Văn học di dân Mỹ Việt viết bằng tiếng Anh nhìn từ phương diện căn tính và trường hợp Viet Thanh Nguyen

Tham luận tại hội thảo PCAH2024 (Paris, 6-2024)

The Paris Conference on Arts & Humanities (PCAH2024)

Nguyễn Hồng Anh

Phan Thu Vân

Lời toà soạn: Diễn Đàn xin giới thiệu với độc giả bài tham luận của hai tác giả (Trường Đại học Sư phạm TP.HCM) tại Hội nghị Paris về Nghệ thuật & Khoa học nhân văn (Paris Conference on Arts & Humanities / Paris Conference on Arts & Humanities / PCAH2024), tháng 6-2024. Đây là nguyên tác tiếng Việt. Bản tiếng Anh vừa được công bố trong Kỷ yếu Hội nghị (vì hạn chế về thời gian, có những đoạn lược bớt so với bản tiếng Việt).


Tóm tắt

Bài viết kế thừa quan điểm của một số nhà nghiên cứu như Kevin Kenny, Isabelle Thuy Pelaud, Michelle Janette, Viet Thanh Nguyen để phân tích sự phát triển của dòng văn học di dân Mỹ Việt viết bằng tiếng Anh dựa theo những đặc trưng căn tính trong sáng tác. Thứ nhất, từ thế hệ 1 (những nhà văn đầu tiên đến Mỹ chủ yếu viết bằng tiếng Việt) đến thế hệ 1.5 và 2 (những nhà văn đến Mỹ từ nhỏ hay sinh ra tại Mỹ, hầu hết sáng tác bằng tiếng Anh), các tác phẩm đi từ việc khắc hoạ căn tính cộng đồng đến căn tính cá nhân. Thứ hai, dù ở thế hệ nào thì căn tính chấn thương vẫn là đặc trưng của văn học di dân. Thứ ba, căn tính lai ghép trở thành diễn ngôn phản kháng lại định kiến về chủng tộc của Mỹ. Thuộc thế hệ nhà văn di dân 1.5, Viet Thanh Nguyen có thể xem là người thành danh nhất tại Mỹ cho đến nay, qua giải thưởng Pulitzer 2016. Bài viết này cũng xem xét trường hợp Viet Thanh Nguyen trong dòng chảy của văn học di dân Mỹ Việt viết bằng tiếng Anh để cho thấy đóng góp về tư tưởng của ông, ở hai khía cạnh: Thứ nhất, nhà văn định nghĩa lại căn tính sắc tộc và chủ nghĩa dân tộc của cộng đồng di dân Việt; thứ hai, nhà văn cung cấp quan niệm mới về đề tài chiến tranh trong văn học. Kết quả nghiên cứu đạt được là, bài viết góp phần định vị vai trò và tiếng nói của dòng văn học di dân Việt Nam tại Mỹ so với văn học thế giới; và sau đó, khẳng định Viet Thanh Nguyen đã đặt một dấu mốc phát triển cho dòng văn học thiểu số này nói chung và cho mảng đề tài về chiến tranh Việt Nam nói riêng trong lịch sử văn học thế giới.

Từ khóa: văn học di dân Việt Nam, Viet Thanh Nguyen, căn tính.

Mở đầu

Các nhà nghiên cứu về văn học di dân Mỹ Việt đều thống nhất rằng dòng văn học này chỉ xuất hiện từ sau 1975 khi chiến tranh Mỹ Việt chấm dứt và nhiều người tị nạn Việt Nam đến Mỹ, bắt đầu với thế hệ 1 là những nhà văn chủ yếu viết bằng tiếng Việt, một số ít viết bằng tiếng Anh (xem Nguyễn Văn Trung, 1995, tr.4; Nguyễn Vy Khanh, 2005, tr.3; Sokolov, 2017). Với các tác phẩm viết bằng tiếng Việt, độc giả và tác động xã hội của chúng chỉ gói gọn trong cộng đồng người Việt xa xứ. Theo Isabelle Thuy Pelaud, dấu mốc cho thấy văn học di dân Việt Nam tại Mỹ bắt đầu được thị trường văn học Mỹ quan tâm, là khi các nhà xuất bản lớn cho in những tác phẩm bằng tiếng Anh của các nhà văn di dân gốc Việt thế hệ 1: hai tác phẩm nổi tiếng hơn cả là hai quyển hồi ký A Vietcong Memoir (1985) của Truong Nhu Tang do Vintage xuất bản và When Heaven and Earth Changed Places (1989) của Le Ly Hayslip do Doubleday xuất bản (theo Pelaud, 2011, tr.26-27). Nhưng nhìn chung, “vẫn khó tìm các văn bản Mỹ Việt, đặc biệt là các văn bản viết trước năm 1995”[1] (Janette, 2011, tr.x) trên văn đàn Mỹ.

Đến những thế hệ tiếp theo, văn học di dân Mỹ Việt mới thật sự ghi dấu trong văn học Mỹ. Đó là thế hệ 1.5, là những nhà văn di dân Việt đến Mỹ trong và sau thời thơ ấu hay niên thiếu của họ, và thế hệ 2 là con cái của những di dân, sinh ra và lớn lên tại Mỹ (theo cách phân chia được hầu hết các nhà nghiên cứu đồng thuận, xem Pelaud, 2011, tr.33-40 và Janette, 2011, tr.xxii). Điểm chung của hai thế hệ nhà văn này là hầu hết sáng tác bằng tiếng Anh – một lợi thế lớn khiến tiếng nói của các nhà văn gốc Việt được nghe thấy, trước tiên là ở phạm vi văn học Mỹ. Cột mốc 1995 Janette nhắc đến là nói đến sự xuất hiện của tuyển tập văn xuôi và thơ đầu tiên với các tác giả hoàn toàn là nhà văn Mỹ gốc Việt thuộc thế hệ 1.5: Once upon a Dream (1995) của nhà xuất bản Andrews & McMeel, và tiếp nối là tuyển tập Watermark (1998) của Temple University Press. Như vậy có thể xác định, đến giữa thập niên 1990, khi thế hệ 1.5 và 2 kịp lớn lên, hấp thụ cả hai luồng văn hoá Việt (từ ký ức bản thân và gia đình, môi trường sống của cộng đồng thiểu số mình) và Mỹ (va chạm và hoà nhập với cộng đồng đa số, ở nước sở tại), văn học Mỹ Việt chính thức được công nhận trên phạm vi quốc tế.

Viet Thanh Nguyen thuộc thế hệ 1.5, sinh ra ở Việt Nam năm 1971 tại Buôn Ma Thuột và theo gia đình đến Mỹ năm 1975, khi lên bốn tuổi. Trải qua những năm đầu tại Pennsylvania, sau đó gia đình ông định cư hẳn tại San Jose, California – khu vực chính của cộng đồng di dân Việt từ 1975. Nguyen tốt nghiệp Đại học California, Berkeley chuyên ngành Anh ngữ và Dân tộc học. Năm 1997 ông lấy bằng tiến sĩ Anh ngữ và giảng dạy về Anh ngữ và Hoa Kỳ học tại Đại học Nam California. Sự nghiệp nhà văn của Nguyen đạt được nhiều thành tựu: Viet Thanh Nguyen hiện đã xuất bản một tập truyện ngắn (The Refugees, 2017), hai tiểu thuyết (The Sympathizer, 2015 và The Committed, 2021) và một hồi ký (A Man of Two Faces, 2023). Ông cũng là chủ biên tuyển tập 17 tiểu luận của các tác giả viết từ góc nhìn “Kẻ ly hương” The Displaced: Refugee Writers on Refugee Lives (2018). Tác phẩm đưa ông trở thành nhà văn chuyên nghiệp và cũng là đỉnh cao sáng tác của Nguyen cho đến nay là The Sympathizer với hàng loạt giải thưởng, danh giá nhất là Pulitzer Prize 2016. Viet Thanh Nguyen cũng nghiên cứu về chủng tộc Mỹ Á và chiến tranh Việt Nam qua hai cuốn sách quan trọng là Race and Resistance: Literature and Politics in Asian America (2002) và Nothing Ever Dies: Vietnam and the Memory of War (2016).

Bài nghiên cứu này hướng đến hai mục đích: phác thảo dòng văn học di dân Mỹ Việt viết bằng tiếng Anh từ góc độ căn tính và xem xét vai trò của Viet Thanh Nguyen với dòng văn học này, chủ yếu ở phương diện tư tưởng của ông.

1. Đặc trưng căn tính của văn học di dân Mỹ Việt viết bằng tiếng Anh

Căn tính là một khái niệm khá phức tạp và mang tính liên ngành. Qua một số định nghĩa điển hình về căn tính của Erik H. Erikson (1963, tr.159), của Peter J. Burke và Jan E. Stets (2009, tr.3), hay Michael Bamberg (2009, tr.132), chúng tôi rút ra định nghĩa chung về căn tính như sau: (1) Căn tính là đặc điểm khu biệt của chủ thể với những đối tượng khác, sao cho chủ thể đó là độc nhất; (2) Căn tính không bất biến mà phát triển, thay đổi theo thời gian, từ thời thơ ấu đến khi cá nhân đảm nhiệm những vị trí trong xã hội; (3) Căn tính vừa là vấn đề của sự tự nhận thức của chủ thể vừa ít nhiều chịu chi phối từ bối cảnh bên ngoài. Những đặc điểm này đúng với cả cấp độ căn tính của cá nhân và căn tính của cộng đồng.

1.1. Từ căn tính cộng đồng đến căn tính cá nhân – nhìn từ sự vận động thể loại và đề tài

Có sự chuyển biến khá rõ rệt về thể loại, kéo theo thay đổi về đề tài sáng tác từ thế hệ 1 sang thế hệ 1.5 và 2. Nếu phần lớn tác phẩm thế hệ 1 thuộc thể hồi ký / tự truyện (như The Land I Lost (1982) của Huynh Quang Nhuong, Miles from Home (1984) của Anna Kim-Lan McCauley, A Vietcong Memoir (1985) của Truong Nhu Tang, When Heaven and Earth Changed Places (1989) của Le Ly Hayslip, Fallen Leaves (1989) của Nguyen Thi Thu-Lam) thì các thế hệ sau phát triển đa dạng thể loại: bên cạnh hồi ký còn có tiểu thuyết (ví dụ, Monkey Bridge (1997) của Lan Cao, The Book of Salt (2003) của Monique Truong), thơ (Song of the Cicadas (2001) của Mộng-Lan, Night Sky with Exit Wounds (2016) của Ocean Vuong, v.v.), truyện ngắn (Fake House (2000) của Linh Dinh, Quiet As They Come (2010) của Angie Chau), truyện vừa (The Gentle Order of Girls and Boys (2006) của Dao Strom), tiểu thuyết bằng tranh (Vietamerica (2010) của GP Tran, The Best We Could Do (2017) của Thi Bui). Nếu đề tài trước đó thiên về lịch sử chiến tranh thì càng về sau càng mở ra phong phú câu chuyện về thân phận cá nhân. Chiều vận động đó dựa trên sự phát triển tất yếu của hoàn cảnh lịch sử và ý thức về căn tính của những lớp người di dân.

Lùi một chút về thời kỳ đầu khi đến Mỹ với thế hệ 1 viết bằng tiếng Việt, nhu cầu nội tại của họ, nói như Qui-Phiet Tran là, thể hiện “bức chân dung theo kiểu Kafka của người Việt lưu vong từ 1975, là bức chân dung của người xa lạ hoàn toàn lạc lối và bị xa lánh […] và cam chịu sự đền tội vĩnh viễn vì đã xem nước Mỹ là quê hương mình[2] (Tran, 1989, tr.104). Do đó, đề tài chủ đạo trong sáng tác của lớp nhà văn này là cảm thức lưu vong, thường được gắn liền với hai chiều kích không – thời gian: một hướng về quá khứ với hoài niệm hoặc giận dữ vì một thế giới đã mất (nước Việt); một hướng về hiện tại với nỗi thất vọng trước sự phản bội về chính trị và lạc lõng về xã hội (nước Mỹ). Không phải không có những đề tài tươi sáng hơn – như sự hội nhập thành công của người Việt thiểu số vào cộng đồng bản địa đa số (xem Nguyễn Vy Khanh, 2005, tr.22) – nhưng đó không phải là giọng chủ đạo.

Với thế hệ 1 (và giao thời qua thế hệ 1.5) viết bằng tiếng Anh, vì viết chủ yếu cho đối tượng độc giả là người Mỹ, nên mục đích sáng tác chính của các nhà văn này là kể lại câu chuyện “đúng đắn” về chiến tranh Việt Nam so với diễn ngôn đã và đang phổ biến ở Mỹ, do văn học và điện ảnh Mỹ tạo ra. Diễn ngôn của Mỹ là: chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến giữa Mỹ và Bắc Việt, không có (hay bị xoá bỏ) vai trò của miền Nam Việt Nam vốn là đồng minh của Mỹ; dẫn đến hệ quả, hình ảnh chủ đạo của người Việt trong mắt người Mỹ chỉ còn là “kẻ thù” ở bên kia chiến tuyến. Nên khi di dân Việt Nam đến Mỹ từ 1975, bất chấp họ đến từ quan điểm chính trị nào, thường bị nhìn là những người mà nước Mỹ đã đối đầu trên chiến trường, tức kẻ thù, hơn là đồng minh tị nạn. Việc viết hồi ký / tự truyện là thực hiện nhiệm vụ kép: vừa kể câu chuyện của chính mình, vừa trình bày lịch sử chính xác hơn của cộng đồng mình. Janette gọi sáng tác loại này là “truyện chứng nhân” (tales of witness) – tác giả đồng thời là nhân chứng câu chuyện, trong đó họ “viết cho sự tồn tại của họ, để được nhìn nhận như chính con người họ, chứ không phải thông qua những quan niệm sai lầm và khuôn mẫu[3] (Janette, 2011, tr.xix). “Họ” ở đây đại diện cho khuôn mặt của cộng đồng, tuy mỗi truyện kể câu chuyện của cá nhân.

Bên cạnh “truyện chứng nhân” là “truyện tưởng tượng” (tales of imagination) với đại diện hầu hết là thế hệ 1.5 và 2. Theo Janette, trong khi loại truyện thứ nhất đóng vai trò “bảo tồn” và “giáo huấn” tính truyền thống, lịch sử, văn hoá của cộng đồng, thì loại truyện thứ hai lại mang tính “phiêu lưu” và hướng vào “nội tâm” (Janette, 2011, tr.xxii-xxiii). Đó là một cách nói cho thấy đề tài về lịch sử chung đã dần chuyển hướng sang những câu chuyện mang tính riêng tư, cá biệt hơn. Chẳng hạn như xung đột trong gia đình giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái (như Monkey Bridge của Lan Cao, The Gangster We Are All Looking for của Le Thi Diem Thuy), hành trình và tâm trạng trở lại Việt Nam của người xa xứ (Catfish and Mandala: A Two Wheeled Voyage Through the Landscape and Memory of Vietnam của Andrew X. Pham), chuyện ẩm thực (Stealing Buddha’s Dinner của Bich Minh Nguyen, Bitter in the Mouth của Monique Truong), chuyện tình yêu đồng tính và những trăn trở của giới LGBTQ+ (thơ của Kim-An Lieberman, Hieu Minh Nguyen, Ocean Vuong), v.v. Với đa dạng đề tài, điểm chung của những tác phẩm này là đều hướng tới xác định và xây dựng căn tính riêng giữa những xung đột văn hoá, sắc tộc và lịch sử. Thế hệ 1.5 và 2 lớn lên và hấp thụ văn hoá Mỹ, họ có thể giao tiếp bằng tiếng Anh và trở thành thông dịch viên cho gia đình mình với thế giới bên ngoài – nhưng đồng thời, họ cũng lớn lên cùng nỗi đau đớn, mất mát, nỗi ám ảnh chiến tranh của thế hệ 1; nên sự tra vấn căn tính cá nhân diễn ra liên tục, trong mối liên hệ với cộng đồng và lịch sử.

Hiện nay, xu hướng “không viết về Việt Nam”, đặc biệt là về đề tài chiến tranh và sắc tộc, ngày càng trở thành chủ trương của một số nhà văn Mỹ gốc Việt, như có thể thấy ở: tiểu thuyết Fish in Exile của Vi Khi Nao, The Adventures of Joe Harper của Phong Nguyen, The Empress of Salt and Fortune của Nghi Vo, tập thơ In the Mynah Bird’s Own Words của Barbara Tran, tiểu thuyết khoa học viễn tưởng We Have Always Been Here của Lena Nguyen, tuyển tập As Is: A Collection of Visual and Literary Works by Vietnamese American Artists, v.v. Xu hướng này chủ yếu gồm các văn nghệ sĩ gốc Việt thuộc thế hệ 2, và có khả năng sẽ trở thành chủ đạo trong tương lai khi các thế hệ nhà văn gốc Việt tiếp theo ngày càng lùi xa khỏi lịch sử chiến tranh và tị nạn. Tuy nhiên, vì xu hướng này chỉ mới bắt đầu, nên chúng tôi chưa đủ cứ liệu để có cái nhìn khái quát, đặc biệt về những đặc trưng căn tính, nên những phân tích tiếp theo sẽ chủ yếu dừng lại ở những tác phẩm và tác giả gắn với đề tài Việt Nam.

1.2. Căn tính chấn thương

Một trong những kiểu căn tính đặc trưng nhất của cộng đồng di dân, là căn tính chấn thương. Chấn thương có thể trở thành căn tính của một người, khi nó xảy ra trong hoàn cảnh khắc nghiệt (như chiến tranh, thuộc địa, tị nạn) (xem Berntsen & Rubin, 2006, tr.22; Becker, 2021, tr.566). Theo David Becker, một hoàn cảnh xã hội bi thương có thể phá huỷ tâm lý, niềm tin, hi vọng hoặc thậm chí một phần thân thể – những thuộc tính làm nên căn tính của một người – và thiết lập những hệ giá trị mới, tâm lý và tinh thần mới, qua cách nhìn mới về cuộc đời và chính mình và qua cách người khác nhìn mình trong hoàn cảnh mới (Becker, 2021, tr.566). Ở trong sự chông chênh đó, việc xác định mình là ai trở nên cấp thiết hơn với những người này.

Căn tính chấn thương của cộng đồng di dân Mỹ Việt đến từ sự kiện trung tâm là chiến tranh và tị nạn. Trong đó “thuyền nhân” (boat people) là thuật ngữ chỉ xuất hiện từ sau chiến tranh Việt Nam và gắn với những người rời quê hương bằng những con thuyền dễ tổn thương trên biển cả. Người tị nạn, do đó, trở thành một kiểu nhân vật phổ biến trong văn học di dân Mỹ Việt, được khắc hoạ trên không gian biển, trong các trại tị nạn, hay trên đất Mỹ, như trong tác phẩm Where the Ashes Are của Nguyễn Quí Đức, Perfume Dreams của Andrew Lam, The Refugees (Người tị nạn) của Viet Thanh Nguyen, Quiet As They Come của Angie Chau, Dragonfish của Vu Tran, v.v.

Một ví dụ điển hình là tiểu thuyết The Gangster We Are All Looking for (Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm) của Lê Thi Diem Thuy. Tác phẩm được viết dưới góc nhìn của chứng nhân: một cô bé “thuyền nhân” sáu tuổi rời Việt Nam cùng cha mình, kể lại những ngày đầu đến Mỹ ăn nhờ ở đậu, chuyển nhà liên tục, xung đột trong gia đình, và những hồi ức về Việt Nam. Trong đó, biến cố về cái chết của người anh trai ở quê nhà trở thành chấn thương ám ảnh suốt dòng tự sự của cô bé. Hình ảnh người anh chết vì đuối nước giải thích vì sao “nước” luôn xuất hiện trong nhiều liên tưởng của cô. “Nước” là biểu tượng của mất mát, mở rộng hơn, là sự mất quê hương, khi tác giả chơi chữ đồng âm tiếng Việt: “Trong tiếng Việt, từ water và từ a nation, a countrya homeland đều là một và như nhau: nước[4] (Lê Thi Diem Thúy, 2004) ở trang đề từ.

Cần nói thêm, ký ức chấn thương tác động đến hiện tại và tương lai là mô hình không chỉ thấy trong văn học di dân Mỹ Việt, mà phổ biến trong văn học di dân gốc Việt trên khắp thế giới, như trường hợp tiểu thuyết Sóng ngầm/ Lame de fond của Linda Lê (Pháp gốc Việt) với nhân vật chính tên Văn chối bỏ căn tính Việt Nam của mình do không thể đối mặt với chấn thương về cái chết của người mẹ mà mình đã bỏ lại quê nhà; hay chấn thương cả một lớp người đọng lại trên gương mặt “không còn biết ngạc nhiên” (Nam Lê, 2011, tr.371) của một đứa bé thuyền nhân mới sáu tuổi trong truyện ngắn Con thuyền/ The Boat của Nam Lê (Úc gốc Việt).

Kể về người chết là cách thức lớp người di dân nhớ về quá khứ, về những người thân đã mất, cũng là cách thức chống lại sự lãng quên. Theo Viet Thanh Nguyen, “vấn đề về chiến tranh và ký ức đầu tiên và trên hết là về cách nhớ đến người chết[5] (Nguyen, 2016, tr.4). Nếu ta quên người chết, tức là xoá bỏ cả ký ức về chiến tranh và chấn thương, cũng tức là xoá bỏ căn tính di dân / tị nạn – một diễn ngôn mà nước Mỹ luôn muốn tạo ra, tức dùng “giấc mơ Mỹ” hay sự thành công của những di dân điển hình để khoả lấp hệ quả chiến tranh nước Mỹ đã gây ra. Hành động kể hay viết về người chết, do đó, trở thành cách thức phản kháng của người tị nạn trước sự cố tình lãng quên này của nước Mỹ. Cô bé “thuyền nhân” trong Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm khi trưởng thành đã chọn rời khỏi gia đình và theo nghiệp viết. Nhân vật người em gái trong truyện ngắn Những người đàn bà mắt đen/ Black-Eyed Women (từ tập truyện Người tị nạn) của Viet Thanh Nguyen trở thành nhà văn chuyên viết truyện ma. Nhân vật kể chuyện trong truyện ngắn Tình yêu và danh dự và thương hại và kiêu hãnh và cảm thông và hy sinh/  Love and Honor and Pity and Pride and Compassion and Sacrifice (từ tập truyện Con thuyền) của Nam Lê chọn viết về quá khứ của cha mình gắn với sự kiện thảm sát Mỹ Lai cho bài tập cuối kì của một khoá tập huấn nhà văn trẻ.

Như vậy, căn tính chấn thương cũng là căn tính cộng đồng di dân, đó là điều cần xác tín chứ không phải chối bỏ. Yến Lê Espiritu – nhà nghiên cứu người Mỹ gốc Việt nổi tiếng – khi tuyên bố: “chúng ta [những nhà văn Mỹ gốc Việt] phải sẵn sàng trở thành những người kể chuyện ma[6] (Espiritu, 2005, tr.xix) là muốn nhấn mạnh điều này.

1.3. Căn tính lai ghép và căn tính sắc tộc

Bên cạnh chấn thương, lai ghép (hybridity) là kiểu căn tính đặc trưng nhất của di dân. Nhưng nếu căn tính chấn thương đi từ đậm nét (nơi thế hệ 1 và 1.5) đến phai mờ dần (thế hệ 1.5 và 2) do trải nghiệm với sự kiện trung tâm gây chấn thương ngày càng lùi xa, thì căn tính lai ghép lại phát triển từ mờ nhạt (ở thế hệ 1) đến đậm nét (thế hệ 1.5 và 2) do tình trạng hoà nhập và xung đột về sắc tộc, văn hoá giữa quê gốc với nước sở tại ngày càng sâu sắc. Nói cách khác, tính lai chỉ xuất hiện khi di dân chịu sự tác động từ cả yếu tố quê hương bản quán và nơi đang sinh sống, là sự kết hợp của tính dân tộc, truyền thống trong cộng đồng thiểu số mình với tính “ngoại lai”, quốc tế của cộng đồng đa số. Khi thế hệ 1.5 và 2 bắt đầu lớn lên, họ buộc phải hoà nhập với cộng đồng đa số, dẫn đến những xung đột và tra vấn về căn tính của mình, nói như Isabelle Thuy Pelaud: “đối với nhiều thành viên thuộc Thế giới thứ ba của cộng đồng di dân, dường như ý thức về đoàn kết nhóm, về căn tính sắc tộc và dân tộc của họ đã được nuôi dưỡng trong môi trường nhập cư, tị nạn và lưu vong. Ở đây, căn tính là sản phẩm bản lề[7] (2011, tr.31)

Tuy nhiên, sự lai ghép này không thể hiểu đơn thuần là tính đa văn hoá hay cầu nối giữa hai quốc gia, hai nền văn hoá hoà hợp, mà đúng hơn, trong hoàn cảnh của những di dân, căn tính lai ghép hình thành từ cuộc đấu tranh căng thẳng và bất tương xứng giữa diễn ngôn thống trị (của cộng đồng đa số) và những đặc tính yếu thế của chủ thể (thuộc cộng đồng thiểu số) – thể hiện rõ nhất ở vấn đề sắc tộc. Ví dụ, trong tiểu thuyết bằng thơ Inside Out & Back Again, Thanhhà Lại miêu tả kinh nghiệm của một đứa bé gái gốc Việt học lớp bốn mỗi ngày đến trường phải chiến đấu với mấy đứa bạn cùng lớp người bản địa:

Giờ thì tôi hiểu

khi chúng chế nhạo tên tôi

hét ha-ha-ha[8] dọc hành lang

khi chúng hỏi tôi có ăn thịt chó không,

sủa và nhai và cười lăn lộn

khi chúng thắc mắc tôi có sống trong rừng với hổ,

gầm gừ và rình rập bằng bốn chân […]

Tôi hiểu

và ước gì

tôi có thể trở lại

lúc chẳng hiểu gì[9]

(trích “More is not Better”, từ Inside Out & Back Again)

Căn tính Việt xuất phát từ đặc điểm sắc tộc của cô bé bị chế giễu và bị đánh đồng với những định kiến văn hoá (như ăn thịt chó, hoang dã, kém văn minh) khiến cô bé vừa phải học cách phản kháng, bằng cách cố học tiếng Anh thật giỏi, đồng thời nhờ anh mình dạy võ, vừa phải tìm cách được chấp nhận ở cộng đồng mới, qua việc cùng với gia đình đi nhà thờ vào mỗi Chủ nhật và gia nhập đạo Tin lành: “Ông cao bồi của chúng tôi nói / hàng xóm chúng tôi / sẽ giống hàng xóm hơn / nếu chúng tôi đồng ý làm chuyện gì đó / ở Nhà thờ Del Ray Southern Baptist / Tôi đã thấy tên nhà thờ / trên một bảng hiệu / nơi những tia nắng vàng chói chang / đánh vần chữ CHÚA”[10] (trích “HA LE LU DA”, từ Inside Out & Back Again). Tiếng Anh và Tin lành tự khắc trở thành căn tính Mỹ của cô bé một cách bắt buộc để sinh tồn nơi nước sở tại. Còn trong hồi ký du lịch Catfish and Mandala của Andrew X. Pham, căn tính lai ghép được khắc hoạ trong một bối cảnh khác: không phải xung đột trên đất Mỹ mà ngay tại Việt Nam khi người con xa xứ bao năm trở về thăm quê hương mình. Trong chuyến hành trình một năm của mình, An đi qua nhiều phong cảnh và gặp gỡ nhiều người Việt Nam, nhưng trớ trêu là tuy mang một nửa căn tính Việt, anh lại bị nhìn là một nửa người Mỹ (Việt kiều), khiến anh gặp phải những tình huống gây hấn, thù địch lẫn niềm nở, chào đón. Mối xung đột này cuối cùng trở thành nguyên cớ để củng cố căn tính Mỹ rõ nét hơn: khi được một người họ hàng hỏi sẽ làm gì sau khi trở về California, anh trả lời: “Là một người Mỹ tốt hơn” (“Be a better American”) (Pham, 1999, tr.341). Từ đây, An trở thành Andrew, câu chuyện tìm kiếm cội nguồn lại trở thành chuyện xác tín về căn tính Mỹ của một người di dân.

Câu chuyện của Andrew rất phù hợp với diễn ngôn tuyên truyền của nước Mỹ về tính đa văn hoá và “thiểu số kiểu mẫu” (model minority) nước Mỹ dành cho người nhập cư. Nhưng càng về sau, tác phẩm di dân Mỹ Việt càng đi ngược lại diễn ngôn này. Trong chuyên khảo Race and Resistance, Viet Thanh Nguyen lí giải: các nhà văn Mỹ gốc Á nói chung có xu hướng kháng cự lại cái nhìn đầy định kiến về chủng tộc của nước sở tại. Định kiến đó là, Mỹ thường phân biệt người gốc Á thành hai dạng: một là nhóm “chủ thể xấu” (bad subject), tức di dân không thể hòa nhập tốt vào nước Mỹ, trở thành gánh nặng, thậm chí mối đe doạ với nền văn hoá – kinh tế bản địa; hai là nhóm “thiểu số kiểu mẫu”, là những tấm gương điển hình về hội nhập và làm phát triển cộng đồng (Nguyen, 2002, tr.7). Nhóm “thiểu số kiểu mẫu” trở thành minh chứng cho một nước Mỹ dân chủ, bình đẳng và luôn tạo cơ hội cho những ai muốn vươn lên, bất kể xuất thân của họ, trong đối lập với “chủ thể xấu” là những người thất bại vì kĩ năng cá nhân yếu kém. Nhóm “thiểu số kiểu mẫu” do đó trở thành tiếng nói đại diện cho toàn thể cộng đồng di dân.

Nỗ lực của các nhà văn gốc Á là phản bác lại diễn ngôn này. Thực tế thì di dân là một cộng đồng mang tính đa dạng (Kenny, 2013, tr.13-14). Tiếng nói của một người thành đạt hay một người thất bại, một người giàu hay một người nghèo, một chính trị gia xuất thân từ nhóm di dân hay một người thất nghiệp sống nhờ vào phúc lợi xã hội… đều quan trọng như nhau. Văn học Mỹ Việt nói riêng, Mỹ Á nói chung, cần thể hiện được tính đa dạng đó, mới nói lên được căn tính chủng tộc của cộng đồng mình, chứ không phải chấp nhận loại căn tính đồng nhất hướng về “thiểu số kiểu mẫu” theo cách nhìn của nước Mỹ. Định hướng đó đã khiến các nhà phê bình văn học Mỹ Á đánh giá cao những tác phẩm nói lên được tiếng nói của nhóm “chủ thể xấu”. Nhìn từ góc độ này, những tác phẩm như The Book of Salt (Sách muối) của Monique Truong, Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian của Ocean Vuong hay The Sympathizer của Viet Thanh Nguyen đạt thành công khi đã cho thấy hình tượng người gốc Việt “không kiểu mẫu”: nhân vật chính của hai tiểu thuyết đầu là người đồng tính luyến ái; còn nhân vật người kể chuyện trong The Sympathizer là một đứa con lai và là “một người mang hai tâm trí” (Nguyen, 2015a, tr.1) khi nhìn cuộc chiến tranh Mỹ Việt từ cả hai phía.

2. Viet Thanh Nguyen với văn học di dân Mỹ Việt viết bằng tiếng Anh

2.1. Quan điểm của Viet Thanh Nguyen về căn tính sắc tộc và chủ nghĩa dân tộc trong cộng đồng di dân

Đồng tình với Kevin Kenny về tính đa dạng của di dân, phản bác lại diễn ngôn “thiểu số kiểu mẫu” của Mỹ, nhưng Viet Thanh Nguyen đã nhấn mạnh vào một trọng tâm khác: đa dạng không chỉ nằm ở xuất thân, địa vị của những thành phần trong cộng đồng, mà chủ yếu ở ý thức hệ. Một cộng đồng không chỉ có một ý thức hệ chung nhất; miêu tả được sự xung đột hay tính đa dạng về ý thức hệ của những người thuộc cùng một cộng đồng mới cho thấy sức sống, sự tồn tại của cộng đồng ấy. Tư tưởng này được Nguyen theo đuổi trong các tác phẩm của mình, như trong The RefugeesThe Sympathizer, ông khắc hoạ sự xung đột ý thức hệ trong cộng đồng người Việt với nhau; còn trong The Committed, mâu thuẫn giữa người Việt và người Algeria giữa lòng nước Pháp cho thấy sự phức tạp của vấn đề thực dân – thuộc địa không phải chỉ giữa nước thực dân và các nước thuộc địa, mà là giữa các cộng đồng thuộc địa với nhau. Đó là tính đa dạng của căn tính sắc tộc.

Phản ứng tất yếu của cộng đồng thiểu số trước sự thống trị của nhóm đa số là xiển dương căn tính dân tộc mình, nhưng điều đó cũng có nghĩa là dân tộc ấy tự rơi vào chính định kiến mà diễn ngôn từ nhóm thống trị gán cho: cộng đồng ấy là thuần nhất, không có tính đa dạng. Đó là cái bẫy của chủ nghĩa dân tộc. Vì vậy, Viet Thanh Nguyen hướng đến một cách nhìn khác: Vì “căn tính chủng tộc là một mâu thuẫn”[11] (Nguyen, 2002, tr.12) nên trước tiên và trên hết, “lai ghép” là bản chất của chủng tộc này. Ở 1.3, chúng tôi đã bàn về căn tính lai ghép của cộng đồng di dân, nhưng chủ yếu thể hiện ở lai ghép về sắc tộc. Với Viet Thanh Nguyen, ông nhấn mạnh hơn là sự lai ghép về mặt ý thức hệ. Đó là phương cách Viet Thanh Nguyen và những nhà văn cùng quan điểm với ông kháng cự lại chủ nghĩa dân tộc trong cộng đồng di dân của mình và chống lại nạn phân biệt sắc tộc nơi diễn ngôn của văn hoá thống trị. Góc nhìn này trở thành cách mà Nguyen xây dựng chân dung nhân vật chính của mình trong The SympathizerThe Committed – một người mang hai tâm trí, đứng ở cả hai phe: đồng minh của Mỹ và cộng sản. Thông qua sáng tác của mình, Nguyen muốn vượt qua vị trí của một “nhà văn sắc tộc”, xoá bỏ những đường biên, nhất là đường biên về lịch sử và chủng tộc.

Nói cụ thể hơn về trường hợp căn tính sắc tộc Việt, Viet Thanh Nguyen thẳng thắn khi bày tỏ quan điểm: thế nào là một người Việt Nam “đích thực” – qua suy tư về hình tượng “nhà” (home): “Nhà là nơi an ủi, nơi mọi người luôn chào đón bạn, đảm bảo cho bạn có đủ đồ để ăn, biết cách gọi tên bạn. Nhà là nơi mọi người hiểu bạn đủ để đặt bạn vào đúng chỗ, không thích bạn, ghét bạn, chán ngán bạn, trút nỗi bực bội và cơn giận lên bạn. Bố mẹ tôi sống và làm việc trong thế giới người Việt, và những người họ sợ nhất cũng lại là người Việt. Đó là mặt trái của tính đích thực (authenticity)” (Nguyen, 2015b). Tính hai mặt của “nhà” – vừa là nơi trú ẩn an toàn, vừa là nơi gây tổn thương – cũng là tính hai mặt của căn tính sắc tộc. Truyện ngắn War Years của Viet Thanh Nguyen (trong tập Người tị nạn) gói gọn trong không gian của cộng đồng người Việt xoay quanh tiệm tạp hoá New Saigon (gợi nhắc Little Saigon trong thực tế), nhưng không gian cộng đồng này trở nên căng thẳng và chia rẽ bởi cuộc vận động chính trị của bà Hoa. Bà Hoa thường xuyên đi vận động và quyên góp quỹ cho cuộc chiến chống cộng sản trong cộng đồng mình, nếu ai không quyên góp thì bị xem là thân cộng sản, không phải người Việt tị nạn “đích thực” (xuất phát từ định kiến của chủ nghĩa dân tộc cực đoan: hễ là người Việt tị nạn từ sau 1975 thì phải ghét cộng sản). Trong khi bà chủ tiệm New Saigon thì chống lại quan điểm này: “Tôi không đưa cho bà xu nào đâu” – “Tôi cật lực kiếm tiền. Bà thì làm gì? Bà chả làm gì ngoài ăn cắp và tống tiền, làm cho người ta nghĩ là họ vẫn có thể chiến đấu cuộc chiến này” (Nguyen, 2017, tr.65). Dù kể chuyện về người Việt trên đất Mỹ thời hậu chiến, câu chuyện lại có tựa đề là War Years – “Những năm chiến tranh”; dù họ đã tái định cư ở nơi có thể gọi là “nhà” với xung quanh là đồng bào mình, nhưng yên bình không đến.

Để vượt thoát khỏi việc định danh mình là người Việt đích thực hay không đích thực, theo Nguyen, cần phải có cái nhìn liên đới với các cộng đồng khác:

Họ là một phần của cộng đồng Việt hải ngoại, nhưng cũng còn biết bao nhiêu người khác nữa, với biết bao nhiêu ý tưởng, cảm giác, và cách nhìn cuộc sống khác […] Cho nên, chúng ta hãy thử quên đi chữ “cộng đồng” và thay vào bằng “các cộng đồng”. Không chỉ có một cộng đồng người Mỹ gốc Việt, mà có rất nhiều cộng đồng Mỹ gốc Việt, cũng như không phải chỉ có một nước Mỹ, mà có đến 50 bang trong một Hợp chủng quốc, và tầng tầng lớp lớp những cộng đồng nằm trong mỗi cộng đồng, cái nào cũng có một câu chuyện cần phải kể ra.” (Nguyen, 2009)

Như vậy, khác với hầu hết nhà văn thế hệ 1 và một số nhà văn thế hệ 1.5 thường gắn bó với tính dân tộc và xác lập tính xác thực cho căn tính Việt trong tác phẩm của mình thông qua truyền thống văn hoá và sự xung đột với chất Mỹ, Viet Thanh Nguyen chủ trương hướng đến tính phổ quát, vượt qua khái niệm “căn tính” hạn hẹp gắn liền với “dân tộc” và “sắc tộc”, bằng cách khắc hoạ cả mặt sáng và mặt tối của cộng đồng mình, và bằng cách miêu tả sự liên đới với những cộng đồng khác, thay vì chỉ kể những câu chuyện trong không gian nội bộ của cộng đồng. Mặt khác, không giống với một số nhà văn thế hệ 1.5 và 2 hướng hẳn về căn tính Mỹ hay chủ trương “không viết về Việt Nam”, Viet Thanh Nguyen vẫn khẳng định căn tính Việt của mình ở một đề tài quen thuộc nhưng với quan niệm mới: đề tài về chiến tranh Việt Nam.

2.2. Quan điểm của Viet Thanh Nguyen về chiến tranh Việt Nam

Dù là viết về Việt Nam hay Mỹ, dù là về những người tị nạn hay con cháu họ, thì văn học di dân, theo quan điểm của Viet Thanh Nguyen, thường gắn liền với chiến tranh: “dòng văn học này không thể tránh khỏi chiến tranh, bởi vì dòng văn học này không thể tách rời khỏi cộng đồng người Mỹ gốc Việt, vốn chỉ tồn tại nhờ chiến tranh[12] (Nguyen, 2016, tr.200). Đó là lí do tất cả tác phẩm hư cấu của Viet Thanh Nguyen đều là về chiến tranh. Ít nhất cho đến hiện tại, khi mà tiếng nói từ phía Việt Nam trong vấn đề chiến tranh vẫn chưa được lắng nghe đủ trên thế giới (dù thua cả cuộc chiến, nhưng Mỹ lại thắng ở việc áp đặt góc nhìn của mình về cuộc chiến này vào lịch sử thế giới – thứ nhất là do sức mạnh ngôn ngữ, thứ hai là do sức mạnh kinh tế, hai điều mà Việt Nam đều yếu thế so với Mỹ) – thì chiến tranh vẫn là mạch chính của dòng văn học di dân Việt Nam nói chung.

Ở 1.1, chúng tôi có nói về sự vận động về đề tài của văn học di dân Mỹ Việt, đi từ lịch sử chiến tranh trong sáng tác thế hệ 1 đến những câu chuyện cá nhân và khám phá nội tâm sâu hơn nơi thế hệ 1.5 và 2. Trong khi đó, tác phẩm của Viet Thanh Nguyen cho thấy một dòng chảy ngược: Tuy thuộc thế hệ 1.5, rời quê hương khi mới bốn tuổi, nhà văn lại chọn cách đối mặt trực diện với lịch sử Việt Nam, khai thác đề tài chiến tranh để làm rõ căn tính cộng đồng mình. Nhưng khác với thế hệ 1, Nguyen viết để hình dung lại căn tính của cộng đồng vượt lên trên cái nhìn chủ nghĩa dân tộc; muốn thế thì phải bắt đầu từ chính cốt lõi đã hình thành nên cộng đồng này – là chiến tranh.

2.2.1. Chiến tranh qua hình tượng nhân vật

Để làm được nhiệm vụ kép, vừa khắc hoạ được căn tính cộng đồng, vừa vượt ra khỏi tính dân tộc hạn hẹp, Nguyen xây dựng hình tượng “chủ thể xấu”, là người tị nạn không kiểu mẫu, thay vì người nhập cư kiểu mẫu.

Thứ nhất là sự khác biệt giữa “người tị nạn” và “người nhập cư”: Trong bài phỏng vấn cho tờ The Nation, Nguyen khẳng định: “Hãy gọi tôi là người tị nạn, đừng gọi là người nhập cư[13] (Wiener, 2018). Phát biểu này xuất phát từ một lập trường rõ ràng: Theo Nguyen, người Mỹ muốn biến câu chuyện của những người tị nạn (do chiến tranh) thành câu chuyện thành / bại của dân nhập cư; vì “tị nạn” là một mối đe doạ đối với văn hoá – kinh tế Mỹ, trong khi “nhập cư” mang tinh thần hoà nhập và hoà tan tốt vào văn hoá bản địa; mặt khác, câu chuyện “tị nạn” sẽ luôn nhắc người Mỹ nhớ đến chấn thương về cuộc chiến mà họ đã gây ra (Nguyen, 2019, tr.13-14). Khi kể những câu chuyện “tị nạn”, Viet Thanh Nguyen đã khắc sâu điều mà nước Mỹ muốn lãng quên: cuộc chiến tranh Việt Nam: “Khi chúng ta nhớ về những cuộc chiến buộc người dân phải chạy trốn […], thì chúng ta có thể thấy rằng câu chuyện nhập cư, cốt lõi của văn hóa Mỹ, trong nhiều trường hợp, phải được hiểu như một câu chuyện chiến tranh[14] (Nguyen, 2016, tr.220). Bằng sự kháng cự đó, góc nhìn đó, cộng đồng di dân Việt mới có được tiếng nói của mình. Tựa đề của tập truyện ngắn Người tị nạn của Nguyen cùng những câu chuyện về ký ức, hồn ma, người tị nạn trên biển và trên đất Mỹ là lời đáp trả của nhà văn với nước Mỹ, rằng cộng đồng tị nạn có căn tính riêng và phải được nhớ đến vì những thương tổn từ chiến tranh do nước Mỹ gây ra.

Thứ hai, vì muốn phản kháng diễn ngôn “thiểu số kiểu mẫu” của nước sở tại, nên người tị nạn của Nguyen là những “chủ thể xấu”. Như nhân vật chính trong The Committed tự nguyện trở thành một tay xã hội đen chuyên bán ma tuý và môi giới mại dâm, với mục đích làm sa đoạ những tay chính trị gia người Pháp, một ẩn dụ cho sự phản kháng kiểu hậu thực dân. Chọn khai thác kiểu hình tượng này, nhà văn không chỉ tránh được diễn ngôn áp đặt từ Mỹ và Pháp, mà cũng tránh được diễn ngôn phổ biến của cộng đồng di dân gốc Việ t: thay vì nói về “tính xác thực” của cộng đồng, lại cho thấy những bức chân dung “xấu”, không mang tính đại diện.

2.2.2. Chiến tranh qua góc nhìn và giọng điệu

Bên cạnh những tác phẩm cùng đề tài chiến tranh Việt Nam được viết từ người Việt Nam và người Mỹ, tác phẩm của Nguyen mang đến “góc nhìn lai ghép” vừa trong cuộc vừa ngoài cuộc, vừa Việt vừa Mỹ / hay Pháp, khiến chiến tranh trong The SympathizerThe Committed không giẫm chân lên những đại diện kinh điển của văn học viết về chiến tranh của hai nền văn học (như Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh và Những thứ họ mang/ The Things They Carried của Tim O’Brien). Chẳng hạn nhân vật chính trong The SympathizerThe Committed: Ngay từ nhỏ anh đã bị loại trừ khỏi đồng bào mình vì mang dòng máu lai giữa người cha Pháp là linh mục và người mẹ Việt Nam là một người hầu. Mối tình cấm kị này là một ẩn dụ cho quá trình Việt Nam trong vai nạn nhân, bị áp chế về thể xác và tinh thần bởi người Pháp, thủ phạm, thời kì thuộc địa. Sau đó anh tiếp tục bị loại trừ khỏi các đồng chí cộng sản của mình vì bị nghi ngờ theo phe Mỹ. Tính lai về dòng máu đã rất tự nhiên trở thành sự lai ghép về ý thức hệ, khiến cả hai tiểu thuyết là hành trình nhân vật đi tìm căn tính thật sự của mình: Trải qua đủ các sự kiện lịch sử gắn với các cuộc chiến tranh Việt Nam hiện đại, cuối cùng nhân vật nhận thấy căn tính của mình là một “người đồng cảm”, tức vượt lên trên mọi phe phái và hận thù. Khi chiến tranh được nhìn ở góc đa diện thì căn tính con người trong cuộc chiến ấy đã vượt ra ngoài chủ nghĩa dân tộc. Thế nên, chiến tranh không phải là một ký ức đơn nhất được chia sẻ chung cho cộng đồng mỗi dân tộc. Chiến tranh trở thành câu chuyện của nhiều mảnh ghép ký ức, chỉ khi đọc đầy đủ các mảnh ghép, ta mới hiểu bản chất của chiến tranh. Quan điểm này, vì nhấn mạnh đến cái “vi lịch sử” của từng cá thể, nên nó trái nghịch với khuynh hướng đi tìm một căn tính cộng đồng chung nhất và xác thực qua lịch sử chung.

Về giọng điệu, Viet Thanh Nguyen cũng chọn một cách biểu đạt riêng, khác với bối cảnh chung. Theo Janette, văn học Mỹ Việt bằng tiếng Anh mang giọng đồng cảm và hoà giải khi nói về nước Mỹ: “Có nỗi đau trong các câu chuyện bằng tiếng Anh, nhưng nó được thể hiện như sự đồng cảm chứ không phải là sự than thở. Có giận dữ, nhưng nó thường nhắm vào đế quốc Pháp hoặc chính phủ miền Nam Việt Nam tham nhũng hơn là vào Mỹ. Suối nguồn tình cảm ở đây không phải là lưu đày mà là hòa giải[15] (Janette, 2011, tr.xvii-xviii). Sự hoà giải này có thể được thể hiện hiển ngôn như cách An trở thành Andrew (trong Catfish and Mandala của Andrew X. Pham) hay ẩn dụ trong tình yêu đồng tính giữa Chó Con và cậu bạn da trắng (trong Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian/ On Earth We’re Briefly Gorgeous của Ocean Vuong). Riêng Viet Thanh Nguyen lại chọn giọng “giận dữ” nhắm thẳng vào nước Mỹ, như ông nói trong một bài phỏng vấn:

Ở đó không có nhiều sự thịnh nộ, ít nhất là trong vài thập niên trở lại đây. Và nếu có, thì cơn giận dữ hay thịnh nộ lại phải được hướng vào những kẻ không biết: đất nước nguồn cội ở châu Á, gia đình châu Á, hay những kẻ gia trưởng châu Á. Cho dù tất cả những điều đó đều quan trọng, tôi cảm nhận một sự ngần ngại – ngần ngại bày tỏ sự tức giận đối với văn hóa Mỹ hay đối với nước Mỹ vì những gì họ đã làm. Đó là lý do tại sao trong cuốn sách [The Sympathizer], tôi chọn một giọng nói giận dữ hơn nhiều đối với văn hóa Mỹ và nước Mỹ” (Tran, 2016).

Cùng với góc nhìn và giọng phê phán này, nhà văn chỉ rõ vai trò và tác động của chiến tranh Việt Nam tới nước Mỹ hiện đại, rằng nước Mỹ không phải đã đi qua chiến tranh sau cuộc chiến tại Việt Nam. Chiến tranh không chỉ là về quá khứ khốc liệt trên chiến trường hay về những tổn thương thời hậu chiến, mà nước Mỹ đã tạo ra cả một bộ máy chiến tranh khổng lồ bao trùm hầu hết các lĩnh vực xã hội: từ điêu khắc, xếp đặt, kiến trúc, điện ảnh, tạo thành “ngành công nghiệp” về cuộc chiến (Nguyen, 2016, tr.106). Việc “nuôi dưỡng” cái mà nhà văn gọi là “căn tính chiến tranh” nơi người Mỹ này đã khiến nước Mỹ thường trực có mặt trong các cuộc chiến: từ cuộc chiến ở Việt Nam, thế hệ thanh niên Mỹ lại rơi vào cuộc chiến ở Trung Đông – tuy mặt trận khác nhau, nhưng tính chất và góc tiếp cận các cuộc chiến với tâm thế của một đại cường quốc mang lí tưởng anh hùng thì dường như không khác mấy. Ở góc độ là một người Mỹ, có thể coi đó là thông điệp mà Viet Thanh Nguyen muốn gửi đến nước Mỹ nói chung và người dân Mỹ nói riêng, qua tác phẩm của mình.

Những tư tưởng này đã được Nguyen phần nào đưa vào sáng tác văn học, qua ba tác phẩm hư cấu The Refugees, The SympathizerThe Committed. Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi chỉ ghi nhận đóng góp của Viet Thanh Nguyen về phương diện tư tưởng, còn việc phân tích kĩ lưỡng tác phẩm của nhà văn, xin hẹn ở một công trình khác.

Kết luận

Bằng phương pháp văn học sử, chúng tôi đã phác hoạ sự phát triển của văn học di dân Mỹ Việt viết bằng tiếng Anh từ thế hệ 1 đến thế hệ 2 dưới góc độ căn tính. Đề tài căn tính đặc biệt quan trọng với dòng văn học di dân Việt Nam khi gắn với lịch sử chiến tranh Việt Nam, giúp định hình cộng đồng tị nạn, cộng đồng sắc tộc, thiểu số kiểu mẫu, chủ thể xấu ở Mỹ thời kì hậu chiến. Trong bối cảnh văn học di dân Mỹ Việt viết bằng tiếng Anh, quan điểm của nhà văn Viet Thanh Nguyen về các vấn đề căn tính sắc tộc, chủ nghĩa dân tộc và chiến tranh Việt Nam đã góp thêm vào tiếng nói khẳng định căn tính của cộng đồng di dân ở cả hai góc độ: góc độ hướng ra bên ngoài, để phản kháng lại cái nhìn áp đặt của diễn ngôn đế quốc và thuộc địa, và góc độ hướng vào bên trong, để vượt ra khỏi cái nhìn hạn hẹp, sắc tộc hoá của chính cộng đồng mình. Những nội dung này là tiền đề để hiểu sâu sắc các sáng tác văn học của nhà văn.

Nguyễn Hồng Anh & Phan Thu Vân

Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

Bamberg, M. (2009). “Identity and Narration”. In P. Hühn, J. Pier, W. Schmid & J. Schönert (Eds.), Handbook of Narratology (pp. 132-143). Walter de Gruyter GmbH & Co KG.

Becker, D. (2021). “Political Psychology: Identity Development in a Traumatic Environment”. In M. Bamberg, C. Demuth, & M. Watzlawik (Eds.), The Cambridge Handbook of Identity (pp. 564-585). Cambridge: Cambridge University Press. doi: 10.1017/9781108755146.029

Berntsen, D., & Rubin, D. C. (2006). “The Centrality of Event Scale: A Measure of Integrating a Trauma into One’s Identity And Its Relation to Post-traumatic Stress Disorder Symptoms”. Behaviour Research And Therapy, 44(2), 219-231.

Burke, P. J & Stets, J. E. (2009). Identity Theory. Oxford University Press.

Bui, T. (2017). The Best We Could Do: An Illustrated Memoir. New York: Abrams.

Erikson, E. H. (1963). Childhood and Society. New York: Norton.

Espiritu, Y. L. (2005). “Thirty Years AfterWARd: The Endings That are not Over”. Amerasia Journal, vol. 31, no. 2, xiii-xxiv.

Janette, M. (ed.) (2011). Mỹ Việt, Vietnamese American Literature in English, 1962-Present. University of Hawai’i Press.

Kenny, K. (2013). Diaspora: A Very Short Introduction. New York: Oxford University Press.

Lai, T. (2013). Inside Out & Back Again. HarperCollins Publishers.

Lê, N. (2011). Con thuyền (The Boat). Ha Noi: Vietnam Writers’ Association Publishing House.

Nguyễn, Vy Khanh (2005). “Nhìn lại 30 năm văn học hải ngoại” (Looking Back at 30 Years of Vietnamese Literature Abroad). Tạp chí Văn học (Literature Journal, California) (225), 3-27.

Nguyễn, Văn Trung (1995). “Văn học Hải ngoại?” (What is Vietnamese Literature Abroad?). Tạp chí Văn học (Literature Journal, California) (112), 3-22.

Nguyen, V. T. (2002). Race and Resistance: Literature and Politics in Asian America. Oxford University Press.

Nguyen, V. T. (2015a). The Sympathizer. New York: Grove Press.

Nguyen, V. T. (2016). Nothing Ever Dies: Vietnam and the Memory of War. Massachusetts: Harvard University Press.

Nguyen, V. T. (2017). The Refugees. London: Corsair.

Nguyen, V. T. (Ed.) (2019). Kẻ ly hương (The Displaced: Refugee Writers on Refugee Lives). Ho Chi Minh City: Vietnam Writers’ Association Publishing House.

Nguyen, V. T. (2021). The Committed. New York: Grove Press.

Pelaud, I. T. (2011). This Is All I Choose to Tell: History and Hybridity in Vietnamese American Literature (Vol. 231). Philadelphia, PA: Temple University Press.

Pham, A. X. (1999). Catfish and Mandala: A Two-Wheeled Voyage Through the Landscape and Memory of Vietnam. New York: Farrar, Straus and Giroux.

Tran, Q. P. (1989). “Exiles in the Land of the Free: Vietnamese Artists and Writers in America, 1975 to the Present”. Journal of the American Studies Association of Texas, 20, 101-110.

TÀI LIỆU THAM KHẢO TRÊN MẠNG:

Văn học Việt Nam ở hải ngoại: những vấn đề của sự phát triển hiện nay” (Vietnamese Literature Abroad: Current Development Issues) by Anatoly Sokolov (2017)

The Gangster We Are All Looking for by Lê Thi Diem Thúy (2004)

Call Me a Refugee, Not an Immigrant’: Viet Thanh Nguyen” by Jon Wiener (2018)

Let’s Talk: On Art, Communism and Controversy” by Viet Thanh Nguyen (2009).

Bàn về việc là/ không là người Việt Nam” by Viet Thanh Nguyen (2015b)

Sự giận dữ trong tiểu thuyết của người Mỹ gốc Á: Cuộc phỏng vấn với tác giả Nguyễn Thanh Việt” by Paul Tran (2016).

Nguồn: https://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/van-hoc-di-dan-my-viet-viet-bang-tieng-anh-nhin-tu-phuong-dien-can-tinh-va-truong-hop-viet-thanh-nguyen


[1] “it has remained difficult to find Vietnamese American texts, especially those written before 1995.”

[2] “Kafkaesque portrait of a Vietnamese exile since 1975 is that of a stranger totally lost and alienated […] and doomed to eternal penance for making America his home.”

[3] “were writing for their existence, to be seen as who they are, not through misconceptions and stereotypes.”

[4] “In Vietnamese, the word for water and the word for a nation, a country, and a homeland are one and the same: nước.”

[5] “the problem of war and memory is therefore first and foremost about how to remember the dead.”

[6] “we have to be willing to become tellers of ghost stories.”

[7] “it seems also clear for many Third World members of the diaspora that their sense of group solidarity, of ethnic and national identity has been nourished in the milieus of the immigrant, the refugee and the exiled. Here, identity is a product of articulation”

[8] Tiếng cười, mà cũng là nhại lại tên Ha (Hà) của cô bé – nhân vật chính.

[9]

I now understand

when they make fun of my name,
yelling ha-ha-ha down the hall
when they ask if I eat dog meat,
barking and chewing and falling down laughing
when they wonder if I lived in the jungle with tigers,
growling and stalking on all fours […]
I understand
and wish
I could go back

to not understanding

[10]

Our cowboy says

our neighbors
would be more like neighbors
if we agree to something
at the Del Ray Southern Baptist Church.

I’ve seen the church name
on a sign
where blaring yellow sun rays

spell GOD.

[11] “racial identity is a contradiction.”

[12] “the literature cannot avoid the war, because the literature is inseparable from the Vietnamese American population itself, which exists only because of the war.”

[13] “Call me a refugee, not an immigrant.”

[14] “When we remember the wars that forced people to flee […] then we can see that the immigrant story, staple of American culture, must actually be understood, in many cases, as a war story.”

[15] “There is pain in the English-language narratives, but it is rendered as empathy not lament. There is anger, but it is far more often directed at the imperialist French or corrupt South Vietnamese governments than at the American one. The emotional wellspring here is not exile but reconciliation.

Comments are closed.