Chung quanh vấn đề “văn mẫu” (kỳ 5): Đang có sự hiểu sai về "văn mẫu"

Đào Tiến Thi

Theo tường thuật của báo Vietnamet, tại hội nghị tổng kết năm học 2020 – 2021 và triển khai nhiệm vụ năm học 2021 – 2022, Bộ trưởng Giáo dục – Đào tạo Nguyễn Kim Sơn nói: "Riêng với môn Ngữ văn, cần chấm dứt học theo văn mẫu, bài mẫu, dẫn tới triệt tiêu sự sáng tạo của thầy và trò".

https://vietnamnet.vn/…/bo-truong-nguyen-kim-son-can…

Phát biểu trên của ngài Bộ trưởng Giáo dục – Đào tạo đã dẫn đến những cuộc tranh luận trong giáo giới và văn giới, người đồng ý, người phản đối. Lẽ ra, thông thường, trước khi đưa ra quan điểm, người nói phải giới thuyết để "khoanh vùng" khái niệm thế nào là "văn mẫu", "bài mẫu", thế nào là "học theo văn mẫu, bài mẫu", thì việc trao đổi, tranh luận dễ dàng hơn, tránh tình trạng "ông nói gà bà nói vịt" và nhiều ngộ nhận cho vấn đề.

Đã có một đối tượng gọi là "mẫu" thì tất có sản phẩm sinh ra từ mẫu. Ta tạm quy ước bài văn mẫu là "bài mẹ", bài sinh ra từ bài văn mẫu là "bài con", thì "bài con" sẽ có những nét tương tự "bài mẹ", nhưng không phải là "bài mẹ". Như vậy, nó khác hẳn trường hợp học sinh sao chép (copy), tức là nhân ra nhiều bản cùng nội dung y hệt nhau; theo cách này dẫu nhân ra cả triệu bản thì vẫn chỉ có một bài (một văn bản), khi đó không có "bài mẹ", cũng chẳng có "bài con". Như thế không thể gọi là "học theo văn mẫu" theo đúng nghĩa của từ "học" trong giáo dục.

Ông Bộ trưởng Giáo dục – Đào tạo chắc chắn không thể hiểu sai nghĩa của từ "học". Cho nên câu nói của ông "Cần chấm dứt học theo văn mẫu, bài mẫu, dẫn tới triệt tiêu sự sáng tạo của thầy và trò" không thể dùng theo nghĩa "copy" nói trên mà theo nghĩa đúng, nghĩa chân chính của từ này.

Và nếu vậy thì đó là một quan điểm sai và hoàn toàn phi thực tế.

Việc dùng bài văn mẫu để dạy trong phân môn Tập làm văn (Làm văn) là phương pháp có từ xưa đến nay, có thể nói đã trở thành kinh điển. Quy trình thông thường là:

Bước 1. Dùng một hoặc một vài bài văn hay và tiêu biểu cho kiểu văn bản làm mẫu mực (bài mẫu), đem ra phân tích để hiểu rõ về chủ đề, cảm hứng, giọng điệu, nội dung, bố cục, cách sử dụng từ ngữ, sử dụng các phép tu từ, v.v. trong bài văn.

Bước 2. Từ kết quả phân tích ở bước 1 rút ra các đặc trưng kiểu của văn bản (tả người, con vật, tả cảnh thiên nhiên, tả cảnh sinh hoạt, kể chuyện, nghị luận xã hội, nghị luận văn học, thuyết minh (khoa học), hành chính – công vụ,…) và phương pháp làm các kiểu bài này. Khi nêu các kết luận, để học sinh có cái nhìn rộng hơn về một kiểu văn bản, sách giáo khoa và thầy cô còn có thể mở rộng thêm bằng một số văn bản (hay trích đoạn văn bản) khác. Văn bản để củng cố lý thuyết này cũng là mẫu cho một khía cạnh nào đó.

Bước 3. Vận dụng vào bài viết. Ví dụ, từ trích đoạn Hội vật (truyện Ông Cản Ngũ của Kim Lân), học sinh tả một hội vật ở quê mình, từ bài văn Phong cảnh làng mạc ngày mùa (Tô Hoài), học sinh tả cảnh làng quê mình vào mùa gặt. Từ bài nghị luận Sức sống của dân Việt Nam qua ca dao, cổ tích của Nguyễn Đình Thi, học sinh viết về tinh thần lạc quan của nhân dân Việt Nam thể hiện trong một hoặc một số truyện cổ tích theo yêu cầu của thầy cô giáo. v.v. Cũng như vậy khi các em tả con chó, bác hàng xóm, dòng sông, phân tích nhân vật Thúy Kiều,… mỗi em sẽ có con chó nhà em, bác hàng xóm của gia đình em, dòng sông quê em, nàng Thúy Kiều của em,…

Sơ qua như thế cũng đã thấy: việc sử dụng bài văn mẫu là tất yếu, là chuyện phải "có bột mới gột nên hồ". Không có bài văn mẫu không thể dạy học sinh làm văn được.

Trong cuộc sống, ta thấy rất nhiều kiểu học theo mẫu. Trẻ em học tiếng mẹ đẻ bằng cách mô phỏng mẫu ngữ âm, từ vựng, cú pháp,… mà người lớn nói. Học ngoại ngữ cũng bắt đầu từ các mẫu như vậy. Các nhà văn khi bắt đầu viết văn cũng thường mô phỏng các nhà văn đi trước. Nhìn rộng ra, hầu như bất cứ ai học một công việc, một nghề gì cũng bắt đầu từ làm theo mẫu,… Mẫu ngự trị ở khắp nơi, sao lại bảo không học theo bài văn mẫu?

Học theo văn mẫu có hạn chế sáng tạo không? Không hề. Trái lại, phải biết làm theo mẫu (cái chuẩn mực) đến mức nào đó thì sau đó mới có sáng tạo.

Vả lại, phải hiểu như thế nào là sáng tạo? Sáng tạo ít nhất có hai mức độ: 1. Biết vận dụng lý thuyết (cái chung, cái chuẩn mực) vào hoàn cảnh, đối tượng cụ thể; 2. Biết tạo ra cái hoàn toàn mới (vượt qua cái chuẩn mực).

Theo mức độ thứ nhất, học sinh biết vận dụng vào đối tượng cụ thể như nêu ở các ví dụ trên, thế là sáng tạo. Còn theo nghĩa thứ hai, nhìn chung là rất hiếm với học sinh, nếu có được là một sự may mắn, chứ trong dạy học cũng không yêu cầu phải đạt như thế.

Trong môn Ngữ văn, hiện tượng dạy và học theo lối "mì ăn liền" – học thuộc lòng "bài mẫu" hay cóp nhặt những đoạn "mẫu" để ghép thành bài, phục vụ cho kiểm tra, thi cử – là hiện tượng phải chống. Đó không phải là học theo văn mẫu. Nhưng nhầm lẫn từ hiện tượng sao chép đó sang việc sử dụng văn mẫu (để dạy cách làm bài) để rồi từ đó nêu thành mệnh đề chống học theo mẫu là sai lầm còn nghiêm trọng hơn, vì như thế đi ngược quy luật dạy học nói chung và đi ngược quy luật dạy và học phân môn Tập làm văn nói riêng.

(ĐTT, 27/8/2021)

Có thể là hình ảnh về sách

Ảnh 1: Một số sách giáo khoa môn Tập làm văn những năm tám mươi và chín mươi thế kỷ trước

Có thể là hình ảnh về sách

Ảnh 2: Một số sách giáo khoa Quốc văn của miền Nam trước 1975

Không có mô tả ảnh.

Ảnh 3: Một trang trong sách Việt luận của nhà giáo Nghiêm Toản (miền Nam trước 1975)

Nguồn: FB Đào Tiến Thi

Comments are closed.