Văn Cao Sóng ngàn kháng chiến

Đặng Tiến

clip_image001

Từ Suối Mơ đến Bến Xuân

Từ những tình khúc đầu mùa như Thu cô liêu, Buồn tàn thu (1939), Cung đàn xưa, Bến xuân (1942), Suối mơ (1943), Văn Cao đã ghi lại những thành công trong thời kỳ phôi thai của nhạc mới, mà bây giờ vẫn còn người hát; và nghe lại, ta vẫn thấy hay, trong khi một số ca khúc đồng thời của Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước… đã trở thành lạc lõng. Giải thích hiện tượng này, Phạm Duy đã có một loạt bài hay, và anh là người có nhiều thẩm quyền để phê phán: anh sống, sáng tác và ca diễn vào thời đó, anh nắm vững lịch sử tân nhạc và tâm lý quần chúng; về nhạc thuật, Phạm Duy là vua. Vậy chúng ta nghe Phạm Duy:

“Phải đợi cho tới khi tân nhạc ra đời vào những năm cuối 30 và đầu 40 thì chúng ta mới có được một loại nhạc tình lãng mạn do các người tình tiền phong của thời đại như Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Lê Thương, Vân Chung, Dzoãn Mẫn, … tung ra (…). Tuy nhiên loại nhạc tình lãng mạn đó chỉ có thể gọi là đạt tới độ hoàn mỹ khi nó được phát xuất ra từ một con người tài hoa bậc nhất của thế giới nghệ sĩ trẻ lúc bấy giờ. Người đó là Văn Cao”.

[Tạp chí Văn Học số 15, 1987, đăng lại trên Hợp Lưu số 8, 1992]

Cái mới, điểm tiến bộ đầu tiên Văn Cao đưa vào nhạc mới là người đàn bà đẹp, kiều diễm, trang trọng, cao quý, khác với Cô hái mơ, Cô lái đò, Cô lái thuyền, Cô hàng bán hoa, Cô hàng cà phê, Cô láng giềng trong những bài hát thịnh hành thời đó. Xã hội Việt Nam ngày xưa không tạo cơ hội cho trai gái gặp nhau, ngoài sinh hoạt nơi đồng áng hay hội hè – vốn hiếm. Nơi công cộng, nếu không gặp cô thôn nữ tát nước bên đàng, thì cũng là cô sơn nữ, cô hái hoa gì đó, vì trai gái không có quy chế (statut) gặp gỡ. Phải đợi đến Văn Cao, cô gái mới đi thẳng đến nhà người yêu bên chiếc cầu soi nước. Người con gái khuê các, có thể ngồi trong nhà mà nhớ người yêu: ôi vừa thoáng nghe, em mơ ngay bước chân chàng. Đặc biệt là chữ “ngay” như một phản xạ, một tự do. Phải rồi. Cô gái trong tình khúc Văn Cao là cô gái tự do, báo hiệu cho một nền văn hoá mới, trong vẻ đẹp tuyệt vời, huyền diệu:

Chiều năm xưa
Gót hài khai hoa
Mắt huyền lưu xuân
Dáng hồng thơm hương

Người đẹp kiêu sa này, đi vào kháng chiến sẽ để lại những lối mòn thơm mãi dấu chân em trong thơ Nguyễn Đình Thi, ra khỏi kháng chiến thì:

Em đài các lòng cũng thoa son phấn
Hai bàn chân kiêu ngạo dẫm lên thơ

trong Mê hồn ca của Đinh Hùng. Nhất Linh đã bảo vệ người phụ nữ, Dương Thiệu Tước đã mơn trớn, và Văn Cao đã kính trọng người phụ nữ.

Một đặc điểm khác trong tình khúc Văn Cao là toàn bài hát được cấu trúc như một tác phẩm hài hoà và toàn bích, như một bài thơ độc lập, có giá trị nhất quán và tự tại. Phạm Duy công nhận “ Nếu đem so sánh với những bản nhạc tình của thời đó thì bài Suối mơ với Bến xuân là các điểm của lãng mạn tính trong ca nhạc. Lúc đó các nhạc sĩ còn đang lẩn quẩn trong cách xếp đặt chữ nghĩa trong ca khúc thì Văn Cao đã viết hẳn ra một Bài thơ bên suối” (sđd).

Cung đàn xưa kết hợp nhuần nhuyễn những lời thơ thiết tha da diết, xoắn sâu vào nỗi đau thương:

Cung thương là tiếng đ àn
Cung nam là tiếng người
Ai oán khúc ca cầm châu rơi
Tình duyên lãng đãng nhớ thương dần pha phôi
Cung đàn ngân
Buồn xa vắng trong tiếng thầm
Buồn tê tái trong tiếng ngân
Buồn như lúc xuân sắp tàn
(…) Giờ còn mong chi người hát theo đàn.

Trong thơ mới có lẽ ngoài Hàn Mặc Tử ra, chúng ta cũng ít khi thấy ngôn ngữ thê thiết dồn nén đến mức ấy. Ngôn ngữ Văn Cao thật mới: trong khi các nhạc sĩ khác còn vân vê hình ảnh hoa rụng thuyền trôi, thì Văn Cao đã có những sáng tạo:

Hồn cầm phong hương hình bóng xuân tàn
… Hồn cầm lắng tiếng đời
.. . Cánh nhạn vào mây thiết tha
… Có một mùa đào dòng ngày tháng chưa tàn qua một lần…

Đó là đặc sắc trong lời ca. Về nhạc lý, chúng ta nghe Phạm Duy phê phán nhạc tình thời này: “Về phần nhạc thuật ta thấy rằng tất cả những bài hát đó chỉ được coi như là phó sản của những nhạc phẩm đã được sản xuất trước đây. Tất cả đều được nằm trong một khuôn khổ có sẵn (thể nhạc khiêu vũ tango hay rumba) với những âm hình (dessins mélodiques) mà ta có thể gọi được là tiếng gọi cái của những thanh niên thất tình” (Văn Học, tháng 12.1986).

Theo Phạm Duy, phải đợi đến Cung đàn xưa, Văn Cao mới “đưa nhạc tình trong năm 1943 này lên tới đỉnh cao nhất của những bài ca ái tình” (Văn Học, số 15, 1987).

Từ Bạch Đằng Giang đến Sông Lô

Song song với những tình khúc đầu mùa, thời kỳ mà Phạm Duy gọi bằng tiếng Pháp là le temps de l’innocence – thời thơ ngây, vào những năm đầu thập niên 1940, một nhạc trào khác phát triển mạnh là nhạc hùng, những bài hát khoẻ, vui của hướng đạo, học sinh, đề cao lịch sử, đất nước, sức khoẻ, bắt đầu từ nhóm Đồng vọng của Hoàng Quý tại Hải Phòng đến Hùng Lân, Lưu Hữu Phước. Những hành khúc này có những động cơ xã hội hay chính trị, hoặc tự phát hoặc có lãnh đạo.

Văn Cao là tư tưởng tự do và tiến bộ, trong thể loại nào cũng giữ hai nét đặc biệt ấy. Văn Cao yêu lịch sử nhưng không nô lệ: tự hào về quá khứ đất nước, anh vẫn xem như là một kỷ niệm đã qua – cần phải được vượt qua để tồn tại và tiến hoá.

Trận Đống Đa là chiến thắng thần tốc oanh liệt nhất của chiến thuật Việt Nam, của chiến tranh nhân dân và phong kiến, của bạo lực và chính nghĩa, của chiến lược thuần tuý. Nhưng Văn Cao không hề bị choá ngợp trước đỉnh cao lịch sử đó ngược lại, trong Gò Đống Đa, anh khẳng định:

Thề quyết phấn đấu
Đồng tâm hy sinh
Làm sao cho hơn thời xưa
Rồi cất sức sống ngày mai…

Thăng Long hành khúc ca cũng nhắc lại chiến công Tây Sơn; Văn Cao nhìn về toàn bộ lịch sử dân tộc qua hình ảnh cố đô:

Thăng Long thành xưa
Thăng Long ngày nào
Cờ khoe sắc phất phới.

Nhưng hiện tại thì khác. Việt Nam, lúc đó, là một nước nô lệ lầm than, lạc hậu. Hà Nội là một thủ phủ thuộc địa: bao năm qua khắp chốn cũ cũng đã mất hết tinh anh. Muốn dân chúng yên vui, thậm chí sống oai hùng, tiếp nối với truyền thống thì phải biết đổi mới, tiếp thu khoa học và dân chủ, phải mở tim mở óc chờ gió mới bay về… bao ánh sáng phương tây từ khắp chốn bay về.

Sông Bạch Đằng là một chủ đề khác. Chiến công hiển hách này được nhiều người đưa ra như một tiêu chuẩn, một giá trị miên viễn. Hoàng Quý, đồng hương, bạn và thầy nhạc Văn Cao, viết:

Đến bây giờ mỗi khi đi trên sông Bạch Đằng
Thì anh em ta vui ca rằng:
Trên sông Bạch Đằng dân Nam hò reo.

Lưu Hữu Phước cũng cho rằng Đằng Giang vẫn sáng để cho nòi giong soi chung. Trong khi đó Văn Cao trên con sông quê hương thì buồn thiu:

Bạch Đằng giang sầu mơ b ên lau xanh
Với bến nước x a xôi
… Buồn ai đứng nhìn con sông xanh biếc ngày xưa
Mà nước mắt mờ rơi…

[Chiều buồn trên Bạch Đằng Giang]

Đã đành, ở đây lãng đãng nét u buồn lãng mạn vẫn cố hữu trong nhạc Văn Cao, nhưng không thể phủ nhận tư tưởng cầu tiến và duy tân của anh. Lưu Hữu Phước thường nói đến nòi giống. Có khi rất hào hùng. Hào hùng lắm thì kỳ thị:

Đây Bạch Đằng giang sông hùng dũng
Của nòi giống anh hùng, giống Tiên Rồng, giống Lạc Hồng, v. v…

trong khi, về nòi giống, trong một đề tài khác, Văn Cao thực tế và tha thiết mong:

Đoàn quân Việt Nam đi
Sao vàng phấp phới
Dắt giống nòi quê hương qua nơi lầm than
Cùng chung sức phấn đấu xây đời mới…

[Tiến Quân Ca]

Thời đó, Văn Cao đã có cái nhìn rất thoáng, rất rộng về dân tộc trong một cộng đồng nhân loại lớn lao: trong Công nhân Việt Nam (1944), bài hát chính thức của Tổng công đoàn Việt Nam hiện nay, anh viết:

Ngoài kia lời non nước đang nhắc ta
Mau nhấc cao giống nòi
Yêu mến muôn giống người
Tranh đầu cuối cùng
Là đời sống mới dâng xa.

Một tình cảm tiến bộ, lành mạnh. Nói rằng những tư tưởng kia có lãnh đạo, cũng không giảm giá cá nhân Văn Cao. Tố Hữu cũng được lãnh đạo – và lãnh đạo kẻ khác – tuổi đời và tuổi đảng nhiều hơn Văn Cao, mà tư duy chính trị, ở thời điểm này, còn hạn chế. Tư tưởng Văn Cao một lúc nào đó đã từng lưu luyến mấy cung u huyền trong tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung. Tâm hồn hoài cổ ấy bây giờ lao vào những kỷ niệm vang vang hùng khí: Bừng nghe dư âm mênh mông khúc anh hùng ca ra nơi biên cương. Bao chiến mã lên đường… Nhưng cái bất ngờ là Văn Cao không dừng lại ở những “dư âm mênh mông”, anh còn đòi

Lập quyền dân tiến lên Việt Nam
Đòi hạnh phúc đắp xây tự do

Những yêu cầu thiết yếu mà ngày nay, sau nửa thế kỷ xương máu và lầm than, dân tộc ta vẫn chưa đạt tới. Và ngày nay vẫn còn có thể hát đắng cay: Tiếng than nơi nơi… Tháng năm dần trôi. Về nhạc thuật, Phạm Duy đánh giá cao bài Chiến sĩ Việt Nam: “ Với tài năng tuyệt vời của một hoạ sĩ, Văn Cao vẽ ra cảnh chiến sĩ Việt Nam phi ngựa trên đường xa (…). Tài soạn nhạc của anh tới lúc này đã bỏ xa những nhạc sĩ chuyên nghiệp khác, đừng nói gì tới những tay soạn nhạc tài tử như Nguyễn Đình Thi hay Đỗ Nhuận. Trong khi nhạc hùng của Hoàng Quý, Lưu Hữu Phước dù hay đến mấy cũng không vượt ra ngoài khuôn khổ của những ca khúc rất chân phương, rất cân đối, rất sách vở… thì Văn Cao trổ tài soạn hành khúc như bài Chiến sĩ Việt Nam này. Câu nhạc thứ hai dài dằng dặc, với nhịp điệu dồn dập, thay đổi hơi thở luôn luôn khiến cho câu ca có sức sống mãnh liệt: Ngựa phi nơi xa xa kìa nghe súng vang bên trời điệu kèn rộn ràng. Tiếp tới là sự nhắc lại nhạc đề (…). Cái hay của tác giả là đã chuẩn bị để vào cuối câu nhạc sẽ chuyển qua một nhạc đề khác, để chứng tỏ sự phong phú của bàn tay sáng tác” (Văn Học, số tháng 10, 1986).

[Tư liệu: 1944, Văn Cao làm xong Tiến quân ca thì Nguyễn Đình Thi là người xướng âm đầu tiên. Sau đó cao hứng, Thi rủ Văn Cao làm một bài khác, và làm xong Diệt phát xít trước bài Chiến sĩ Việt Nam của Văn Cao].

Dân quân du kích cách mạng b ừng mùa thu
Sao vương bóng cờ bay trên chiến khu…

Đây là những hình ảnh đẹp đầu tiên của cách mạng Việt Nam, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Con người sống thực tại như một giấc mơ, sống lịch sử như một nghệ thuật, sống đất nước như một bích hoạ: ôi còn đâu đây sắc chàm pha màu gió… Ai về châu xưa nhớ hồi máu thắm cây rừng . Bài hát Bắc Sơn, nguyên uỷ là sáng tạo cho vở kịch Bắc Sơn của Nguyễn Huy Tưởng, nhưng vượt khỏi đề tài, trở thành bài hát của người du kích. Cũng như Tiến quân ca, lúc đầu là bài hát làm cho một khoá quân sự kháng Nhật, sau trở thành quốc ca. Văn Cao năm 1977 đã viết một đoạn hồi ký hai ngàn chữ về bài này; quốc ca là sở hữu của dân tộc và lịch sử, chúng tôi không bàn tới trong bài này – vì không phải nơi, không phải phép.

Cách mạng tháng Tám 1945 đưa dân tộc vào một khúc quanh. Văn Cao làm bài thơ Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc đăng trên báo Tiền phong, bài thơ quan trọng đầu tiên của anh, sau đó là Ngoại ô mùa đông 1946 đăng trên báo Văn nghệ thời kháng chiến, 1948. Bài thơ mới mẻ, mạnh bạo đã có nhiều nét báo hiệu phong cách thơ Văn Cao về sau.

Toàn quốc kháng chiến. Hà Nội chiến đấu. Mùa xuân về, giữa chiến hào xa. Văn Cao ra đi, rạo rực phơi phới với hai mối tình lớn: đất nước và người yêu. Xuân kháng chiến cũng là Xuân trăng mật. Bài hát Làng tôi mang những âm hưởng đằm thắm, dịu dàng, phấn khởi chưa từng thấy trong những ca khúc trước đó. Văn Cao vốn tiết kiệm tâm sự, kín đáo về đời tư, nên mãi đến năm 1974, anh mới có bài thơ về chị ấy, Khuôn mặt em, nhưng cũng không lấy gì làm rõ nét. Chúng tôi chỉ phỏng đoán vì hai câu cuối

Ôi khuôn mặt sáng trong và bình lặng
Tôi được đầu tiên và còn lại cuối cùng

Làng tôi là tình khúc thiết tha dịu mát. Trăng mật của lứa đôi soi óng ánh vào quê hương yêu dấu

Làng tôi xanh bóng tre
Từng tiếng chuông ban chiều
Tiếng chuông nhà thờ rung
Đời đang vui đồng quê yêu dấu
Bóng cau với con thuyền một dòng sông.

Tuy là một bài ca chiến đấu, Làng tôi theo đoàn quân du kích… nhưng âm hưởng lưu lại một nguồn ánh sáng lung linh dịu mát trong niềm nhớ mông mênh, như rừng chiều nhớ cánh đồng chiều xưa… Đồng quê có lúc rộn lên với Ngày mùa nhanh nhẹn tươi vui:

Ngày mùa vui thôn trang, lúa reo như hát mừng.

Hình tượng lý tưởng súng tì tay anh đứng, em ngừng liềm trông sang, có thể không phản ánh lại gian lao của những năm chống Pháp nhưng diễn tả ước mơ của người nghệ sĩ trong kháng chiến.

Tuy nhiên phải đợi đến trường ca Sông Lô, Văn Cao mới nói lên được trọn vẹn vẻ đẹp của quê hương, hoang sơ nhưng thân mật, đơn giản mà hùng tráng, đẹp như một bức tranh. Sông Lô là một bức tranh

Sông Lô sóng ngàn Việt Bắc bãi dài ngô lau núi rừng âm u
Thu ru bến sóng vàng từng nhà mờ biếc chìm một màu khói thu.

Những nét đạm thanh ẩn hiện trên nền màu mờ nhạt, khi nhịp câu ca loang dần ra xa; những hình ảnh liên tiếp tạo ra không gian mênh mông, hoang dã và huyền bí. Khí hậu lặng lẽ và lạnh lẽo bỗng bừng lên ánh sáng ngọn lửa chiến đấu

Sông Lô sóng ngàn kháng chiến cháy bờ lao thưa

Tiếp theo là ánh bình minh: thiên nhiên như hồi quang ý chí con người. Bài hát lấp lánh lời đối đáp giữa ánh sáng và hơi ấm

Ai qua bến nắng hồng lặng nhìn màu nước sông Lô

Rồi vũ trụ bỗng chan hoà âm thanh, bao la, rộn rã trong tiếng sóng reo vi vu…gió lá vi vu:

Sông mênh mông như bát ngát hát
Bao rừng thu như bát ngát cười.

Lời hát say sưa ngợi ca đất nước và con người nhắc chúng ta khí thế lúc đó, như trong thơ Nguyễn Đình Thi: gíó thổi rừng tre phất phới. Trong biếc nói cười thiết tha, hay trong tuỳ bút kháng chiến của Nguyễn Tuân: chúng tôi đang mơ chung một cơn hoả mộng…

Văn Cao vẫn bám vào hiện thực; trong chiến thắng hân hoan, anh nghĩ ngay đến đời sống thường nhật của người dân buông lưới. Phan Lương vui bóng thuyền, lều dựng lên ven sông . Phút vẻ vang, phút hùng tráng là chuyện phải làm, để bảo vệ cuộc sống tầm thường, trong trần gian êm ả

Dòng sông Lô trôi
Mùa xuân tới
Nước băng qua ngàn
Nước in ven bờ xanh ôm bóng tre

Trận Sông Lô, 1947, là chiến công đầu tiên của quân đội Việt Nam non trẻ (thời đó còn mang tên Quân đội Quốc gia), đặc biệt ngành pháo binh mới phôi thai: thời đó, khi sử dụng đại bác bắn vào tàu địch trên sông, ta chưa biết tính đạn đạo vòng cung, phải kê ngang nòng súng mà bắn như súng trường. Chiến thắng sông Lô, ngoài tầm quan trọng quân sự, còn có tác dụng tâm lý lớn lao và gợi cảm hứng cho nhiều văn nghệ sĩ.

Về nhạc thuật, Sông Lô được xem như là đỉnh cao trong sự nghiệp Văn Cao. Anh đã vượt lên khỏi những tiết tấu đơn giản của ca khúc, đi tới một hợp tấu dài hơi, với nhiều tầng lớp nhịp độ khác nhau, lôi cuốn chúng ta theo điệu nhạc, lời thơ, màu sắc, như một dòng sông lớn.

Niềm hăng say có lúc chủ quan và lạc quan quá mức; như Nguyễn Tuân mơ những khải hoàn môn kết toàn bằng bích đào, Văn Cao trong giai đoạn kháng chiến gian lao, 1949 đã đòi Tiến về Hà Nội:

Năm cửa ô đón mừng đoàn quân trở về
Như đài hoa đón mừng
Nở năm cánh đào chảy dòng sương sớm long lanh
Ôi phố phường Hà Nội xưa yêu dấu
những bông hoa ngày mai
Đón tương lai vào tay.

Giọng ca đã khác với bóng xưa ngàn năm, hồ phai khi tàn mơ. Nhưng vẫn sắt đá một niềm tin ôi Thăng Long ngày mai, xây đắp dưới vinh quang bằng chí khí anh hùng.

Từ nhận xét này, chúng ta có thể nới rộng tầm nhìn vào tác phẩm Văn Cao, về nhạc, hoạ cũng như thơ. Một toàn bộ phong phú, đa dạng, lúc nào cũng đặc sắc, thuỷ chung với vài ba ý chính và một phong cách riêng. Gắn bó với thời dại, Văn Cao thường xuyên tra vấn thân phận làm người trong và ngoài lịch sử.

Thơ, nhạc, hoạ Văn Cao là những triều sóng triền miên lớp lớp xô buồn vui của đại dương vào với đất liền. Tác phẩm của Văn Cao là hơi thở cuộc sống, ngất ngây giông bão và đằm thắm trăng sao. Nó chắt lọc nhân phẩm con người để dựng lên tinh hoa của thời đại.

Tác phẩm Văn Cao, còn lại là đốm lửa Văn Cao. Đốm lửa đâu đây: trong bếp nghèo bến Cảng, trong núi rừng Việt Bắc hay trong cõi biển rộng trời xa. Một ngọn lửa không quay đầu theo gió.

Văn Cao, ngọn lửa bập bùng trong ý thức chúng ta.

15.11.1992
Viết cho ngày sinh nhật Văn Cao 70 tuổi
(sửa lại ngày 21.12.1992)

Comments are closed.