tại.
Chỉ khi nào chúng ta để cho giới tính như là thế, giới tính mới hết còn là
vấn đề.

Tôi không nói sáng tác của nhóm Ngựa Trời chủ yếu mang
tư tưởng nữ quyền. Không thể gắn cái thiên hạ không [muốn] mang vác để nhận
định về cái không có đó. Nhưng một nghệ sĩ sáng tạo phải vượt qua nỗi “chấp”
(ngã chấp và xã hội-chấp) và vượt qua chính sự vượt qua đó, để LÀ một sinh thể
tự do và tự tại. Ở đây, nhóm Ngựa Trời và cả vài khuôn mặt thơ nữ ở Hà Nội trước
đó, đã không đi tới tận cùng tinh thần nữ quyền (feminism) trong sáng tác văn
chương. Trong lúc thời hiện đại dành cho họ cơ hội lớn. Nhưng tại sao cuộc cách
tân [mạng] của phong trào thơ nữ bất thành, và đã chịu dừng lại ở một dang dở
đáng tiếc? Không phải họ thiếu tài năng mà, đơn giản: họ không lập ngôn, không
biết tuyên ngôn cho phong trào, thậm chí không hình thành một nhóm cố kết [dẫu
ngắn hạn] – là một trong bốn yếu tố tạo nên cuộc cách mạng văn nghệ –, như nhóm
Sáng Tạo nửa thế kỉ trước hay nhóm Mở Miệng cùng thời. Còn quá đậm đặc ở đó khí
hậu thơ hậu-lãng mạn, thiếu một khai phá thi pháp mới.

Đó là những khuôn mặt đang nỗ lực “phá
giới”.

Còn thì đại bộ phận các bạn thơ nữ chưa vượt thoát khỏi
mặc cảm “nữ nhi thường tình” trong sáng tác thơ, chấp nhận và an phận. Có lẽ bởi
thói quen thơ của chúng ta, thói quen bắt nguồn từ truyền thống nam quyền thống
ngự lâu đời, nỗi mặc cảm thân phận mình là phái yếu, tam tòng đầy lệ thuộc. Dù
thế giới hiện đại bày ra trước mắt chị em bao nhiêu ý tưởng, sự kiện lồ lộ về/
của sự bình đẳng giới, và dù họ cũng nhiều lần thử vươn ra, vượt lên. Nhưng rồi
đâu vẫn vào đấy, luôn chịu khép mình sắm vai phụ, rất phụ:

Người đàn bà làm thơ

Người đàn bà ngồi khóc

Người đàn bà muốn làm trẻ nhỏ

Dù sao đi nữa

bàn tay ấy trong chiêm bao

đã tan vào

nghìn điều không có
thật!
(17)

 

Em lặng lẽ yêu

để hồi sinh người đàn bà trong em bấy lâu yên ngủ

thắp giấc mơ tìm kiếm chính mình

hát ru thầm một kiếp vùi
quên
(18)

Mặc cảm liễu yếu, tòng thuộc thì rõ rồi. Nhưng theo
tôi, với nhà thơ nữ Việt, điều bất khả vượt này còn cắm rễ vào miền tối sâu
thẳm hơn và có thể nói, nguy hiểm hơn: tiếng Việt. Tiếng Việt với các chủ ngữ
thiếu trung tính. Vừa mở miệng xưng hô, cán cân thiên lệch nghiêng ngay về phái
mạnh.

Phạm Thị Hoài đùa đại ý rằng các nhà văn viết tiếng
Việt khó viết truyện trinh thám hay. Lí do đơn giản là các chủ từ tiếng Việt
thiếu tính khách quan. Mới vào trang đầu, “hắn” xuất hiện thì người đọc đã biết
ngay kết cục truyện thế nào rồi. “Hắn” chắc chắn phải là đồ phản diện, thứ kẻ
xấu xa, đáng lên án. Chứ không lương thiện, anh hùng như nhân vật “anh”, “ông
ấy” được! Thì còn kịch tính với nút thắt đâu để mà trinh với thám?

 

Trở
lại với thơ, thói quen “em” từ thời Thơ Mới vẫn bám dai dẳng không dứt ra được.
Chị em làm thơ đặt bút xuống là EM có mặt, to tướng, không thể bôi xóa. Hơn thế,
nó lại đầy… chất thơ, mới phiền! Quan hệ máu mủ, em so bì với anh, chịu lép vế
là cái chắc; quan hệ gái/ trai, vợ/ chồng thì càng. Núp bóng “anh”, người nữ lúc
nào cũng phải “dựa vào nam giới mới có thể định nghĩa chính mình”. Các nhà thơ
nữ rõ sự vụ ấy quá chứ! Xưa, đã có tấm gương sáng Hồ Xuân Hương [cứ cho tác giả
này là nữ] xưng “chị” gọi em ngang tàng ngang dọc. Thời gian qua, vài nhà thơ
thử làm cuộc đảo chánh nhỏ, họ sử dụng chủ từ “tôi” cách sòng phẳng trong các
sáng tác của mình. Thu Nguyệt nhuần nhị “tôi” hay “ta”. Trước đó, Nhã Ca còn đẩy
chủ từ tới cùng hơn nữa – “tui”. Hi vọng thoát khỏi kiếp tòng thuộc. Nhưng đại
đa số nhà thơ nữ ta mặc cảm vẫn hoàn mặc cảm. Nói như Lê Khánh Mai, “oan nghiệt
ngày thường” trở thành “oan nghiệt phận thơ”. Có nỗ lực “tìm mình” thì cứ lại
thấy một mình-phụ tùng. Có gắng gượng làm cuộc bứt phá tới đâu, sáng tác phẩm
của mình vẫn rơi tõm vào cõi giới tính thứ hai tệ hại:

lọt qua kẽ tay

tôi muốn nhoài người ra biển lớn

tìm mình(19).

 

bạn cùng ta “bứt phá”

lang thang quên mình là đàn bà

 

… bao đền đài thơ sừng sững

ta gieo xác chữ ích gì

 

… ta ru oan nghiệt ngày thường

oan nghiệt phận thơ – tiếng kêu máu
vỡ
(20)

Vậy, làm sao thoát khỏi hạn chế của sự trói buộc của
ngôn ngữ?

Không cần thiết phải chống lại thói quen thơ hay qui
ước ngôn ngữ, vài nhà thơ nữ đã có cách khác, trực diện hơn và hiệu quả hơn, có
lẽ. Và họ tin thế. Tự do tính dục là tâm điểm của các lí thuyết nữ quyền. Vậy
tại sao chúng ta không sử dụng vũ khí sẵn có ấy vào cuộc?

Nếu không kể các nữ thi sĩ ở hải ngoại như Lê Thị Thấm
Vân, Trân Sa thì ở tiết mục này, Vi Thùy Linh và… đáng mặt đại biểu lá cờ đầu.
Say mê yêu, tự do biểu lộ và mạnh dạn viết. Mạnh bạo, quyết liệt và, sẵn sàng
dung tục nếu cần. Để chống lại sự vụ lâu nay bị đè nén, áp bức, để phản kháng
định kiến cũ lỗi thời, để giải tỏa những uẩn ức ngàn năm bị nhìn một chiều từ
phía bên kia nơi nền “văn hóa dương vật” thống ngự. Đây là thân xác của tôi, tôi
có toàn quyền trên nó, phô bày nó ra trong trang viết của tôi.

“Thì đã sao nào”? Thanh Xuân nói thế. Và, Thanh Xuân
cùng các nhà thơ trẻ thuộc làn sóng thơ nữ trẻ Sài Gòn đã đẩy nó tới đầu mút
bên kia của tự do phơi bày.

Nhưng dù gì thì gì, sự cách tân thơ cần được xem xét từ
góc độ quan hệ của thơ với người đọc. Trong bầu khí quyển văn hóa Việt Nam hiện
đại, mưu toan giải phóng kia đã tạo cú sốc. Cho cả người đọc nam lẫn nữ giới.
Người ta vội vã chụp cho nó cái mũ văn chương khiêu dâm rẻ tiền hoặc ngược lại,
cũng không ít người – không phải không trí thức, trong nỗi hào hứng cổ vũ cái
mới – đã hối hả kêu đích thị nó biểu tượng giải phóng phụ nữ trong văn
học.

 

Thật sai lầm tai hại, khi đồng hóa thơ Vi Thùy Linh với
nhóm Ngựa Trời. Làn sóng thơ nữ trẻ Sài Gòn khác hẳn Khát
Linh(21). Vi
Thùy Linh có được hơi thơ khá lạ so với không khí thơ miền Bắc; và nhờ sự tiếp
sức của thông tin đại chúng, ít nhiều nó đã thổi được làn gió hiu hắt vào khí
hậu thơ đang tù đọng của thơ Việt. Nhưng đòi hỏi nó gồng gánh “tinh thần nữ
quyền” (feminism)
(22), hay
là “biểu tượng giải phóng phụ nữ trong văn học”
(23) là yêu cầu quá tải. Ở đó còn quá đậm đặc khí hậu thơ
hậu-lãng mạn, tính chất nghiêm cẩn (seriousness) đến nghiêm trọng của giọng thơ,
chiều hướng coi “đực tính” là trung tâm nơi miền sâu tiềm thức của ngôn ngữ thơ.
Ngăn cách cả một vực thẳm với tinh thần hậu hiện đại.

Có thể nói thơ Vi Thùy Linh như thể tiếng kêu gào khản
cổ đòi được yêu, được âu yếm chứ không thăng hoa tình yêu; khao khát tình dục
chứ không giải phóng tình dục: “Về đi anh! / Cài then tiếng khóc của em bằng
đôi môi anh
”, “Khi em tựa cửa / Là khi em cần anh”. Ở đó lộ thiên
tinh thần “nữ tính” yếu đuối đầy tòng thuộc đồng thời phơi bày một trái tim dễ
tổn thương, trầy xước khi bị bỏ rơi, ruồng rẫy: “Em
khóc sập trời, anh vẫn cứ đi
”, “Bị
đánh mất khỏi anh / Em sẽ mất em / Khi thuộc về người đàn ông khác
”, “Em có thể chết vì anh”. Khác với “Căn
phòng 2.2-âm thanh sóng” của Lê Thị Thấm Vân: “mới mẻ hơn trong cách viết, dữ
dội mấy lần trong diễn tả, đồng thời nó sòng phẳng trong quan hệ hai giới: tinh
nghịch, lành mạnh và sạch sẽ. Còn “khỏa
mình trong chăn
”, “thèm chồng”,
em đã khóc trên hai bàn tay trầy
xước
(24). Tất cả không gì hơn phơi bày cái thê thảm của một
hiện tượng bị “choáng ngợp trước nghệ thuật, tự do bùng mở để đi lùi hay bị rơi
vào… lãng mạn, trữ tình, hơi lỗi thời”
(25). Nơi “Căn phòng…” của Lê Thị Thấm Vân, người đọc tìm
thấy sức mạnh nội tại có khả năng lay chuyển truyền thống, đánh đổ thành trì
định kiến về giới tính cũ kĩ.

Từ đó, để cho giới tính như
là thế
.

Như vậy, câu hỏi cốt tủy đặt ra là cô/ chị đã xử lí
nghệ thuật như thế nào, chứ không phải cô/ chị đã mạnh bạo dùng đề tài nào hay,
hô to cỡ nào.

Cùng thế hệ, chúng ta bắt gặp vài khuôn mặt “khôn
ngoan” và tỉnh táo hơn. Phạm Tường Vân, Đỗ Khánh Phương hay Nguyễn Thị Thúy
Hằng chẳng hạn. Bỏ rơi đề tài “nóng” sau lưng [cần thiết họ vẫn cứ dùng tới],
không gồng mình dùng các hạn từ bạo phổi (mãnh
liệt, tuyệt đích, trầm trọng, dữ dội, miên viễn, vĩ đại, hệ lụy, bão tố, nồng
cháy
… là các từ Vi Thùy Linh khoái dùng), họ đường hoàng đi tới. Chuyển hóa
tư duy thơ, từ đó, rất lặng lẽ – cắt đuôi hậu tố [hay tiền tố] “nữ” (trong cụm
từ nhà thơ-nữ hay nữ-thi
sĩ) đầy tai ương, bất trắc. Với sự nhậy cảm nghệ thuật, các nhà thơ này dũng
mãnh bước ra ngoài, ngụp lặn sâu vào dòng sống hiện đại và bằng lao động thơ, họ
bắt gặp giọng điệu của mình.

Ở đó, Nguyễn Thị Thúy Hằng là tiếng thơ đáng
kể:

Sao
không thoát xa căn phòng chật chội, khe cửa hẹp giấy má, mẩu bút chì, vôi vữa và
nỗi buồn vứt lung tung

… Bay
đi!

Cao.
Cao nữa. Trên tầng cao xanh chót vót…

… Bên
ngoài tiếng vỗ cánh loài chim lạ sẽ đánh thức bạn

Bay
đi!

Bay
đi!

Với
dáng điệu quen thuộc (những bước đi hoặc bằng tất cả quyến rũ gợi nên sự diêm
dúa của loài chim)

Tôi
viết thơ cho bạn cũng trong căn phòng chật hẹp

Vì thế
nỗi niềm chúng ta có dịp gặp gỡ, chúng rủ nhau chạy trốn

Và vì
một điều gì không cưỡng lại được, ta hãy cho chúng bay
đi!
(26)

Nhà thơ hôm nay đã đánh mất sự ngây thơ – ngây thơ
trong tình yêu, trong niềm tin… Nói như một nhà văn Tây phương đương đại, chúng
ta đang sống trong một thời đại mà văn chương đã đánh mất sự ngây thơ của mình.
Một tin lành chăng?

Tin lành – chắc chắn thế!

Do đó, một lối nhìn ảm đạm như của Nguyễn Hòa về hậu
hiện đại mất đất đứng, là chuyện đương nhiên:

Vào lúc các lí
thuyết gia đang quảng bá cho một nền văn học “hậu hiện đại”, tôi vẫn không tin
lúc này văn học của chúng ta đã bước vào giai đoạn “hậu hiện đại”, bởi liệu nền
tảng là trình độ tư duy đã đi hết con đường “hiện đại” hay chưa. Phân tích kỹ
lưỡng, chưa biết chừng trình độ tư duy của chính những người đang say mê quảng
bá vẫn còn ở trong giai đoạn “tiền hiện đại” cũng nên!
(27)

Từ ý thức-thơ đến hành động-thơ, từ cựa quậy đập phá
đến tìm đường, hay nói như Nguyễn Thị Hoàng Bắc: từ “Chúng tôi vì đàn ông” đến
nổi loạn cướp ngọn cờ “Tuyên dương”
(28) để
rốt cục bình tĩnh miệt mài đi tìm và tìm thấy vị thế cùng giọng điệu mình, là
một hành trình dài, gian nan và bất trắc. Như thể từ một biện chứng đời chuyển
sang biện chứng thơ hay ngược lại. Trên con đường khổ ải đó, không ít chị em đã
thất bại, ngã lòng, chiêu hồi làm thứ “Em vẫn thuộc sự sống của anh, trọn vẹn
(Vi Thùy Linh) an phận. Còn nhìn chung, có nhiều dấu hiệu đáng mừng. Tin lành
khắp nơi bay đến.

Thế hệ hậu hiện đại mới (kể từ năm 2007), khi các nhà
thơ nữ không còn bận tâm đến phi tâm hóa hậu hiện đại, họ vô ngại thể hiện
mình. Xuất hiện trên giấy hay mạng, không quan trọng. Càng không quan trọng, in
chính thống hay phi chính thống.

Truyền thống thơ Việt ít khắc khoải siêu hình, trong
khi đó, suy tư về thân phận con người trong đời sống hiện tại chảy tràn trong
thơ Lưu Mêlan.
Chiêu
Anh Nguyễn với “Gọng kính oval cầm lên
đặt xuống
” ở cà phê vỉa hè Sài Gòn không khác gì một nghệ sĩ hiện sinh.
Phan Thị Vàng Anh tạo lập mối
dây tương liên giữa con người và sự vật được thiết lập thoát khỏi đồng hóa hay
làm xa lạ; qua đó chị biến vật dụng là những sự vật thân thuộc – thân thuộc như
chúng đang là, đang hiện hữu. Tiểu Anh đưa thơ vượt khỏi quỹ đạo thân thể và cái
giường, là chuyện đại đa số thơ nữ không tìm ra lối thoát, thời gian qua. Thi sĩ
Chăm Kiều Maily đưa ra câu hỏi vui vẻ, khoái hoạt nhưng đầy thách thức cho cánh
đàn ông, qua “Nhảy”:

Giữa anh và em là vực thẳm

mấy lần số cát bãi Nam Kương kia không thể lấp
đầy

 

giữa đôi mắt chúng ta là vực thẳm

đắm đuối đến đâu cũng không thể đầy

 

giữa thân thể chúng ta là vực thẳm

ngàn nụ hôn cũng không thể làm đầy

 

anh có muốn nhảy
không?
(29)

Trong
khi ở miền Tây, Vũ Thiên Kiều vừa thổi vào khí hậu thơ đồng bằng Nam Bộ một hơi
thơ mới – sống và động, thì ở miền Bắc, Du Nguyên qua
nỗi buồn không
địa chỉ
”, đã mang vào thơ Việt một cảm trạng sâu thẳm hơn: cảm trạng hiện
sinh; không phải hiện sinh ở chủ nghĩa hiện sinh của J-P. Sartre của một thời,
mà là cảm trạng mang tính con người. Là một hiện tượng cực kì hiếm trong văn học
Việt Nam đương đại.

Tất cả đều mang đến tin lành!

 

*

NGỌN
CỎ

 

tiếng
nước đái

                           nhỏ giọt

trong
bồn cầu tí tách

thứ
nước ấm sóng sánh vàng

                                       hổ phách

trong
người tôi tuôn ra

phải
rồi

tôi là
đàn bà

hạng
đàn bà đái không qua ngọn cỏ

bây
giờ

được
ngồi rồi trên bồn cầu chễm chệ

tương
lai không chừng tôi sẽ

to con
mập phệ


tách như mưa

ngọn
cỏ gió đùa
(30)

Bài “Ngọn cỏ” xuất hiện ở tạp chí Hợp
lưu
năm 1997, đã gây sốc lớn cho độc giả thời điểm ấy. Không ít kẻ làm văn chương đã có phản ứng khá tiêu
cực.
Nhưng nó đã chinh phục được nhiều người, bởi đây là bài thơ thể hiện
tinh thần nữ quyền rất độc đáo.

Thế giới hôm nay cung cấp cho nữ giới bao nhiêu là tấm
gương chói lòa, với đủ đầy phương tiện hiện đại [“bồn cầu” là một trong những].
Người nữ ý thức sâu thẳm và mãnh liệt rằng mình là một nửa nhân loại. Chính họ
đã và đang góp phần tạo nên lịch sử thế giới. Chứ không bị đẩy ra bên mép rìa xã
hội hay đứng ngoài lề văn học như đã từng nữa. Tại sao họ lại từ bỏ cơ hội ngon
ăn kia chứ?

Biên giới giữa nam và nữ đã, đang phải bị/ được xoá bỏ.
Nguyễn Thị Hoàng Bắc tuyên như thế trong một cuộc phỏng vấn. Nhưng tuyên là một
chuyện, làm thơ là chuyện hoàn toàn khác. Khởi đầu, hơi thơ “Ngọn cỏ” đi mạnh mẽ
và trang trọng như bao bài thơ hiện đại khác. Người đọc ngỡ sẽ bắt gặp nỗi gồng
mình [phê phán hay tuyên bố gì đó đại loại] ở câu tiếp theo, như đã từng thấy sự
thể biểu hiện ở thơ nữ trẻ mấy năm qua. Nhưng không, bài thơ bỗng chuyển hướng
qua giọng phớt đời, khinh bạc rồi bất ngờ bẻ ngoặt sang đùa cợt đầy khiếm nhã!

Chẳng có gì nghiêm trọng cả! Nếu không có “ngọn cỏ gió
đùa” đột ngột kia, bài thơ chỉ dừng lại ở ngưỡng nữ quyền hiện đại: nghiêm trọng
và không kém quyết liệt. Nhưng chỉ cần một giễu nhại, tất cả đã lột xác: bài thơ
làm cú nhảy ngoạn mục sang bờ bên kia của mĩ học hậu hiện đại.

Tính chất nghiêm cẩn của giọng thơ đã được tháo gỡ.
“Ngọn cỏ gió đùa” thời Hồ Biểu Chánh đã lui vào hậu trường lịch sử. Nó được
Nguyễn Thị Hoàng Bắc giải phóng. Hãy để cho ngọn cỏ tự do đùa với gió mà không
buộc nó phải chịu phận so đo trong tinh thần phân biệt đối xử với sự đái. Cả sự
đái của đàn bà cũng được cởi trói, qua đó thân phận tòng thuộc của chị em được
giải phóng.

Trong văn học nghệ thuật, chủ nghĩa hậu hiện đại chủ
trương giải-khu biệt hoá (de-differentiation) và phi tâm hoá (de-centring), dẫu
trung tâm đó đó là Âu Mĩ nay hay Trung Quốc xưa; ở đây là vị thế đàn ông trong
văn hóa phụ hệ, đã tạo đà cho nhà văn nữ tự tin dấn tới. Không còn thái độ xốc
nổi con nít thuở tiền-hậu hiện đại: phủ định, phản kháng và hô hào nổi loạn
(tôi gọi đó là thứ thơ-nói to, thơ-la làng) – cần, nhưng không đủ, mà là: nhắm
tới việc cắt đuôi hậu tố “nữ” trong chính sáng tác phẩm của mình.

Từ chối giọng điệu cải lương yểu điệu thục nữ, hết còn
căng thẳng bật máu với cánh đàn ông, với truyền thống, cũng không thèm đóng
thùng trịnh trọng mô phạm dạy đời (Lê Thị Thấm Vân), biết cười người (Phan
Huyền Thư) và nhất là biết cười mình (Nguyễn Thị Hoàng Bắc), nhà thơ nữ hôm nay
đang vượt thoát khỏi mặc cảm thân phận, khỏi trở lực nếp nhà đầy quy ước gò bó
của ngôn ngữ Việt, sẵn sàng vươn đến nơi chốn sự sự vô ngại trong cõi sáng
tạo.

 

Sài
Gòn
, tháng 12-2005; viết
lại 3-2015.

___________________

 

Chú
thích

(1) Hoàng
Ngọc-Tuấn, Birgit Hussfeld, Bàn tròn
Talawas
“Mỹ thuật Việt Nam đang ở đâu?”, Talawas.org,
25-10-2002.

(2) Vi Thùy
Linh, Linh, Nxb Hội Nhà văn, H.,
2000.

(3) “Đỉnh
hoa”, Evan.vnexpress.net,
2004
.

(4) Umberto
Eco, Dẫn lại theo: Nguyễn Hưng Quốc, Văn
học Việt Nam, từ điểm nhìn h(ậu h)iện đại
, Văn nghệ, Hoa Kì, 2000, tr.
192.

(5) Các
đoạn thơ được trích dẫn từ Website Evan.vnexpress.net,
2004-2005.

(6) Nguyệt
Phạm, “Những đàn bà trong thành phố”,
Evan.vnexpress.net
, 2004.

(7) “Thụy
Du”, Evan.vnexpress.net,
2004.

(8) Phan
Huyền Thư, Nằm nghiêng, Nxb Hội Nhà
văn, 2002, tr. 16.

(9) Thanh
Xuân, “Chưa phải ngày cuối cùng”, Evan.vnexpress.net, 2004.

(10) Ví dụ
đọc “Đỉnh hoa” của Phương Lan, chúng ta không thể không nhớ tới Lê Thị Thấm Vân:
“Căn phòng 2.2 – âm thanh sóng”, Tạp chí Thơ, số Mùa Đông 1999; hay Trân Sa,
“Động tác yêu”, Nhanhnho.org,
2001.

(11) “Bài ca ngựa non”, trong Thơ
hôm nay
,
Nxb Đồng Nai, 2003.

(12)
Đinh
Thị Như Thúy, “Một ngày tháng sáu”, Vannghesongcuulong.org,
10.06.2006.

(13)
Khương
Hà, “Bên trái là đêm”,Dự báo phi thời
tiết
,
Nxb Hội Nhà văn, 2006, tr. 32.

(14)
Trương Gia Hòa, Sóng
sánh mẹ và anh
, Nxb Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 2005, tr. 88.

 (15) Khương Hà, “Lẩn thẩn”,
sđd, tr. 42.

(16) Nguyệt Phạm,“Chữ gọi mùa đam mê”, sđd, tr.
87.

(17)
Lê Thị Thanh Tâm, “Gởi một người đàn
bà làm thơ”, Thơ trẻ TP Hồ Chí Minh,
Nxb Trẻ, 2002, tr. 106.

(18)
Lê Khánh Mai, Đẹp,
buồn và trong suốt như sương
, Nxb Hội Nhà văn, H., 2005, tr. 56.

(19)
Trương Gia Hòa, Sđd, tr.
88.

(20)
Lê Khánh Mai, Sđd, Nxb Hội Nhà văn,
H., 2005, tr. 61.

(21) Vi
Thùy Linh, Khát, Nxb Hội Nhà văn,
H., 2002.

(22) Phạm
Xuân Nguyên trong: “Phê bình văn học hiện nay, cái thiếu và cái yếu”, Tham luận
tại Toạ đàm Phê bình văn học Bản chất và đối tượng do Viện Văn Học
tổ chức tại Hà Nội, ngày 27-5-2004.

(23) Dương
Tường, “Mười năm trên giá sách văn chương”,
Talawas.org
, 2004.

(24) Xem
thêm: Trần Wũ Khang, “Nhà phê bình chuyên-nghiệp dư”, Talawas.org,
2005.

(25).Nguyễn
Vy Khanh, “Về
thơ hôm nay”
, Demthu.lonestar.org,
10-2003.

(26) Thúy
Hằng, “Viết cho chim sơn ca”, Thơ trẻ TP
Hồ Chí Minh
, Nxb Trẻ, 2002, tr. 15.

(27)
Nguyễn
Hòa, “Văn chương 2004
oằn
mình giữa “nhập nhòa” cũ
mới”,
Evan.vnexpress.net,
21-1-2005.

(28) Tên
hai bài thơ của Nguyễn Thị Hoàng Bắc, 26
nhà thơ Việt Nam đương đại
, Tân Thư xuất bản, Hoa Kì, 2002.

(29)
Kiều Maily, Giữa
hai khoảng trống
, Nxb Thanh niên, 2014.

(30)
Nguyễn Thị Hoàng Bắc, sđd, tr.
27.

Comments are closed.