VĂN HỌC ĐÔ THỊ VIỆT NAM

Một bức tranh chưa định hình

Văn học đô thị hôm nay” – là chủ đề của tọa đàm tháng 3.2015 diễn ra tại Hà Nội do tạp chí Người đô thị tổ chức.

toa dam VH_T

Tọa đàm Văn học Đô thị

Tham gia tọa đàm có PGS.TS. Đỗ Lai Thúy (diễn giả chính), nhà văn Nguyễn Việt Hà, TS. Đô thị học Phó Đức Tùng, nhà phê bình văn học Mai Anh Tuấn, TS. Văn học Đỗ Hải Ninh, nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Mạnh Tiến, nhà phê bình văn học Đoàn Ánh Dương, nhà văn trẻ Hà Thủy Nguyên, nhà dân tộc học Tạ Đức và một số người yêu văn học Việt Nam.

Tọa đàm đề cập đến các vấn đề chủ yếu: – Nội hàm của khái niệm văn học đô thị, – Diễn tiến của văn học đô thị Việt Nam trong quá khứ, – Những thành tựu của văn học Việt Nam đương đại. Theo PGS.TS. Đỗ Lai Thúy “sau Đổi mới, văn chương Việt Nam chuyển sang thời hậu Đổi mới. Và tiểu thuyết vẫn tiếp tục phát triển theo hướng hiện đại chủ nghĩa, thậm chí chạm tới hậu hiện đại”. Ông cho rằng “tiểu thuyết đô thị VN còn ít về đề tài đô thị, nếu có thì đôi khi đô thị thường được nhìn bằng sự hoài niệm nông thôn. Bởi vậy, tính đô thị của nó chủ yếu biểu hiện ở phương diện thể loại”.

Phần thảo luận đã diễn ra rất sôi nổi. Nhà văn Nguyễn Việt Hà tỏ ra hứng thú với chủ đề của tọa đàm, chia sẻ rằng “khái niệm đô thị là rất rộng, trong khi tôi chỉ sống quanh quanh Hà Nội”. Ông cho rằng: “nhà văn chỉ viết những cái gì nó rất gần mình, những thói tật trong đời sống mà hắn nhìn thấy. Với tôi đô thị quanh quanh những chuyện phố phường”. Ông nhận xét “chưa thấy cuốn tiểu thuyết dài nào viết về chuyện đô thị của giới viết trẻ mà thấy hay và đáng nể”.

Theo ông Mai Anh Tuấn “văn học đô thị VN xuất hiện từ khi đô thị xuất hiện tầng lớp trung lưu đô thị và tầng lớp tư sản nội địa. Tức là khi xuất hiện hai sự đối kháng cả về mặt địa chính trị và địa văn hóa với tầng lớp nông dân”. Ông nhận định: “có lẽ cảm hứng phê phán, trào phúng của Vũ Trọng Phụng (trong Số Đỏ) đối với tầng lớp trung lưu đô thị, tầng lớp tư sản nội địa là do ông không nhận ra sự hấp dẫn của cái mới. Mà cái hấp dẫn, quyến rũ của cái mới ấy là tất yếu. Cho nên phản ứng đó của Vũ Trọng Phụng chậm so với sự phát triển của cái mới đã đến”. Giữ quan điểm này, ông tiếp tục: “qua những sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài và muộn hơn chút là Nguyễn Việt Hà vẫn cho thấy sự vắng mặt khá dài của tầng lớp trung lưu đô thị, tầng lớp tư sản nội địa”. Một cảm thức đô thị quan trọng được ông nhắc tới: “sự cô đơn của con người, khi viết về điều đó thì văn học đô thị hiện đại đã chạm sâu vào con người đô thị”. Đồng thời ông còn cho rằng: “tản văn, với những đặc điểm thể loại của nó, rất phù hợp với đời sống đô thị”.

Ông Đoàn Ánh Dương đặt câu hỏi: “đường biên văn học đô thị quá rộng, vậy những cuốn tiểu thuyết không viết về đô thị nhưng vẫn mang tính hiện đại thì có phải là một tiểu thuyết đô thị hay không”?

Ông Nguyễn Mạnh Tiến: “đồng ý việc chọn Vũ Trọng Phụng làm người tiêu biểu mở màn cho văn học đô thị. Nhưng chỉ đúng trong đô thị với tính chất phương tây. Còn sự ra đời văn học đô thị, có thể sớm hơn rất nhiều, từ thời Lê – Trịnh. Vì khi đó đã có tầng lớp thị dân rất phát triển (qua việc ông xử lý các tư liệu lịch sử, bối cảnh VN giai đoạn này). Và ông chia văn học giai đoạn trước thế kỷ 19-20 là văn học trung đại – văn học đô thị kiểu phương Đông. Và khi bắt đầu Âu hóa là văn học đô thị hiện đại – văn học đô thị theo kiểu phương Tây. Ông Mai Anh Tuấn tán thành: “việc xuất hiện văn học đô thị trung đại theo Nguyễn Mạnh Tiến sẽ có cái nhìn rõ hơn về văn học đô thị. Bởi nếu Nguyễn Du không có mấy năm nhuốm qua phù sa sông Hồng không thể viết được Truyện Kiều”.

Nhà văn Hà Thủy Nguyên chia sẻ: “thế hệ những người được sinh ra ở đô thị (8x, 9x) thì sự ám ảnh về đô thị hóa như là sự thoái hóa về nhân cách con người không phải vấn đề lớn. Đề tài mà họ quan tâm là viết về bản thân mình, những chiêm nghiệm, suy nghĩ, suy tưởng bản thân. Họ chui vào đó (bản thân) và câu chuyện văn chương của họ, viết về chính thế giới ấy”. Chị tin tưởng: “khi chúng ta hoàn toàn ở trong đô thị rồi, chúng ta thấm nhuần tính đô thị, họ sẽ viết về những điều khác”.

Ông Phó Đức Tùng lại cho rằng: “khi đô thị là bản thân, có nghĩa là người viết mô tả bản thân bằng cách mô tả đô thị. Mô tả đô thị thì thấy bản thân. Và khi đấy chủ đề đô thị sẽ trở thành chủ đề quan trọng”. Ông nhận định: “đô thị VN không có lõi, và khi không có lõi, tính hiện đại trong văn học đô thị của VN chỉ là tính hiện đại bắt chước, chưa phải là tính đô thị”.

TS. văn học Đỗ Hải Ninh nhấn mạnh đến cảm thức về đô thị: “khi nói đến văn học đô thị người ta hình dung nó luôn tồn tại sự hấp dẫn từ phía đô thị mang lại như một thứ bùa ngải, nhưng đồng thời cũng ẩn chứa mối đe dọa (sự tha hóa nhân cách, đe dọa môi trường sống).

Kết thúc tọa đàm, nhà báo Trần Trung Chính thay mặt tạp chí Người đô thị cảm ơn những người tham gia tọa đàm. Ông cho rằng: “trong các thuộc tính của văn học đô thị đã được nêu: cuộc sống người viết, khung cảnh và con người thị dân, tính hiện đại (cũng là tính đô thị) có thể là các cơ sở để nhận biết một tác phẩm văn học đô thị. Tuy nhiên, không phải trong trường hợp cụ thể nào, một tác phẩm cụ thể nào cũng hội đủ các yếu tố đó. Có thể nói rằng văn học đô thị Việt Nam vẫn đang trong quá trình hình thành, như hình hài các đô thị VN. Vì thế cuộc tọa đàm (hiếm hoi) này chỉ có thể mở ra, chứ không nhằm kết thúc câu chuyện về văn chương đô thị”.

Lệ Quyên lược thuật

Văn học đô thị Việt Nam nhìn từ thể loại tiểu thuyết

PGS.TS Đỗ Lai Thúy

Văn học đô thị Việt Nam chỉ thực sự có và triển nở từ 1932 của thế kỷ trước. Khi xã hội hình thành các yếu tố dân sự: báo chí xuất bản tương đối tự do, văn chương từ chỗ văn hóa quà tặng thành văn hóa hàng hóa, tầng lớp trí thức Tây học như là chủ/khách thể của văn học mới ra đời.

Do Lai Thuy

Nhà nghiên cứu VH Đỗ Lai Thúy tham luận trong buổi tọa đàm

Văn chương từ chỗ con thuyền, cỗ xe chở đạo chuyển sang khám phá cái đẹp hoặc đi tìm những khoái cảm thẩm mỹ. Rồi cái đẹp cũng từ chỗ chủ yếu là cái thần mở cửa sang cái thực, khiến ra đời một dòng văn học mới là tả chân, hay tả thực, hay hiện thực chủ nghĩa. Từ nhu cầu này mà ra đời văn xuôi nghệ thuật, tiêu biểu là tiểu thuyết, một thể loại văn học của thời hiện đại và, dĩ nhiên, có tính hiện đại trong nghệ thuật biểu hiện của nó.

Chuyển đổi không gian

Tiểu thuyết ra đời như là một chuyển đổi không gian. Trước hết là không gian địa lý: những câu chuyện được chuyển từ nông thôn ra thành thị với những khung cảnh mới, những nhân vật mới. Nhưng, quan trọng hơn, là chuyển đổi không gian xã hội. Quan hệ người – người ở làng quê trước đây chủ yếu theo gia đình, họ tộc và láng giềng, thì nay ở thành phố chủ yếu theo quyền lợi và sở thích, thúc đẩy phát triển con người cá nhân. Dần dần hình thành tư duy tiểu thuyết, không đơn tuyến như truyện, mà phức hợp, đa tuyến, thậm chí đa hệ và, cuối cùng, mang tính thế sự. Đó là tính hiện đại của tiểu thuyết như là một sản phẩm của đô thị. Bởi vậy, tùy theo từng trường hợp, có thể nhìn tiểu thuyết đô thị Việt Nam từ cạnh khía về hoặc cạnh khía của, tức cái được viết và cái viết.

Tiểu thuyết 32-45 mang đầy đủ các điểm mạnh yếu của “thuở ban đầu”. Nó không còn như tiểu thuyết chương hồi, hoặc ít nhiều tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, sắp xếp các sự kiện theo thời gian biên niên, mà theo thời gian nghệ thuật, nhân vật không chỉ là một cỗ máy hành động, mà là con người có nội tâm phong phú. Nhưng bản chất của nó vẫn là viết về sự phiêu lưu, tức câu chuyện vẫn là tính thứ nhất. Và, để tránh sự trùng lặp, nhà văn phải tìm đến những câu chuyện khác nhau. Bởi thế hình thành các loại hình tiểu thuyết chủ yếu theo đề tài như tiểu thuyết lịch sử, phong tục, đường rừng, trinh thám, gia đình, giáo dục, luận đề, xã hội… Ở mỗi loại hình kể trên đều có những nhà văn tiêu biểu, như Nguyễn Triệu Luật cho tiểu thuyết lịch sử, Nguyễn Công Hoan cho tiểu thuyết tả chân xã hội, Nhất Linh cho tiểu thuyết luận đề, Phạm Cao Củng cho tiểu thuyết trinh thám, Đới Đức Tuấn cho tiểu thuyết đường rừng. Cách viết (écriture) ít được chú ý, nên sự khác nhau trong bút pháp các nhà văn chủ yếu ở cá tính của họ, ở vấn đề họ viết. Do vậy, văn là người, ít nhiều, vẫn đúng trong trường hợp này.

Có lẽ, cuốn tiểu thuyết tiêu biểu vừa là về đô thị vừa là của đô thị trong giai đoạn này là Số đỏ của Vũ Trọng Phụng. Cuộc sống của đô thành Hà Nội đang ào ạt Âu hóa. Các phong trào thể thao, phụ nữ, thời trang, báo chí, phân tâm học, chấn hưng Phật giáo, giữ gìn trật tự đô thị, gia đình tân tiến… diễn ra sôi nổi. Vũ Trọng Phụng đã có một cái nhìn giễu nhại tất cả, để vạch ra bản chất tức cười, hời hợt, giả dối của nó. Cũng viết về đời sống đô thị, nhưng Sống mòn của Nam Cao lui về một trường học ngoại ô với mấy anh giáo khổ trường tư. Tính đô thị của tiểu thuyết Nam Cao không thể hiện ở sự kiện, một câu chuyện nghèo sự kiện, mà ở tâm lý nhân vật. Một nhà văn có tính đô thị nhất ắt hẳn là Nhất Linh. Ngoài việc sáng lập Tự lực Văn đoàn, báo Phong hóa, Ngày nay, nhà xuất bản Đời nay, phong trào Ánh sáng, thì tiểu thuyết Nhất Linh chú trọng đến vấn đề giải phóng cá nhân, đề cao cuộc sống cá nhân. Từ Đoạn tuyệt, tiểu thuyết luận đề xã hội, có tính lãng mạn, ủng hộ cá nhân, nhất là phụ nữ, rời bỏ sự áp bức gia đình đến Bướm trắng đề cao quan niệm cá nhân chủ nghĩa, Nhất Linh đã chạm đến tiểu thuyết hiện đại chủ nghĩa , gần với A. Gide.

Chuyển đổi hệ hình

Con đường mà tiểu thuyết Nhất Linh, phần nào Nam Cao, dừng bước thì lại được tiếp tục ở thành thị miền Nam giai đoạn 1954-1975. Bấy giờ miền Nam trở lại tình trạng liên thông với thế giới như hồi trước 1945, tạo điều kiện cho văn nghệ sĩ tiếp thu những trào lưu văn chương đương đại. Nhất là với thế hệ sinh viên, ít nhiều hoạt động văn học, ở Hà Nội tạm chiến di cư vào Nam, như Mai Thảo, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền… Đến Đất mới, họ kiên quyết “chôn thơ mới, chôn tiểu thuyết Tự lực Văn đoàn” để xây dựng một văn chương mới, hiện đại chủ nghĩa. Tiểu thuyết của họ, bởi vậy, là sự phiêu lưu của cái viết, tức lúc này cách kể một câu chuyện quan trọng hơn bản thân câu chuyện. Cũng câu chuyện về Âu hóa như Số đỏ, nhưng Thời thượng của Mai Thảo thì đã rất khác về cách viết. Còn Hồi chuông tắt lửa của Thế Nguyên, Gia tài người mẹ của Dương Nghiễm Mậu, Đêm ngủ ở tỉnh của Hoàng Ngọc Biên thì được viết theo lối hiện tượng học, hoặc theo kiểu tiểu thuyết mới. Như vậy, tiểu thuyết thành thị miền Nam 1954-1975 đã sớm chuyển đổi hệ hình, từ tiền hiện đại chủ nghĩa sang hiện đại chủ nghĩa, trong khi miền Bắc và sau đó cả nước bước nhảy này chỉ thực hiện được bước nhảy này từ Đổi mới và Mở cửa, 1986.

Những sáng tác tiền Đổi mới, nếu không kể thời điểm xuất bản, thì phải nói đến Những ngã tư và những cột đèn (viết 1966, in 2010). Ở tiểu thuyết này Trần Dần đã sử dụng nhiều thủ pháp hiện đại chủ nghĩa cho một nội dung có câu chuyện rõ ràng. Sau đó Nguyễn Minh Châu với Phiên chợ Giát. Thực sự chỉ đến Nguyễn Huy Thiệp với những truyện ngắn mang tính tiểu thuyết, sau đó là Phạm Thị Hoài, rồi Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh thì lúc này cả nước mới có tiểu thuyết hiện đại chủ nghĩa. Sau thời Đổi mới, một cuộc cách mạng từ trên xuống, ngắn ngủi, văn chương Việt Nam chuyển sang thời hậu – Đổi mới, một cách mạng từ dưới lên, có tính cá nhân và tự giác. Tiểu thuyết vẫn tiếp tục phát triển theo hướng hiện đại chủ nghĩa, thậm chí chạm tới hậu hiện đại. Như Cõi người rung chuông tận thế, SBC săn bắt chuột của Hổ Anh Thái, Đi tìm nhân vật, Giã từ bóng tối của Tạ Duy Anh, Trí nhớ suy tàn, Thoạt kỳ thủy, Ngồi của Nguyễn Bình Phương… Đặc biệt là những tiểu thuyết viết về đô thị, hay có khung cảnh đô thị của Nguyễn Việt Hà (Cơ hội của chúa, Khải huyền muộn, Ba ngôi của người), của Đặng Thân (3.3.3.9. Những mảnh hồn trần), của Thuận (Phố Tàu, T mất tích…), của Đỗ Phấn...

Vẫn chưa thành nhịp mạnh

Trải gần một thế kỷ, tiểu thuyết đô thị Việt Nam nói riêng và văn học đô thị Việt Nam nói chung phát triển qua từng giai đoạn khác nhau và đặt ra những vấn đề khác nhau. Nhưng, tựu trung, nó chưa phải là một nhịp mạnh của văn học Việt Nam. Điều này hẳn do đô thị Việt Nam chưa phải là nguyên nhân/kết quả của một xã hội dân sự. Bởi thế, từ Vũ Trọng Phụng đến Nguyễn Huy Thiệp vẫn còn y nguyên cái nhìn đô thị qua sự hoài niệm nông thôn. Một cái nhìn tiêu cực khác về đô thị Việt Nam đến từ những nhà văn có điều kiện học tập hoặc sống ở những đô thị hiện đại, “chuẩn”, ở nước ngoài như Phạm Thị Hoài, Thuận. Không nhiều người như Nhất Linh thời Tự lực Văn đoàn, phần nào Nguyễn Việt Hà hôm nay, khẳng định mặt tích cực của thành phố để mà hiện đại hóa tiểu thuyết của mình. Tuy nhiên, chỉ ở những nhà văn nào có sự chuyển đổi tâm thức, thay đổi cái nhìn nghệ thuật, cái nhìn thế giới thì sự hiện đại hóa nghệ thuật mới hy vọng thành công, cái thủ pháp mới từ kỹ thuật trở thành nghệ thuật.

Nguồn: http://www.nguoidothi.vn/vn/news/van-hoa-giai-tri/nghe-xem-doc/4055/van-hoc-do-thi-viet-nam-nhin-tu-the-loai-tieu-thuyet.ndt

Comments are closed.