Nghiên cứu văn học ở nước ta trong thời đại thống trị của chủ nghĩa Marx-Lenin (1930-1980) – kỳ 2

V.E. Khalizev

***

В.Е. Хализев

V.E. Khalizev

Những mệnh lệnh – cấm kị và lưỡi hái tử thần của những vụ trấn áp không buông tha bất kì ai đã tạo ra bầu sinh khí đặc biệt, đôi khi ngột ngạt quá sức chịu đựng (với sự tồn tại của giới khoa học), các thế hệ sau này khó có thể hình dung được bầu không khí ấy. Không sao tránh khỏi cảm giác căng thẳng và khốn khổ về mối nguy hiểm đang treo lửng lơ trên đầu, cảm giác bất lực, sợ hãi mà những con người can đảm đã phải trải qua.

Chuyện gì cũng ẩn chứa nhiều hiểm hoạ, và nguy cơ lớn nhất là sự giao tiếp cởi mở – chân tình giữa người với người, điều mà M.M. Prisvin đã phải ghi vào nhật kí bằng những lời khủng khiếp sau đây: “Trong số những người trung thành, mình quyết định cắt đứt tất cả, chỉ trừ một vài trụ cột cá biệt hoàn toàn không bao giờ dao động. Cũng chỉ vì mình, vì sự yên tĩnh của mình, đúng là chỉ vì sự yên tĩnh của mình thôi. Nếu không thế, mỗi bận trót nói với ai chuyện gì đó không cần thiết, một thời gian sau sực nhớ, liền thấy hối hận: “mình nói chuyện ấy để làm gì cơ chứ!”. Tất nhiên, khi hồi tỉnh như thế, mình đã nghĩ tới khả năng bị người ta cáo giác. Thế túc là, mỗi lần trò chuyện úp mở với ai là mình đã xúc phạm họ”. Ông viết tiếp: “Có một lời khuyên khá khôn ngoan: “Hãy treo ở nhà mình một bức chân dung nào đó để xác định giới hạn của những cuộc trò chuyện”[1]. Hãy nhớ lại lời của Brodski: một thời, “gần như trong mỗi căn phòng đều có treo chân dung ông ấy”[2] (chân dung Stalin. – V.Kh.), tuy nó cũng rất bấp bênh, như dẫu sao đó cũng là kí hiệu để người ta vững lòng. Đặc biệt, từng xảy ra tình trạng “đóng kín” một cách bí hiểm trong giao tiếp giữa lớp già và lớp trẻ: cả trong sinh hoạt gia đình, ở trường phổ thông (đặc biệt trong các giờ học văn học và lịch sử), lẫn các trường đại học, mức độ khép kín lớn nhất là ở các khoa đào tạo ngành nhân văn, tức là những đơn vị, như người ta thường nói, tạo thành mắt xích của “mặt trận tư tưởng hệ”.

Lưu trữ loại sách và bản thảo trái với hệ tư tưởng thống trị cũng là một mối nguy hiểm. Tôi đã nhìn thấy trong thư viện riêng của một gia đình cuốn hợp tuyển thơ ca Nga đầu thế kỉ xuất bản vào những năm 1910 – 1920, trong đó, tất cả những trang in thơ của Gumilev[3] đều bị xé bỏ, đến họ tên của thi sĩ ở phần mục lục cũng bị bôi mực đen rất cẩn thận. Theo hồi ức của S.G. Bocharov, ta biết, M.M. Bakhtin đã huỷ bản thảo Những người không chết của mình, cuốn sách nói về tội lỗi của những ai đã thích nghi theo cách này hay cách khác với trật tự đời sống thời trước cách mạng. A.A. Akhmatova kể lại, vào đầu những năm 1930, bà đã nhìn thấy khói bốc lên từ bếp lò của nhiều nhà trong thành phố: người ta đốt sách và bản thảo.

Nhưng vô số văn bản không phù hợp với hệ tư tưởng chính thống (văn học nghệ thuật, phê bình văn học, chính luận, triết học) vẫn tiếp tục tồn tại, tiếp tục được sáng tạo thêm ngay cả trong thời kỉ ảm đạm nhất. Chúng, những văn bản ấy, không có đường đến với công chúng, không tồn tại dưới dạng ấn phẩm, không có hình dạng giống với loại “tự xuất bản” ở thời đại sau này. Đó là thứ văn học được giấu kín, nó cẩn thận giữ mình, tránh sự soi mói của những “cặp mắt lạ”: đó là những người, như vẫn nói, “viết vào bàn”. Không ai đảm bảo sẽ tránh được sự lục soát. Cho nên, bản thân việc lưu giữ các văn bản dưới dạng đã in ấn và bản thảo như thế đòi hỏi người ta phải can đảm và khả năng dám mạo hiểm. Nó được gọi là loại văn học tránh khám xét. Những công trình được xuất bản hai ba chục năm sau đó (một phần hoặc toàn bộ) của các tác giả như S.A. Askoldov (Bốn cuộc trò chuyện (Những mảnh rút ra từ cuốn tiểu thuyết đã phác hoạ)Hình ảnh suy ngẫm của Đức Kitô – Những năm 1930)[4], của A.A. Meier (trong loạt Suy nghĩ khi đọc “Faust”, 1935, một công trình rất phổ biến và có nội dung sâu sắc, mà, theo chúng tôi, tạo thành một mắt xích trọng yếu của ngành “Faust học” ở Nga[5]), của A.A. Zolotarev, tác giả của bản thảo Cuốn sách về những cuốn sách. Ghi chú để nhớ và nhận xét cho bản thânNhật kí văn học giai đoạn 1939 – 1941, cũng như luận văn Về Hegel và chủ nghĩa Hegel (1940), trong đó triết học marxiste – leniniste được đánh giá như một hệ thống vu vơ, vô căn cứ[6]. Nhân đây cũng nên nhắc: những cuốn nhật kí được ghi trong những năm khác nhau và hàng chục năm liền của L.Ja. Ginburg, K.I. Chukovski, M.M. Prisivin là kho bằng chứng vô giá về thời đại đã mãi mãi để lại dấu ấn riêng của mình.

Thời đại Stalin và, về cơ bản, mấy chục năm liền sau đó, là thời đại của những thoả hiệp mà các nhà văn, học giả, nhất là các nhà nghiên cứu văn học, không sao tránh khỏi. Những thoả hiệp này cực kì đa dạng, đôi khi chúng diễn ra rất vòng vèo. Những ghi chép trong thời gian 1920 -1930 của Ginburg đã nói lên sự nghiệt ngã vô hạn của điều đó (có thể nó được nói quá lên, nhưng chắc chắn, đó không phải là những chuyện vô sở cứ). Những ghi chép ấy phải chờ mãi đến năm 1989 mới được xuất bản. Xin dẫn ra đây một số trích đoạn. 1929: “Buộc phải viết khe khẽ”. (Theo lời kể của A.A. Zolotarev, thời gian này và cả sau đó, nhà sử học I.M. Gpevs phải “làm việc lén lút”). 1932: “Người ta đã học được lối viết quả là không tồi, viết không có tư tưởng”. 1932: “Mọi chuyện thế là đã rõ: viết để in, thì không được nữa, chỉ có thể viết nhăng viết cuội thôi”. Nhiều năm sau, khi nhớ lại thời đại ấy, Ginburg viết: “Điều khiến tôi ngạc nhiên, ấy là việc từ trong bản chất, con người bao giờ cũng trung thực, dù người ta nghĩ và nói về những việc rất khác nhau”[7].

Đồng thời, những học giả xứng đáng với danh hiệu ấy vẫn kiên trì tìm cách giảm bớt tối đa sự thoả hiệp mà họ không thể né tránh. Họ viết và cho xuất bản những gì họ thực sự suy ngẫm, mặc dù phải họ sử dụng lối diễn đạt theo “lối nói bọc lót” (tiếng Nga: “подстилочные фразы” – chữ của A.P. Skaftymov) và “những dấu hiệu giả vờ thành thực” (tiếng Nga: “знаки лояльности” – chữ của V.M. Markovich). Các học giả còn tìm đủ mọi cách im lặng và lối nói nửa vời. Đây là đoạn nhật kí tuyệt vời của M.M. Prisvin (1932): “Nhiệm vụ của nhà văn bây giờ là phải giữ sao cho nổi rõ lập trường Xô viết, nhưng đồng thời, không được đánh mất bản thân”[8]. Những hành động nửa vời nhằm chống lại hệ tư tưởng chính thống đã được thực hiện trong hình thức mập mờ như vậy.

Một trong số “chủng loại” thoả hiệp là tác giả tự kiểm duyệt, kiểm duyệt tự nguyện và tự động. Chẳng hạn, năm 1928, V.M. Zyrmunski tự chỉ trích mạnh mẽ những bài viết đầu tay được đưa vào cuốn Những vấn đề lí luận văn học. Cả cuốn sách Thơ Aleksandr Blok ông viết năm 1922, trong đó phần bàn rất nhiều về quan điểm triết học – tôn giáo của thi sĩ, đã bị lược bỏ hai lần, cuối cùng biến thành một bài báo Thi pháp Aleksandr Blok. Nhà nghiên cứu đã xoá bỏ toàn bộ những gì liên quan tới truyền thống tôn giáo của Akhmatova trong bài Những người khắc phục chủ nghĩa tượng trưng (1916). Đoạn thể hiện hy vọng, rằng cùng với thời gian chúng ta sẽ chiếm lĩnh được văn học vừa mang tinh thần tôn giáo, vừa có tính hiện thực chủ nghĩa đích thực, cũng bị loại bỏ. Ông viết: “Chúng ta ước mơ, rằng thơ mới sẽ không thành thơ của chủ nghĩa cá nhân, không thành thơ thành thị, mà trở thành thơ mang tính toàn dân, tính dân tộc, nó sẽ được toàn thể nước Nga, truyền thống lịch sử và những mục tiêu lí tưởng của đất nước nuôi dưỡng”[9]. Xóa bỏ nhiều đoạn như thế của các bài viết đầu tay trong ấn phẩm mới, dĩ nhiên, Zyrmunski đã làm méo mó bản thân mình. Nhưng nếu không làm như thế, thì sẽ không thể nào có được cuốn sách in năm 1928.

Dấu hiệu đáng sợ của thời đại toàn trị là đòi hỏi các nhà khoa học bắt buộc phải thừa nhận sai lầm cá nhân. Để tránh mối hoạ bị trấn áp, các nhà khoa học từng “chệch đường” ở đâu đó và đã bị phê bình trên báo chí hoặc trong hội nghị sinh hoạt đảng dứt khoát phải thừa nhận sai lầm cá nhân, tức là phải sám hối. Lễ nghi sám hối được gọi là tự phê bình, nó vô tình nhại lại (lộn ngược lại) lễ xưng tội trong nhà thờ. Dưới thời Stalin, dân chúng truyền tụng một lời khuyên buồn cười ra nước mắt dành cho mỗi người thế này: “Đừng nghĩ! Nghĩ rồi, thì đừng viết. Viết rồi thì đừng in. In rồi, thì sám hối!”.

Tục lệ buộc phải thừa nhận lỗi lầm có tính chất hạ nhục con người thời Xô viết có rất nhiều hình thức khác nhau. Đó là những lời phát biểu trong hội nghị hoặc trên báo chí, cũng như những lá đơn viết tay gửi lên các cấp quản lí cao hơn. Nằm nơi ngọn nguồn, nếu có thể nói, của thể loại khoa học này là: Đài tưởng niệm sai lầm khoa học của V.B. Sklovshki (1930). Về cái văn bản đáng buồn khét tiếng ấy, rất lâu sau, L.Ja. Ginburg nói với A.P. Chudakov: “[…] khi ấy đó là chuyện bình thường. Người này không sám hối, thì có người khác thôi”. Và bà nhấn mạnh, rằng Sklovshki (ý muốn nói tới quá khứ “đảng xã hội – cách mạng” của ông) sẽ khó giữ được lành lặn với cái lí lịch như vậy”[10]. V.F. Pereverzev có lời khuyên rất đáng nhớ dành cho môn đệ và học trò của mình (vào thời ấy): “Hãy rũ bỏ tất cả những gì các anh đã viết. Những gì học được ở tôi cũng làm vậy”[11]. Nhân đây xin nhắc lại chuyện Akhmatova đã hành xử thế nào vào năm 1946, khi bà bị buộc tội bôi nhọ (báo cáo của Zdanov, nghị quyết về các tạp chí “Ngôi sao” và “Leningrad”). Khi người ta “gần như bắt buộc” Anna Andreievna đi gặp một phái đoàn sinh viên Anh, người ta hỏi bà, xem bà đánh giá thế nào về các nghị quyết. Mấy năm sau Akhmatova kể với L.K. Chukovskaija là mình đã trả lời thế này: “Hai tài liệu, cả bài phát biểu của đồng chí Zdanov, lẫn quyết nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tôi nghĩ là hoàn toàn đúng đắn”[12].

Thể loại sám hối đạt tới độ hưng thịnh nhất trong thời kì đấu tranh chống chủ nghĩa thế giới: những người buộc phải thú nhận bằng văn bản đã phạm phải tội này là V.Ja. Propp, B.M. Eikhenbaum, V.M. Zyrmunski. G.A. Gukovski định chống lại điều đó, nhưng kết cục lại tồi tệ hơn.

Một cái gì tương tự như thế cũng diễn ra lúc ấy ở Khoa Ngữ Văn trường MGU, G.N. Pospelov đã “sám hối” sau hàng loạt đòn tấn công vào ông trong nhiều cuộc hội nghị và trên báo chí[13]. Đây là một đoạn bài phát biểu của ông trong hội nghị Bộ môn Lịch sử văn học Nga diễn ra ngày 25.2.1949: “Tôi thấy cần phải phê phán nghiêm khắc những bài viết của tôi và suy ngẫm về nguồn gốc sai lầm của mình”. Ông viết tiếp theo thế này: “Tôi thấy, chuyện xảy ra với tôi cũng tương tự như với những trưởng biên tập các tạp chí ở Leningrad, những tạp chí đã đem in nhiều tác phẩm thù địch và đồi bại của Zosenko và Akhmatova”[14]. Đọc văn bản này (chỉ gần đây, tôi mới tìm thấy văn bản), thấy quá khủng khiếp và chua xót.

Cho tới thời hậu Stalin, nghi lễ sám hối vẫn tiếp tục được duy trì, tuy có nhẹ nhàng, mềm mỏng hơn: bây giờ phê bình chính thức chỉ là sự đe doạ mất việc, bị thải hồi khỏi cơ quan. Đây là một trong những trường hợp như vậy. Gữa những năm 1970, Viện Văn học thế giới chuẩn bị tập tiếp theo (tập 3) bộ Những tượng đài văn học trung đại. Rồi nổ ra chuyện ầm ỹ, om sòm. Chủ tịch Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô nổi đoá vì có quá nhiều văn bản tôn giáo và những lời bình chú đích đáng dành cho các văn bản ấy. Giám đốc Viện Văn học thế giới (“ИМЛИ”) B.L. Sutskov bị khiển trách. Sutskov liền gọi bộ môn Văn học cổ (Trưởng bộ môn là M.L. Gasparov). Nhiều năm sau, M.L. Gasparov kể lại: “Sutskov giải thích cho chúng tôi, văn hoá trung đại có tính chất ngu dân như thế nào. Chúng tôi nói “Chúng tôi hiểu rồi ạ”, nhưng hình như vẫn chưa thật tin, nên Sutskov bèn nói phóng mãi lên. Khi ông ấy nói, nạn trộm cướp hoành hành rất ngang ngược trong các nhà thờ châu Âu, tôi bắt đầu thấy bất yên, há hốc miệng. Averinsev ngồi bên cạnh, giữ tôi lại. Sau đó ông ấy bảo: “Anh muốn mất chức à?” … Thế là tôi viết bản thú nhận các sai lầm theo đúng mọi yêu cầu của thể loại ấy và đem ra đọc. Tờ giấy tôi vẫn còn giữ”. Đây là một đoạn của văn bản vừa dẫn: “Chúng tôi quên rằng, các văn bản tôn giáo có thể bị công chúng hiểu không đúng… Những lời chỉ dạy của Marx và Engels chưa được vận dụng đúng mức…”. Tiếp nữa: “ Tập thể bộ môn thừa nhận những sai lầm và sẽ tìm biện pháp để xoá bỏ hoàn toàn những sai lầm ấy trong công việc sau này”[15]. Xin lưu ý, cuốn sách khiến giới lãnh đạo nổi giận vào những năm 1970, mãi tới năm 2006 mới được xuất bản.

Ai đã ném đá vào các nhà khoa học từng mấy chục năm buộc phải thoả hiệp và thay vì kiên quyết bảo vệ lẽ phải, họ phải công khai thừa nhận cái được gọi là sai lầm của mình?

Có vẻ như ngược với tất cả, toàn bộ nỗi kinh hoàng đã làm nảy sinh ở các nhà khoa học lao động sáng tạo tình cảm nhẫn nhục hết sức nặng nề. Năm 1971, khi trò chuyện với S.G. Bocharov, M.M. Bakhtin đã nói như sau về những công việc đã làm với cuốn sách Những vấn đề sáng tác của Dostoievski (1929), mà cũng có thể ông muốn nói tới lần biên tập vào năm 1963: “Ở đó lúc nào tôi cũng buộc phải ngoe nguẩy – chạy tới chạy lui. Buộc phải kìm nén, giữ mình. Chỉ có ý nghĩ là vận động và cần bắt nó dừng lại”[16]. Mẩu chuyện chuẩn bị bảo vệ luận án về Rabelais cũng thuộc loại như vậy. Vào quãng 1949 – 1950, theo yêu cầu của VAK (tiếng Nga : “ВАК” – Hội đồng giám định tối cao. – ND), Bakhtin đã viết phần dẫn luận cho luận án. Nhiều năm sau, trong thư gửi V.V. Kozynov, ông nói về việc trên như sau: “Tôi đã phải bổ sung bản thảo theo yêu cầu của Hội đồng giám định VAK và viết thêm vào đó nhiều thứ dung tục bỉ ổi cho đúng theo với tinh thần của thời ấy”[17]. Còn đây là mấy câu rút ra từ cuộc trò chuyện của A.F. Losev với V.V. Bibikhin: “Trong các công trình của tôi, chỗ nào cũng trích dẫn Marx. Dẫu sao cũng phải tuân thủ lễ nghi”. “Không làm thế, anh sẽ bị khốn khổ”. Đoạn sám hối này mới thật là đau đớn: “Tôi vác chủ nghĩa Stalin trên đôi vai mình. Mọi người đều tán thành Marr, cả tôi cũng tán thành Marr. Nhưng sau đó tôi lại buộc tội Marr”. Và V.V. Bibikhin bình luận những lời sám hối ấy như sau: “Tôi lấy làm ngạc nhiên khi thấy hồi ức về những năm 30 hành hạ ông ấy đau khổ đến thế”[18].

Sau thời kì Stalin vài chục năm, những gì vừa nói ở trên (nỗi sợ hãi của các nhà khoa học, sự thoả hiệp và nghi lễ sám hối của họ) giảm bớt dần một cách rõ rệt. Có một sự thật quan trọng: từng yêu cầu M.L. Gasparov “đừng để mất chức”, nhưng ngay trong thời gian ấy (thậm chí, trước đó rất lâu, vào những năm 1960 – 1970), bản thân S.S. Averinsev, trong khi tiếp xúc với một cử toạ đông đảo (khoa lịch sử MGU), đã rất hào hứng nói về văn hoá trung đại với những cơ sở tôn giáo của nó. Có thể thấy, bên ngoài môi trường công vụ, nơi những cấm kị chính thức không thể duy trì sức mạnh của nó, người ta đã có thể ăn nói tự do.

Từ thập niên này quan thập niên khác, chế độ kiểm duyệt tư tưởng hệ Xô viết ngày càng giảm nhẹ dần. Chuyện mang nhau ra “cạo” về sau này không còn nữa. Vụ “khiển trách” cuốn sách Truyền thuyết Nga cổ do V.V. Kuskov xuất bản (1982), có lời mở đầu của ông, chắc chắn là trường hợp cuối cùng. Nhân viên canh giữ các giáo điều của chủ nghĩa vô thần cho rằng Kuskov đã “mủi lòng trước tác phẩm của một tăng lữ – thầy chùa” nên đã đồng nhất “việc thờ phụng Chúa trời… với sự phục vụ lợi ích của đất nước”[19]. Khi nghe tôi hỏi, liệu bài báo nói trên có gây phiền hà cho công việc ở cơ quan hay không, Kuskov cười vui vẻ, phẩy tay làm ra bộ coi thường và bảo chẳng thấy mối nguy hiểm nào. Đến trước cải tổ, thời đại trấn áp những kẻ “lệch lạc” cũng hoàn toàn kết thúc. Những “lối nói bọc lót” thời này xuất hiện ít hơn. Việc trích dẫn các vị kinh điển Marx – Lenin được hạn chế tối đa, nó biến thành một thứ nghi thức vô thưởng vô phạt, hoặc người ta hoàn toàn không làm như thế nữa.

Nhưng cho đến tận những năm 1989 -1991, trong các luận văn, luận án, danh mục tư liệu tham khảo vẫn cứ bắt buộc phải mở đầu bằng tác phẩm của các tác gia kinh điển chủ nghĩa Marx và tư liệu các Đại hội Đảng gần nhất. Danh mục tài liệu tham khảo mà các sách giáo khoa, giáo trình Dẫn luận nghiên cứu văn họcLí luận văn học buộc sinh viên phải đọc cũng giống hệt như vậy. Trong các giáo trình giảng dạy những môn học trên, suốt nhiều thập kỉ, bao giờ cũng có các phần như tính giai cấp, tính đảng (và giải thích kèm theo), tính nhân dân của văn học. Bất kì ai có cũng không dám bỏ qua các điển chế ấy. Đây là lời trong bài Tựa viết cho tập bài giảng tuyệt vời của V.M. Zyrmunski (nửa sau những năm 1950) được xuất bản sau khi ông mất: “Chúng tôi in lại văn bản các bài giảng… hầu như không có sự sửa chữa đáng kể nào”, nhưng “một trong những phần thời ấy buộc phải in”[20] đã được loại bỏ. Xin nhấn mạnh, cái “thời ấy” kéo dài sát tận tới những năm 1980 – 1990.

Đồng thời, trong khoa học nhân văn ở “thời kì hậu tan băng”, chủ nghĩa Marx dưới dạng bị cơ chế dung tục làm méo mó một cách nghiêm trọng trong suốt nhiều thập kỉ trở thành tài liệu cực kì phổ biến. Đây là đoạn ghi chép của M. Mamardasvili: “Ngày nay chúng ta có một thứ “chủ nghĩa Marx lè nhè””[21].

***

Trong bối cảnh khoa học bị trấn áp, những người có dính dáng tới nó dĩ nhiên phải hành xử theo nhiều cách khác nhau. V.M. Alpatov đã nhận xét một cách chính xác, “trong mọi hoàn cảnh”, họ đều giữ được cho mình sự tự do lựa chọn[22]. Nhiều nhà khoa học (ngay trong thời Stalin) đã kiên trì và bền bỉ gạt bỏ tối đa sự thoả hiệp vẫn gây áp lực với họ, họ mạo hiểm và nhiều khi rơi vào cảnh ngộ hết sức khó khăn. Nói theo lời của G. Bell, họ chấp nhận lễ “rước mình thánh”, hoá thành thiên thần. Những người khác lại nhượng bộ ít nhiều trước nhiệm vụ “nghề nghiệp – mưu sinh” của mình và tự xây dựng cho bản thân một bộ khế ước với lương tâm. Và cuối cùng, loại thứ ba là những kẻ chấp nhận “kiếp trâu ngựa” và, như người ta vẫn nói, trở thành “những cái đinh ốc – cảm tử quân” trong cỗ máy trấn áp của Đảng – Chính phủ. Khi người ta yêu cầu đám này bộc lộ “sức mạnh”, thì họ liền nắm chặt dùi cui và sử dụng cật lực đúng với chức năng trực tiếp của nó. Họ xứng đáng được gọi là những nhà hoạt động phản văn hoá (hoặc phản khoa học). Nói về những sự kiện xảy ra ở Leningrad vào năm 1949, L.Ja. Ginburg gọi các nhà nghiên cứu văn học như vậy là những “thợ nện”, và nhận xét về họ, theo chúng tôi là quá nghiêm khắc: đó là một lũ “hoá dại vì được nhào nặn bằng loại hợp chất thứ phẩm”, “vì sự đố kị với trí thức”, “vì niềm khoái chá thù hận”[23].

Nhiều khi, cũng có những chuyện hoàn toàn khác. Rất nhiều “kẻ tố cáo trở thành vật hi sinh của sự bức hại”[24]. Có một sự kiện đáng ghi nhớ: sau 40 năm, G.P. Berdnhikov, người cầm đầu cuộc trấn áp các nhân vật lãnh đạo giới nghiên cứu văn học Leningrad vào năm 1949, nhớ lại: “Người ta dạy dỗ tôi ở Ban Chấp hành thành uỷ, rồi điệu tôi về Moskva, quở mắng tôi cực kì gay gắt”. Người ta doạ: “Tôi sẽ không có trợ cấp và tôi phải trả thẻ đảng”[25]. Vào thời ấy, việc “trả thể đảng” rõ ràng không chỉ đe doạ bị loại ra khỏi vị trí lãnh đạo, mà còn là một cái gì đó nghiêm trọng hơn nhiều.

Buộc phải phản bội vì không đủ sức thoát ra, ấy là số phận của vô khối người dưới thời Stalin. Ngay từ năm 1930, L.Ja. Ginburg đã nhận ra điều đó: “Ngày càng phải va chạm nhiều hơn với loại người sẽ mưu hại các vị, chỉ vì họ sợ hãi”. Và, bà viết tiếp: “Không thể bảo người ta: anh hãy từ bỏ địa vị, từ bỏ miếng bánh mà con cái anh đang ăn, vì so với sự thật và công lí, những thứ ấy quan trọng hơn rất nhiều”[26].

Thêm một chuyện về sự sợ hãi. Giữa những kẻ trấn áp khoa học, giữa những tên sát hại, bức cung, đôi khi có những người sợ hãi phát hoảng loạn, tới mức để lộ ra những sự thật bất lợi cho lí lịch của họ. Chẳng hạn, chị ruột một nhà nghiên cứu văn học từng là tín đồ cựu giáo, hay em trai làm cảnh sát cho bọn Đức, hoặc những sự kiện đáng hổ thẹn, đáng bị lên án trong quá khứ riêng tư (ví như trong chiến tranh, khi lọt vào vòng vây, có người đào hố chôn thẻ đảng của mình). Chính những nỗi sợ hãi như thế đã làm nảy sinh ở nhiều người tham vọng không thể cưỡng lại: trèo lên các chức vụ cao hơn bằng mọi giá, và thói bợ đỡ, luồn cúi cấp trên, tìm cách tự bảo vệ, không để bị nghi ngờ, tránh các đòn đánh bất ngờ giáng xuống.

Tham gia trấn áp (“thợ nện”) là những người thuộc nhiều loại khác nhau. M.B. Khrapchenko (1904 – 1986) là một nhân vật đa diện, phức tạp, rất đáng chú ý. Từ năm 1938 đến 1948, ông là Chủ tịch Uỷ ban về các vấn đề Nghệ thuật, trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng; từ 1967 – là Viện sĩ – thư kí Ban Văn học và Ngôn ngữ của Viện Hàn lâm khoa học. Tất nhiên, ông đã hoàn thành tất cả những gì đòi hỏi một người ở vào địa vị ấy cần phải làm: vào những năm 1940 – tham gia đấu tranh chống lại chủ nghĩa thế giới; vào những năm 1970 – là người tổ chức ra lối viết ngữ văn học – hàn lâm, một lối viết bị A.D. Sakharov chỉ trích gay gắt. Các công trình của Khrapchenko (những chuốn sách về Gogol, hàng loạt bài viết về lí luận văn học) tất nhiên là chẳng có gì thú vị, nhưng chúng được xem là có tính chuyên nghiệp cao. Đồng thời, ngay dưới triều đại Stalin, tuỳ theo khả năng, Khrapchenko đã giúp đỡ nhiều nhà hoạt động văn hoá khả kính. Bằng chứng về việc đó là những lá thư người ta gửi cho ông với lòng biết ơn, đôi khi rất thân tình, tin cậy. Trong số những người gửi thư cho Khrapchenko, có Pasternak, Chukovski, Kaverin[27]. Công lao không thể phủ nhận của Khrapchenko ở những năm tháng cuối đời ông là ông đã ủng hộ chủ nghĩa cấu trúc Nga. Ông tuyên bố chủ nghĩa cấu trúc tương hợp và có họ hàng với chủ nghĩa Marx. Những công trình nghiên cứu văn học theo hướng lịch sử – chức năng của ông có ý nghĩa tích cực rõ rệt (bài Thời gian và đời sống của tác phẩm văn học là một công trình như vậy). Vào những năm 1980, ông ủng hộ sáng kiến biên soạn bộ từ điển bách khoa cơ bản: Nhà văn Nga. 1800 – 1917. Từ điển tiểu sử. Viện sĩ N.I. Balasov viết: “Khrapchenco ở những năm tháng tuổi già là một trong số những nhân vật sáng giá nhất giữa những người đứng đầu các ngành khoa học xã hội của Viện Hàn lâm”[28].

Cũng có thể nói một cái gì tương tự như thế về B.L. Suchkov, người từng làm việc tại Ban Chấp hành Trung ương Đảng dưới thời Stalin; sau này, từ năm 1967 – làm Giám đốc Viện Văn học thế giới. Theo đánh giá của M.L. Gasparov, đó là một người “thông minh, không ác tâm”, nhưng luôn luôn thực hiện triệt để các chỉ thị trấn áp của thượng cấp (về điều này, đã nói ở trên). Vào cuối những năm 1950, Suchkov đã góp phần thúc đẩy xuất bản tuyển tập tác phẩm của T. Mann dày hàng chục tập (ông viết Lời nói đầu cho tập I) và vào năm 1965, xuất bản tuyển tập (một tập) tác phẩm của F. Kafka (ông vừa là người tuyển chọn, vừa viết lời giới thiệu). M.L. Gasparov đã phát biểu ý kiến cực kì khắt khe về lĩnh vực hoạt động này của B.L. Suchkov (những bài viết về Mann và Kafka). Ông khẳng định, ở đây, các nhà văn phương Tây tầm cỡ đã “bị dịch sang thứ ngôn ngữ chính thống”[29]. Nhưng nếu không có sáng kiến của Suchkov, thì chắc chắn, sẽ còn rất lâu, chúng ta vẫn chưa có được bản dịch tiếng Nga tác phẩm của Thomas Mann với khối lượng tương đối đầy đủ như thế, càng không thể có được bản dịch sáng tác của Franz Kafka!

Nhân đây cũng nên nhắc tới A.L. Dymsis, người không đi trệch ra ngoài cơ quan thông tấn bán chính thức và năm 1949 trực tiếp tham gia trấn áp khoa học, nhưng đồng thời cũng có một số công lao trong lĩnh vực nghiên cứu văn học. Đặc biệt, ông góp phần tổ chức xuất bản thơ của Mandelstam trong series “Thư viện nhà thơ” (1977) và viết lời giới thiệu cho cuốn sách, giúp quảng đại công chúng bước đầu làm quen với sáng tác của thi sĩ.

Cũng có thể nói những điều tương tự về hàng loạt nhân vật hoàn toàn không thuộc loại chính diện, ví như V.V. Ermilov, Ja.E. Elsberg, R.M. Samarin, những người mà chẳng ai có thể nghi ngờ tài năng của họ.

***

Lịch sử nghiên cứu văn học của nước ta một trăm năm qua (ở những giai đoạn khác nhau của nó) đầy những thăng trầm và mâu thuẫn: ghẻ lạnh, đổ vỡ, thù oán. Chúng tôi đã nói về cuộc đối đầu giữa cánh nghiên cứu văn học marxiste với trường phái hình thức luận và sự hận thù giữa họ với nhau. Chỉ xin bổ sung, vào những năm 1920, còn có xung đột cực kì gay gắt của cả phái này, lẫn phái kia trong khoa học và triết học thời tiền cách mạng: cả phái hình thức luận, lẫn phái marxiste dều xuất hiện như những nhân vật tiên phong chủ nghĩa, trong vai trò những chiến sĩ lật đổ quá khứ của dân tộc, tựa như quá khứ là cái gì đã vắt kiệt bản thân, thậm chí thù địch với hiện tại. Và cũng chính vì thế, vô tình, họ xích lại gần nhau. Ý kiến của các nhà khoa học ở hai cực đối lập, như B.M. Eikhenbaum và V.F. Pereverzev, đã nói lên điều đó.

Đây là mấy câu trích từ thư (19.10.1921) của Eikhenbaum, một chiến tướng kiệt xuất của phái hình thức luận, gửi Zyrmunski, một người quan tâm và rất kính trọng nhóm OPOJAZ, nhưng cũng không có ý định từ bỏ kinh nghiệm thời trẻ của mình trong dòng nghiên cứu văn học tiền cách mạng (hàn lâm): “Mong muốn của anh trong việc giữ lại quá khứ (ý muốn nói tới những công trình đầu tay của Zyrmunski, bàn về hệ vấn đề tôn giáo – đạo đức – triết học.- V. Kh.), duy trì tính độc lập của mình khiến tôi thấy sợ anh; tôi sợ anh, vì anh có rất ít sự cuồng tín… Trước mắt tôi là một tình thế tiến thoái lưỡng nan: bước ngoặt (về phía tập trung hoàn toàn vào các vấn đề hình thức.- V. Kh.), hoặc lãnh đạm theo kiểu hàn lâm”[30]. Những ý kiến theo tinh thần “khoa học – tiên phong chủ nghĩa” (chúng ta từ bỏ thế giới cũ!) đồng vọng một cách nghịch lí (đồng thời nó cũng mang tính quy luật) với những lời phát ngôn của nhà marxiste Pereverzev, người từng nghĩ rằng, lần đầu tiên, chân lí khoa học tuyệt đối đã mở ra trước mình và những ai cùng tư tưởng với mình, ông khẳng định “cần từ bỏ mọi sự lặp lại của các phương pháp cũ trong các công trình nghiên cứu”[31].

Ở cả hai trường hợp nói trên, trước mắt chúng ta có một sự nghịch lí nào đó, đồng thời cũng có một sự thống nhất hữu cơ theo kiểu riêng giữa các quan điểm khoa học nghiêm túc: nhiệt tình giải thích theo tinh thần tiên phong chủ nghĩa, sự thiển cận và niềm tin cuồng tín (có thể gọi là mù quáng) cho rằng, cuối cùng, chân lí tuyệt đối đã chiến thắng (hoặc sắp sửa chiến thắng). Đây chính là nguyên nhân làm nảy sinh thái độ cố chấp, quyết liệt và sự đối đầu đầy thù địch.

Nền nghiên cứu văn học nước ta thời tiền cách mạng có những đặc điểm hoàn toàn ngược lại. Các nhà khoa học làm thành một cộng đồng nào đó, nổi lên trên hết là tinh thần hợp tác thân thiện. Xin dẫn ra một trong muôn vàn bằng chứng như vậy. Vào những năm 1880, sau khi A.A. Potebnija phê phán một số tư tưởng của F.I. Buslaev, thầy học và người cùng thời thuộc thế hệ tiền bối của mình, ông đã viết một “lá thư xin lỗi”. Câu trả lời là thế này: “Một nhà khoa học, một giáo sư mà không vui mừng với việc thính giả sẽ đi xa hơn, rộng hơn trong khoa học, thì sẽ sẽ tạo ra tội lỗi tày trời chống lại sứ mệnh của mình”[32]. Đó là những lời nói có trọng lượng, mang ý nghĩa thời đại. Không khí hợp tác sáng tạo là đặc điểm nổi bật của nghiên cứu văn học nước ta hồi đầu thế kỉ XX. Năm 1925, A. Belits, nhà ngữ văn chuyên ngành Serbia học nổi tiếng, người trước đó từng dạy học ở hàng loạt trường đại học, viết: “Trong các đoàn thể, điều tối quan trọng chính là cái tinh thần ngự trị ở đó. Ở các trường đại học cũng vậy. Vẫn chưa thể xem là đủ, nếu trường đại học chỉ có những nhà khoa học vĩ đại để hoàn thành thật tốt vai trò vườn ươm khoa học và văn hoá. Dứt khoát phải làm sao để tinh thần khoa học đích thực thống trị trong các trường đại học. Những trường đại học không có nhiều học giả tầm cỡ, nhưng thấm nhuần tinh thần khoa học, sẽ có khả năng làm việc khoa học hiệu quả hơn so với những trường đại học có nhiều học giả tài năng, nhưng thiếu bầu không khí khoa học đích thực. Bầu không khí ấy đang tồn tại trong tất cả các trường đại học của Nga”[33]. Đại diện của truyền thống ôn hoà – hàn lâm ở mấy thập kỉ đầu tiên của thế kỉ XX là S.A. Vengerov, F.D. Bachiuskov, D.N. Ovsijako-Kulinovski, V.N. Perets, A.M. Evlakhov – những vệ sĩ nhiệt thành của nguyên tắc phương pháp luận đa nguyên.

Rõ ràng, sự “vênh lệch” giữa khoa học văn học thời tiền cách mạng và hậu cách mạng là cực kì gay gắt, đôi khi đầy căng thẳng đau đớn. Nó không chỉ đánh dấu những cách tân làm cho khoa học trở nên giàu có, phong phú, mà còn đánh dấu những thất thiệt, mất mát to lớn: việc phá huỷ các giá trị mà ngày nay chúng ta buộc phải khôi phục hết sức khó khăn (và chắc chắn không thể nguyên vẹn) là điều không mong muốn đối với văn hoá.

***

Trong lịch sử khoa học của chúng ta, có một chuyển biến hoàn toàn khác (không kém phần quan trọng so với những gì đã nói và cũng hết sức căng thẳng, cay đắng) diễn ra vào những năm 1950 – 1960, khi mà đến với nghiên cứu văn học là một thế hệ mới bắt đầu trưởng thành trong thời đại Stalin, thời đại cực kì bất lợi đối với việc hình thành nhân cách con người: tuyệt đại đa số lớp người trẻ tuổi thời này bị cách li với tất cả các truyền thống, chỉ ngoại trừ mỗi một truyền thống cách mạng. Năm 1938, M.M. Prisvin ghi lại: “Thanh thiếu niên không được tự mình nhìn thấy đời sống thời trước cách mạng mà chỉ nghe thấy trong các trường học lời nguyền rủa cuộc sống ấy như một “sự thật”, từ cửa miệng cha mẹ, họ thâu nhận được ý niệm về một sự thật khác”[34]. Đã có chuyện như thế, nhưng không phải lúc nào cũng như vậy, càng không phải như vậy đã là đầy đủ. Một người bạn đồng tuế của tôi hỏi bố xem cha mẹ mình là ai, người bố trả lời: “Con không cần biết điều đó, nếu biết, người ta sẽ bắt ngay”. Nhân thể, xin nhắc lại một chuyện khác: trong thế hệ chẳng may sinh ra vào những năm 1920, có rất nhiều người đã bỏ mình ngoài mặt trận, sau chiến tranh, vĩnh viễn không trở về.

Sự giao tiếp của các nhà nghiên cứu văn học lớn tuổi, ít nhiều hiểu biết nền văn hoá thời tiền cách mạng, với trẻ em thời Stalin, một công việc bình thường, chính đáng, đã trở thành công việc bị thiến gọn, cắt ngắn. A.P. Skaftymov, một nhân vật hàng đầu của ngành đại học sư phạm có đào tạo môn văn vào giai đoạn 1930 – 1950, từng trải nghiệm đầy căng thẳng và cay đắng. Ông viết cho Iu.G. Oksman: “Đôi khi muốn trình bày toàn bộ bản thân (về mặt phương pháp luận) trong một hệ thống với đủ mọi nguồn trích dẫn và các tiết, đoạn, với các bậc tiền bối và không có các bậc tiền bối… Nhưng làm thế, phỏng được lợi lộc gì, khi mà phương pháp luận dành cho lớp cán bộ trẻ đã được dạy trước, đòi hỏi dứt khoát phải chú ý và thực hiện…”. Một đoạn khác, trong số những lá thư cuối cùng gửi Oksman – nói về việc Skaftymov không muốn nghiên cứu tài liệu lưu trữ của mình – cũng viết về điều đó: “Lúc nào tôi cũng nghĩ, “sau khi tôi chết”, sẽ chẳng còn có ai đó cần dùng một cái gì đó”[35]. Còn đây là một đoạn nhật kí (1952) của B.M. Eikhenbaum: “Có một sự khác biệt khủng khiếp giữa các thế hệ, chúng tôi hoàn toàn không hiểu nhau”[36].

Đến thời kì tan băng và sau đó, trong nghiên cứu văn học xuất hiện một thế hệ học giả mới. Cùng với thời gian, thế hệ này đã trở thành lực lượng kế thừa xứng đáng di sản của Bakhtin, của trường phái hình thức, của những nhà ngữ văn học, như Skaftymov, Zyrmunski, Maksimov, Ginburg… A.M. Dobrokhotov đã nói rất đúng về các nhà ngữ văn học ở mấy thập niên thời hậu Stalin, lớp người sinh ra từ những năm 1928 đến 1938, như một thế hệ kiệt suất và, theo lời ông, “giờ đây đang nhanh chóng rút lui với tốc độ thật tàn nhẫn”, nhưng “cho đến nay, khối tri thức vô tận và khát vọng tinh thần của họ mãi mãi khiến người ta phải kinh ngạc”[37]. Đó là V.N. Toporov, V.E. Vasuro, M.L. Gasparov, S.S. Averinsev, A.P. Chudakov, S.N. Broiman, V.V. Musatov, A.V. Mikhailov, A.I. Zuraleva. Đứng trong hàng ngũ của những người được chào đón từ thế hệ này (đa số lớn tuổi hơn những người vừa kể ở trên) còn có: A.M. Turkov, Iu.N. Chumakov, B.F. Egorov, V.A. Keldys, Iu.V. Mann, S.G. Bocharov.

Có thể nói, rất nhiều người từ thế hệ hậu chiến ấy, không phải ngay lập tức, mà cùng với thời gian, đã tìm thấy con đường đến với các bậc tiền bối và hoàn toàn có khả năng tiếp thu kinh nghiệm của họ. Kết cục là, sợi chỉ nối kết lớp “già” và lớp “trẻ” hoá ra đầy triển vọng và rất bền vững. Một sự kiện có ý nghĩa thời đại là chuyến đi tới Saransk, tìm đến với Bakhtin (mùa hè năm 1961) của V.V. Kozinov, S.G. Bocharov và G.D. Gachev, những người trẻ tuổi ở thời ấy, chuyến đi khơi nguồn cho việc xuất bản hàng loạt công trình của nhà bác học vĩ đại (những chuyên luận về Dostoievski và Rabelais, hàng loạt bài viết về tiểu thuyết và các vấn đề khác) và, cuối cùng, toàn tập tác phẩm mà hiện nay đã gần hoàn tất. Nhân đây, cần nhắc tới mối quan tâm ngày càng lớn hơn trong vòng mấy thập kỉ gần đây dành cho di sản và cá nhân A.P. Skaftymov[38].

Cùng với thời gian, các nhà ngữ văn học thế hệ hậu chiến cũng đã tạo ra sự kết nối với nghiên cứu văn học của phái hình thức luận, một di sản từng bị chối bỏ thẳng thừng vào những năm 1930 – 1950. Việc giới thiệu V.B. Sklovshki của A.P. Chudakov và M.O. Chudakova, nhất là việc nghiên cứu không mệt mỏi và có hiệu quả của họ đối với di sản của B.M. Eikhenbaum và Iu.M. Tynhijanov là sự kiện đáng chú ý. Thư từ, đàm thoại của S.G. Bocharov với Ghinburg cũng có ý nghĩa quan trọng như vậy. Có một sợi chỉ được nối kết trực tiếp từ V.V. Vinogradov tới A.P. Chudakov (thầy – trò). Hoạt động của Gasparov với tư cách một nhà thi học dựa trên kinh nghiệm của trường phái hình thức, trước hết là những công trình của B.I. Jarkho.

Còn có một sự kết nối tương tự như thế (ngược về quãng thời gian tương đối xa hơn) giữa các học giả thời tiền cách mạng với nhiều lớp con cháu của họ từng làm việc vào mấy thập niên đầu của thời đại Xô viết. Chẳng hạn, học trò của V.N. Perets là N.K. Gudzyi, một trong những giáo sư đầu đàn của MGU. V.P. Adrianov-Perets giữ vai trò quyết định trong việc dẫn dắt D.S. Likhachev đến với văn học cổ Nga (D.S. Likhachev trở thành người thừa kế văn học cổ Nga với tư cách người đứng đầu Ban Nghiên cứu văn học cổ tại Nhà Pushkin). Ở giai đoạn sau, thấy nổi rõ hơn mối liên hệ nguồn cội giữa nghiên cứu văn học Nga thời đại xô viết (ở tất cả các thời kì của nó) với những truyền thống triết học tôn giáo đầu thế kỉ XX[39].

Khoa học văn học trong thời kì Xô viết, như đã thấy (ngược với những hiện tượng tự phát), tồn tại phù hợp với quy luật kế thừa mang tính tổng hợp trong thế giới văn hoá. Ở những biểu hiện vẻ vang, cao cường, nó là một chỉnh thể thống nhất. Nhưng số phận của tuyệt đại đa số học giả lại đầy bi kịch. Bi kịch ấy (điều phù hợp với kinh nghiệm muôn đời của nhân loại) đã đồng hành cùng với những tia hy vọng nào đó. Những tia hy vọng là hiện tượng thanh lọc kết tụ trong thời gian, đôi khi người đương thời nhận ra, nhưng họ vẫn thường xuyên, kiên cường “hoạt động” như thế.

***

Rõ ràng, có những thử thách khắc nghiệt chưa từng thấy đã giáng vào số phận của các nhà nghiên cứu văn học thời Xô viết. Nhưng chắc chắn không ai có thể nghi ngờ quy mô và ý nghĩa văn hoá siêu thời đại ở những gì chúng ta đã làm được. Không có cơ sở để đồng ý với nhận xét mà M.M. Bakhtin đã phát biểu trong một cuộc đàm đạo với S.G. Bocharov. Trong cuộc trò chuyện ấy, Bakhtin đã đánh giá có phần nghiệt ngã thái quá đối với các nhà nhân văn học thuộc thế hệ mình: “Tất cả những gì đã làm ra trong nửa thế kỉ này, trên một nền tảng bất lợi, dưới một gầm trời mất tự do, tất cả ở mức độ này hay mức độ khác đều lệch lạc, tồi tệ”[40]. Có thể và cần phải hiểu thấu ý nghĩa bi kịch cực kì nghiêm trọng của nhận xét ấy: những yêu cầu đạo đức tối đa và tuyệt đối của nhà bác học với khoa học xã hội nhân văn của thời đại và trước hết với chính bản thân mình đã khiến ông phải thốt lên nhận xét như thế. Nhưng liệu có ai trong chúng ta dám nảy ra ý nghĩ sẽ phê phán các công trình của Bakhtin, cũng như của A.P. Skaftymov, V.M. Zyrmunski, L.Ja. Ginburg, D.S. Likhachev, của những người đã buộc phải thoả hiệp (cứ cho là thoả hiệp rất ôn hoà) trong phạm vi hoạt động của mình? Các học giả ấy (và nhiều người khác), theo cách diễn đạt của S.S. Averinsev, đã buộc phải gánh chịu “thời khắc lịch sử tăm tối nhất của đất nước chúng ta”. Nhưng cũng chính trong thời đại mà tư tưởng tự do, sống động bị chà đạp, dày xéo một cách tàn nhẫn chưa từng thấy, ngược với tất cả, họ đã tạo ra cho nền khoa học của chúng ta rất nhiều điều vô giá, hoàn thành sứ mệnh cao cả của con người. Sự nghiệp vĩ đại này là cuộc tu hành khổ hạnh đúng với ý nghĩa cao nhất của từ ấy. Không dựa vào di sản của họ, khó có thể hình dung nổi nền khoa học về văn học hiện nay (và cả tương lai).

Lã Nguyên dịch từ: http://transformations.russian-literature.com/otechestvennoe-literaturovedenie-v-epochu-marxizma-leninizma

Dịch giả gửi Văn Việt.



[1] M.M. Prisvin.- Nhật kí.1938 – 1939. Spb., 2010. Tr. 5.

[2] Iosif Brodski.- Suy ngẫm về con quỷ// “NLO”, 2000, số 45. Tr. 149.

[3] N.S. Gumilev (Никола́й Степа́нович Гумилёв – sinh năm 1886 trong một gia đình quý tộc, mất năm 1922): Nhà thơ của “thế kỉ bạc”, người sáng lập trường phái đỉnh cao, dịch giả, nhà phê bình văn học.- ND.

[4] Xem: Các con đường và những vũ trụ của văn hoá Nga. Spb., 1994. Tr. 402 – 508.

[5] Xem: A.A. Meier.- Luận văn triết học. Paris, 1982. Bài dẫn nhập của V.N. Toporov (bút danh – S. Dalinski).

[6] Xem: A.N. Anhinkovska, V.E. Khalizev. Về đời sống văn học ở Nga những năm 1930 – đầu những năm 1940// “Khoa học ngữ văn”, 1962, số 2; A.A. Zolotarev.- Về Hegel và chủ nghĩa Hegel// “Những vấn đề triết học”, 1994, số 5.

[7] L.Ja. Ginburg.- Nhật kí. Hồi ức. Tiểu luận. Tr. С. 79, 112, 394.

[8] A.A. Prisvin.- Nhật kí. 1932 – 1935. Spb., 2009. Tr. 133.

[9] V.M. Zyrmunski.- Những người khắc phục chủ nghĩa tượng trưng// “Tư tưởng Nga”, 1916, số 12. Tr. 56. Trong một ấn phẩm có uy tín, các công trình của vị học giả trẻ, rất tiếc, các văn bản tái bản đã bị “cắt bỏ” để xuất bản vào năm 1928 (Xem: V.M. Zyrmunski.- Lí luận văn học. Thi pháp. Tu từ học. L., 1977). Có thể xem các công trình về Những người khắc phục chủ nghĩa tượng trưng và sáng tạo của Blok trên trang mạng: http://postsymbolism.ru

[10] A.P. Chudakov.- Trò chuyện với Ghinburg// “NLO”, số 49 (2001). Tr. 231.

[11] Vào những năm 1920 -1930, diệu pháp chối bỏ và sám hối trong giới học giả ngữ văn học đạt tới giới hạn cao nhất và quái gở nhất. Người ta yêu cầu các môn đệ của A.M. Deborin (1881 – 1963, nhà triết học marxiste, sáng lập viên Viện Triết học Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô.- ND) viết bài tố cáo ông (“Dưới lá cờ của chủ nghĩa Marx”, 1931, số 1, 3-4, 11-12; 1932, số 1-2). Sự phản bội tập thể của Deborin với các học trò về sau này được gọi chính xác là sự vi phạm và huỷ hoại “các nguyên tắc đạo đức ngàn đời của giới trí thức Nga” (G.A.Belaia.- Những chàng Don Quixote những năm 1920. “Cái đèo” và số phận lịch sử của nó. M., 1989. Tr. 330.

[12] L.K. Chukovskaja.- Ghi chép về Anna Akhmatova. Bộ 3 tập. T. 3. M., 1997. Tr. 94.

[13] Xem: V.E. Khalizev.- G.N. Pospelov trong cuộc đấu tranh chống lại “chủ nghĩa tự do tư sản” và “chủ nghĩa thế giới” của A.N. Veselovski (1947 – 1949)// Đã được nhận in trong Nghiên cứu văn học Nga thế kỉ XX: tên tuổi, trường phái, quan niệm. Nxb.: MGU.

[14] Lưu trữ cá nhân của tác giả bài báo này.

[15] M.L. Gasparov.- Ghi chép và trích lục. Spb. 2008. Tr.83.

[16] S.G. Bocharov.- Về một cuộc trò chuyện và xung quanh cuộc trò chuyện ấy// S.G. Bocharov.- Những truyện kể của văn học Nga. M., 1999. Tr. 475.

[17] M.M. Bakhtin.- Tuyển tập. Bộ 6 tập. T. 4 (1). M., 2010. Tr. 921.

[18] V.V. Bibikhin.- A.F. Losev. S.S. Averinsev. M., 2004. Tr. 217, 173, 270.

[19] N. Tarasenko.- Thời đại tìm kiếm. Mấy ý kiến về văn học vô thần// “Sự thật”, 1983, 15.5.

[20] Xem: V.M. Zyrmunski.- Dẫn luận nghiên cứu văn học. Tập bài giảng. Spb., 1996. Tr. 7

[21] M. Mamardasvili.- Sự cần thiết với mình. Dẫn luận triết học. M., 1996. Tr. 203.

[22] V.M. Alpatov.- Các nhà ngữ văn học và cách mạng// “NLO”, 2002, số 53. Tr. 216.

[23] L.Ja. Ginburg.- Nhật kí. Hồi ức. Tiểu luận. Tr. 322.

[24] K. M. Azadovski; B.F. Egorov.- Về thói bợ đỡ và chủ nghĩa thế giới. 1948 – 1949. Tr. 170. Về những kẻ trấn áp các nhà văn và các nhà khoa học từng giữ những vị trí cao nhất trong hệ thống quan chức thời Stalin đã thực hiện những việc đen tối, lúc nào lúc nào cũng thấy có tội và sợ hãi, xin xem truyện ngắn Chuyến đi săn của Vl. Tendriakov (“Chưa công bố”, M., 19986): Năm 1949, A.A. Fadeev, người đứng đầu Hội Nhà văn, đã công khai tố cáo, phản bội bạn mình, sau đó bị lương tâm cắn dứt, ông đã tìm gặp bạn vào ban đêm (để không ai biết được).

[25] K. M. Azadovski; B.F. Egorov.- “Các môn đệ của chủ nghĩa thế giới”. Tr. 122.

[26] L.Ja. Ginburg.- Nhật kí. Hồi ức. Tiểu luận. Tr. 408.

[27] Xem: Những nhà hoạt động nghệ thuật Nga và M.B. Khrapchenko, Chủ tịch uỷ ban về các vấn đề nghệ thuật: tháng 4/1939 – tháng giêng/1948: Tổng tập thư từ. M., 2007.

[28] N.I. Balasov.- Chiến công của viện sĩ Likhachev// “Tin tức RAN”. Series Văn học và Ngôn ngữ, 2000, số 1. Tr. 5.

[29] M.L. Gasparov.- Ghi chép và trích lục. Tr. 88.

[30] Thư từ của B.M. Eikhenbaum và V.M. Zyrmunski// “Tuyển tập Tynhijanov”. Đọc Tynhijanov lần thứ ba. Riga, 1988. Tr. 314 – 315.

[31] V.F. Pereverzev.- Những tiền đề tất yếu của nghiên cứu văn học marxiste// “Nghiên cứu văn học”. Chủ biên V.F. Pereverzev. M., 1928. Tr. 18.

[32] Trích theo V.Iu. Franchuk.- A.A. Potebnhija. M., 1986. Tr. 85.

[33] Trích theo V.P. Gudkov.- Slavơ học. Serbia học. Tuyển tập bài báo. M., 1999. Tr. 1932 – 133.

[34] M.M. Prisvin.- Nhật kí. 1938 – 1939. M., 2010. Tr. 130.

[35] Thư từ của A.P. Skaftymov và Iu.G. Oksman// Aleksandr Pavlovich Skaftymov trong khoa học văn học và nền văn hoá Nga. Bài báo. Ấn phẩm. Hồi ức. Saratov, 2010. Tr. 302-303, 317.

[36] B.M. Eikhenbaum.- Về văn học. Những bài viết trong nhiều năm khác nhau. M., 1987. Tr. 30.

[37] A.M. Dobrokhotov.- Averinsev như một nhà triết học văn hoá// “Đọc Averinsev”. M., 2008. Tr. 58.

[38] Xem: Aleksandr Pavlovich Skaftymov trong khoa học văn học và văn hoá Nga

[39] Xem: V.E. Khalizev.- Truyền thống triết học tôn giáo giai đoạn giáp ranh giữa các thế kỉ XIX – XX trong nghiên cứu văn học giai đoạn Xô viết// Văn học Nga thế kỉ XX – XXI: Những vấn đề lí luận và phương pháp luận nghiên cứu. M., 2008.

[40] S.G. Bocharov.- Về một cuộc trò chuyện… Tr. 475.

Comments are closed.