Trần Hoàng Phố
1- HÀNH TRÌNH THI CA ĐI VÀO NỘI GIỚI THẲM SÂU VÀ SỰ TÌM VỀ THẾ GIỚI NHỮNG CỔ MẪU NƯỚC, LỬA, KHÔNG KHÍ
Tập thơ Sự tĩnh lặng của nước của Trần Duy Trung làm cho người đọc thơ như tôi ngạc nhiên, tò mò với một cảm giác lạ lùng.
Đọc những bài thơ của thi sĩ ta như đi vào một cuộc phiêu lãng của chữ, của một thứ ngôn từ tinh khôi, mới mẻ với các thi ảnh bất ngờ làm tâm hồn ta xao xuyến. Một thế giới thơ mà cái tôi trữ tình của thi sĩ nhập thân vào ra vũ trụ tự nhiên một cách khinh khoái nhẹ nhàng như một đám mây bay.
Và bên dưới đó một tâm hồn đầy mơ mộng xuất phát từ một mảnh vỡ của thiên hà hoàng tử bé đến với trần gian trong một nỗi hoài nhớ về một thế giới siêu tâm thức bản nguyên. Như nhà thơ Dư Thị Hoàn từng nhận xét “Lâu lắm rồi mới nhặt được một mảnh vỡ của siêu tâm thức trong thơ” (bìa bốn tập thơ Sự tĩnh lặng của nước).
Thử đọc chầm chậm bài thơ thứ hai của tập thơ, có tên là “Trong sự tĩnh lặng của nước”, được lấy 5 chữ sau làm nhan đề của chính tập thơ:
“Trở về ngôi nhà của im lặng
một cánh cửa mở vào lòng biển cả
như viên sỏi
tôi nhẹ nhàng chìm xuống
trong giấc ngủ mùa đông
sự dịu dàng của nước
vỗ về tôi
trong sự tĩnh lặng của tâm hồn
một cánh cửa khác mở ra
và tôi của vạn vật
những xáo động không ngừng
và tôi thấy
một cánh cửa khác
rồi một cánh cửa khác nữa
mở ra…
tôi nghĩ về nước
tôi nghĩ về sự trong suốt
và tôi biết
tôi là nước
bầu trời trong mắt tôi
những đám mây và cánh chim tự do
và tôi thấy tôi
trong sự tĩnh lặng
của nước”
Nước là một “cổ mẫu” (archetype) bản nguyên của thế giới theo G. Bachelard.
Tìm về với thế giới bản nguyên này, thi sĩ mời gọi ta tìm về với chính ngôi nhà hằng cửu của sự dịu dàng, của sự trong suốt tâm hồn, và chính nơi sự tĩnh lặng tuyệt đối đó, ta có thể tìm thấy được sự phản chiếu những vẻ đẹp mong manh của vũ trụ vạn vật trong chính nội giới của chính ta. Ở đó, tôi là nước, tôi cũng chính là những đám mây bay và cánh chim tự do
Thơ của Trần Duy Trung là tiếng thơ chiêm nghiệm tâm linh. Nó là thứ tìm về bản thể của chính linh hồn ta.
Khi thế giới trần gian đầy xáo động ồn ào và ở trong thế giới đó, con người đang tự đánh mất bản thân mình, bị vong thân và bị tha hoá.
Nói như R. M. Rilke trong Thư gởi người thi sĩ trẻ: “Hãy đi sâu vào tận bản thể tâm linh của mình, tiếng thơ mang bản sắc của mình bật ra từ đấy, từ hành trình vào nội giới, cô đơn, tĩnh lặng và sâu thẳm!”
2- NHỮNG KHOẢNG TRẮNG LẶNG THI CA IM CHỜ ĐỢI NHỮNG CHÂN TRỜI BẠN ĐỌC
Tập thơ này gồm 38 bài, 64 trang, tuy nhiên điều lạ lùng là bài thơ cuối cùng có tên Mật ngữ dài đến 12 trang, nhưng 11 trang để trắng, như một sự gợi mở đánh thức và chờ đợi sự tưởng tượng của người đọc từ thế giới ngôn từ của nhà thơ.
Trong lời đề từ mở đầu tập thơ này, thi sĩ viết
“hãy đọc tôi bằng sự im lặng của bạn
sự trống rỗng của nó”
Hay, bài thơ Mật Ngữ, viết:
“đây là khoảng trống của bạn
tôi đã dành nó cho cuộc gặp gỡ này
…
trên những trang giấy
bạn là mật ngữ của tôi
…
ở đó chúng ta là những trôi dạt
những vắng mặt của nhau”
3- SỰ HIỆN HỮU CỦA PHẬN NGƯỜI CÓ-KHÔNG, RỖNG-ĐẦY TRONG CÕI VÔ BIÊN
Trong vũ trụ thơ của Trần Duy Trung, chúng ta như trôi đi trong một thế giới phi thực, trôi trong khoảng mênh mông của các thiên hà, thực và phi thực, hiện diện và vắng mặt, đầy và rỗng của tâm hồn, là những cảm giác bất định chông chênh:
“…
chúng. ta. là. một. sự. hiện. diện. vắng. mặt
sự tĩnh lặng đưa chúng ta đi thật xa
bên trong các thiên hà
sự mong manh
đôi khi làm ta vỡ
chúng ta ở đây
và chúng ta không ở đây
sự trong suốt có thể làm ta biến mất
trong một hình thù không giới hạn
và im lặng
đôi khi làm ta rơi vào bên trong
chúng ta ở đây
và chúng ta không ở đây
chúng ta là một sự hiện diện được lấp đầy
rỗng và yên lặng”
(Một sự hiện diện vắng mặt)
Trong cõi vô biên, sự hiện hữu của một đời người là hết sức ngắn ngủi, chỉ một thoáng chốc, có đó, rồi biến mất đó. Sự trầm tư về cõi có-không đó, cõi phận người đầy xao xuyến đó, cũng là một nét đặc sắc trong thơ Trung. Trong thơ Trung, cõi nội giới cũng là ngoại giới, sự xuyên thấm qua lại trên đường ranh thật mong manh.
4- NƯỚC, LỬA VÀ SỰ BIỆN CHỨNG CHUYỂN SINH
Thơ Trung, còn biểu hiện một cổ mẫu hằng cửu khác là lửa, lửa gắn với sự chuyển sinh, chuyển hoá từ trạng thái này sang trạng thái khác, có khi theo kiểu đối nghịch thăng hoa, có khi mang nghĩa từ kiếp này sang kiếp khác, có khi là chuyển hóa ra vào giữa tâm linh và vũ trụ, giữa sự ràng buộc được rời bỏ và tự do, chẳng hạn trong bài Chuyển sinh [2]:
“một cuối cùng nào trong tiếng reo của lửa
sự cô đơn chuyển hoá
những nỗi đau chuyển hoá
thân thể
như xác một con tàu
chìm dần…
trong hình hài ngọn lửa
trong sự chuyển hoá không ngừng
tâm linh và vũ trụ
rời bỏ và tự do
trong bao la và gió
tôi thấy tôi bay như một vì sao nhỏ
một vì sao
sáng tựa linh hồn”
Ở đó có sự gắn kết giữa lửa và nước trong khổ thơ đầu” thân thể như xác con tàu đang chìm dần”. Ở đó có sự đối lập chuyển hoá giữa thân xác và tâm linh, giữa bóng tối và ánh sáng, giữa nước và lửa, sự chuyển sinh còn gắn với một không gian khác, không gian bao la của không trung và sự chuyển động của không khí là gió:
“tôi thấy tôi bay như một vì sao nhỏ”
Điều lạ lùng là sự so sánh ngược:
“một vì sao
sáng tựa linh hồn”
5- TÌNH YÊU VÀ SỰ THỨC TỈNH CÁI ĐẸP
Những bài thơ tình yêu pha một chút nhục cảm, Trần Duy Trung có một cách viết mới, với một thiên nhiên diệu kỳ, rạng rỡ nhưng trong sự tĩnh lặng sâu xa, như bài Địa đàng mở đầu tập thơ Sự tĩnh lặng của nước:
“ngôi sao cuối cùng rơi vào im lặng
bầu trời mở ra dưới làn tuyết trắng
tôi nghe tiếng thì thầm vọng lên từ khu rừng lạ
dậy hương và ánh sáng
tôi nghe thấy tiếng thở từ đầu những ngón tay
trên. hàng. khuy. áo. của. nàng
và mặt trời gáy vang
nơi đỉnh núi mím màu son đỏ”
Sự lạ hoá ngôn từ “nghe thấy tiếng thở từ đầu ngón tay” và đặc biệt hai câu cuối
“mặt trời lại gáy vang
nơi đỉnh núi mím màu son đỏ“
có một sự liên tưởng khác thường mang hương vị kỳ thú.
Hay với sự tưởng tượng thi vị lạ lùng:
“Nàng dịu dàng như buổi sáng
thiêm thiếp trên những đám mây ủ mưa xuân
những đám mây như bông hoa nhiều cánh
nở trên ngực ngày da xanh
…
tôi thấy thân thể nàng tan ra từng tia nắng mỏng
xuống ủ hương ngày rất tôi”
(Bài hát buổi sáng)
Hoặc:
“Khi mặt trời đánh rơi những chiếc bóng trên ngọn đồi
và con đường dẫn về màu xanh giấc ngủ
trong đôi mắt em xáo động
những giọt mùa tan nhanh như sóng nước
và bài ca buổi sáng như một đôi cánh vút
lao vào vẻ đẹp của tháng Giêng”
(Bài ca buổi sáng)
6- CHỦ ĐIỂM GIẢN DỊ ĐỜI THƯỜNG
Chủ điểm rất giản dị đời thường “Con bị ốm”, lại được thể hiện trong một thế giới thi ảnh lạ và cảm động:
“Tiếng ho của đứa trẻ
xô lệch cả căn nhà tĩnh mịch
tôi ngỡ ai đó vừa đập mạnh cửa kính
làm rơi vỡ những mảnh thủy tinh
chúng làm đêm rung lên
như chiếc bong bóng vỡ
làm cả không gian như ngừng thở
chúng chạm vào tôi
như cơn gió thối tắt ngọn đèn dầu
làm tim tôi thắt lại…
tôi mở cửa và cố thở
tôi thấy bầu trời như những mảnh thủy tinh vỡ
ở đó lấp lánh những ước mơ
đang nhòe đi lặng lẽ…
(Bầu trời những đêm con ốm)
Chỉ là tiếng ho của con trẻ thôi mà gợi được sự tưởng tượng đêm mà như rung lên, như chiếc bóng bóng vỡ và bầu trời mà như những mảnh thủy tinh vỡ… và cảm giác người cha, tim như thắt lại, tôi mở cửa và cố thở…
7- CÂU THƠ LẠ, NHỮNG THI ẢNH ĐỘC ĐÁO
Thơ Trần Duy Trung có những câu thật lạ, nó như đảo ngược vị trí thông thường:
“Buổi chiều
như cuốn sách cổ người phương đông
đọc tôi vào im lặng”
(Mưa [1])
hoặc những thi ảnh kỳ thú mà u hoài như một bức tranh siêu thực:
“những con chim làm tổ trong giấc ngủ của tôi
những cái cây mọc rễ trong giấc mơ của tôi
bông hoa nở từ hơi thở của tôi
…
…
tôi thấy dáng ai đi về bên kia sông vắng
hai mắt buồn như giếng cạn
xác một ngôi sao”
(Ký ức tôi khu vườn gió thổi)
Cái chết cũng là một ám ảnh trong thế giới thơ của Sự tĩnh lặng của nước, tuy nhiên nó được gắn trong sự di chuyển đi về, trong tính biện chứng thời gian giữa hiện tại và triệu năm trước với một sinh nhật thấm đẫm chiêm nghiệm triết lý:
“ở chỗ tôi ngồi triệu năm trước
bầy đom đóm đêm thắp đèn dạ tiệc
sinh nhật cái chết tôi”
hoặc như một sự thăng hoa lạ lùng:
“chúng ta nuôi dưỡng những câu thơ
bằng tiếng hót của cái chết rực rỡ”
Đôi khi Trần Duy Trung viết những câu thơ thật đẹp về cuộc đời, tình yêu và đặc biệt là cái chết trong những đoạn thơ mượn lời người cha nói với con:
“trên đường đi chiều nay cha bắt gặp
một ngôi nhà bỏ hoang bên vách đá
ngôi nhà đầy cỏ dại và hoa
rồi cuộc đời cha sẽ đi qua
cha sẽ thành tro bụi
cha sẽ nằm bên vách núi
trong ngôi nhà
đầy cỏ dại và hoa
vì cuộc đời là có thật
vì cái chết là có thật
cái chết
đang rung chuông ngoài cửa
chúng ta
những. bông. hoa. mùa
trần gian
nở
và
tàn
cha và con
và chúng ta chỉ là khoảnh khắc
…
…
vì cuộc đời là có thật
vì tình yêu là có thật”
8-NHỮNG BÀI THƠ MANG TÍNH THỜI SỰ VỚI CÁCH DIỄN TẢ ĐỘC ĐÁO
Những bài thơ mang hơi hướng thời sự xã hội như Bầu trời tắt lửa hay tháng Sáu đen của tôi, Tây Tạng, qua lối viết của Trần Duy Trung cũng có hương vị và phong thái riêng:
“Dưới bầu trời tắt lửa
tôi vẽ những con chim bốc cháy
tiếng thét từ đám mây
chuông nhà thờ rung lên trong gió
tôi vẽ những con mắt đỏ
tôi vẽ những ngọn lửa
những đoàn người nối theo nhau
họ vừa đi vừa cháy
trong khoảng tối im lặng này
mùi máu tươi đang chảy…”
(Bầu trời tắt lửa hay tháng Sáu đen của tôi)
Những từ lặp ba lần như “tôi vẽ”, “lửa”, “cháy” và “máu” cho ta có thể hình dung một bức tranh những người chạy loạn chiến tranh hay một cuộc biểu tình nào đó bị đàn áp…
Bài Tây Tạng cũng có lối viết đặc biệt gắn với đất nước đớn đau và bị nô thuộc này với cấu trúc những khổ hai câu và có sự nối kết bằng liên từ “và” như sự mở rộng không gian và sự việc trong bài thơ:
“Tên bài thơ như tên một đất nước
tôi ôm lên ngực và khóc
tsampa và áo nâu đỏ
Om Mani Padme Hum và tự do
Nirvana và những linh hồn nhỏ
tu viện và đồng cỏ
vòng kinh luân rung lên trong gió
Himalaya và những bông tuyết đỏ
nước mắt xanh tượng cổ
lửa và tàn tro…”
Bài thơ Siêu thực có một ý vị lạ lùng, nó dựa trên một liên văn bản (intertexte) là một bức tranh của Marc Chagall về những người bay đầy lãng mạn và lại rất siêu thực, nhưng ngược lại ta thấy ở đây một hàm ý oái oăm khác, những người bị cướp đất. Đất đai, mái nhà, ruộng vườn của họ bị bay đi trong gió của các lệnh thu hồi đất:
“những ngôi mộ, những ngôi nhà bay
những khu vườn bay
người đàn ông bay, người đàn bà bay
những đứa trẻ bay
nhưng không phải trong tranh của chàng Marc Chagall
họ bay trong tưởng tượng
của những kẻ
vừa cướp đi
và luôn nghĩ chúng ta có thể sống
mà không cân
một nơi nào trên mặt đất”
(Siêu thực)
9-
TẠM KẾT:
1) Dẫu mới xuất hiện trên văn đàn không lâu và chỉ mới in một tập thơ, nhưng nhà thơ Trần Duy Trung đã tìm được bản sắc, phong thái riêng của mình.
2) Tiếng thơ của anh đào sâu vào hành trình nội giới thẳm sâu và tĩnh lặng, ở đó thi sĩ chiêm nghiệm những triết lý hằng cửu của con người và vũ trụ qua những cổ mẫu nước, lửa, không khí…
3) Sự nhập thân và đồng nhất với thế giới thiên nhiên qua những cảm giác nghe, thấy nhìn… của cái tôi trữ tình tạo nên một lối viết mới và các thi ảnh lạ có sức gợi mở lớn nơi chân trời chờ đợi của độc giả.
4) Vũ trụ thơ của thi sĩ Trần Duy Trung đánh thức sự mơ mộng, tạo nên những dư ba trong trí tưởng tượng, gợi lên cái đẹp trong lòng một thế giới vốn đầy lý tính, thực dụng và khô cằn.
5) Đây là nhà thơ còn đầy triển vọng, tạo được lối đi riêng và tôi tin Trần Duy Trung sẽ còn mở ra những chân trời sáng tạo mới.
6) Viết về một nhà thơ và một tập thơ mới với sự kích thích của một hệ ngôn từ và thi ảnh mới, riêng, đậm chất trữ tình nội tâm và chất triết lý, theo tôi vốn rất khó nắm bắt toàn vẹn thế giới thơ ca.
Bài viết này có thể mới chỉ chạm được một vài khía cạnh của thế giới thi ca đầy sáng tạo và độc đáo của thi sĩ này và có thể tập thơ của Trần Duy Trung đang chờ đợi thêm những cách tiếp nhận khác lạ, hay và thú vị hơn.
(Những ngày cuối tháng mười hai năm 2019)