Thảo luận về dịch thuật: Trần Thiện Đạo phê phán bản dịch “Những ruồi” của Phùng Thăng

Tô Thẩm Huy

Trên hai số Văn đầu-tiên phát-hành vào tháng 11 và 12 năm 1967 tại Sài Gòn, học-giả Trần Thiện Đạo đã đăng liên-tiếp hai bài viết về vở kịch Những Ruồi do nữ-sĩ Phùng Thăng dịch từ vở Les Mouches của Jean-Paul Sartre. Trong bài thứ nhất đăng trên Văn số 1, tác-giả nhận-định vai-trò đặc-biệt của Sartre trong nền “văn học viết” của thế-giới nói chung, và nền “văn học viết của Pháp nói riêng, như là người đầu-tiên thực-thụ thành-công trong việc dùng văn-chương hư-cấu, đặc-biệt là thể kịch, để luận-thuyết về triết-học; Để rồi sau đó đưa ra những tư-tưởng chính của chủ-nghĩa hiện-sinh, trước khi dẫn-dắt độc giả vào ý-nghĩa triết-lý của vở kịch. Bài thứ hai đăng trên số Văn kế-tiếp là những lời phê-bình của Trần học-giả dành cho bản dịch Những Ruồi. Theo đấy thì bản dịch Những Ruồi là: “…cái kho chất chứa chật ních và đầy đủ hết mọi lỗi lầm trong phép dịch văn.”, dịch sai bét, bậy, ẩu, càn, là “văn Việt với cái giọng đặc Tây, …, lai căng”, v.v.

Những là nặng-nề, lời chỉ-trích của Trần học giả!

Việc ấy cách nay cũng đã gần 50 năm, nhẽ ra để nó nằm lặng-lẽ dưới lớp bụi thời- gian, chẳng nên khơi dậy làm gì. Thế nhưng gần đây, trong tác-phẩm Từ Chủ Nghĩa Hiện Sinh Đến Thuyết Cơ Cấu do nhà xuất-bản Văn-Học ở Hà Nội in năm 2001 và nhà xuất-bản Tri Thức tái-bản năm 2008, tác-giả Trần Thiện Đạo đã cho in lại bài phê-bình đầy những lời nhiếc-mắng, bôi-nhọ, về những lỗi-lầm mà ông cho là đầy-dẫy khắp mọi trang trong bản dịch của nữ-sĩ Phùng Thăng.

Kẻ tiện sinh u-muội này thật không muốn so kiếm cùng Trần trưởng-lão, mà cũng chẳng sánh mỉnh ngang hàng với Phùng nữ-sĩ mà thay mặt người lên-tiếng trả-lời. Thế nhưng:”Nhưng nghĩ lại nỗi-niềm đau-đớn ấy, để riêng-tây e có chỗ không đành(1), nhất là nay nữ-sĩ đã thừa hạc quy tiên, nên xin mạo-muội biện-bạch đôi điều, dù biết rằng giả như nữ-sĩ còn đang vân-hành ở trần-gian, chắc người cũng chẳng buồn lên tiếng đối-đáp.

Trong những điều mà Trần học-giả cho là lỗi-lầm đầy-dẫy ấy, có những chỗ, mà theo kẻ tiểu-sinh này, quả là nữ-sĩ Phùng Thăng đã sơ-sót, nhưng trớ-trêu thay, lại có một số điều thật ra lại là chỗ tài-hoa, ảo-diệu của người dịch mà Trần tiên-sinh đã vô-ý không nhìn ra. Chẳng hạn như trong lời phê-bình được trích nguyên-văn sau đây:

Trước hết, là cái nhan đề vở kịch. Tại sao lại NHỮNG ruồi? Vì nguyên tác là LES Mouches chăng? Vì từ những chỉ số nhiều chăng?… Và trong những câu dẫn dắt đến câu văn trên, tác giả đã kết án Phùng dịch-giả là “dịch chữ mà không dịch tinh-thần câu văn…, chừng như không màng chú ý tới…cách phô diễn tư tưởng của người Việt Nam; văn dịch của cô không thoát khỏi cái giọng đặc Tây, nhiều lúc ngớ ngẩn, chối tai, phải dịch trở lại tiếng Pháp thì mới hiểu được.

NHỮNG RUỒI thật ra là cái tựa hay tuyệt-vời! Chữ những trong tiếng Việt nào đâu phải chỉ được dùng như là một mạo-từ để chỉ số nhiều, thưa Trần học-giả. Nó còn được dùng như một tán-thán-tự, để bày tỏ sự sửng-sốt, ngạc-nhiên, hay để nêu lên vẻ bùi-ngùi, tê-tái, hay để nhấn mạnh chữ đi sau nó. Trong đoạn Kiều Ở Lầu Ngưng Bích mà ai ai cũng biết, Nguyễn Du đã viết:

(1047) Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa ?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác, biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dàu dàu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồị
Chung quanh những nước non người,
Đau lòng lưu lạc, nên vài bốn câu.

Người Việt đọc đoạn thơ ấy chẳng ai, chẳng thể nào, nghĩ “những nước non người” là có nhiều nước non người, chẳng thể nào liên-tưởng đến mạo-tự LES như Trần học-giả đã ngờ-vực. Mà lối dùng chữ những như thế trong Kiều không phải là ít. Xin đưa vài thí dụ:

1077. Những là lần lữa nắng mưa,
Kiếp phong trần biết bao giờ mới thôi ?

1219. Những nghe nói, đã thẹn thùng,
Nước đời lắm nỗi lạ lùng, khắt khe!
Xót mình cửa các, buồng khuê,
Vỡ lòng, học lấy những nghề nghiệp hay!

1239. Mặc người mưa Sở, mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì!

1579. Những là e ấp dùng dằng,
Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi.

1591. Những là cười phấn cợt son,
Đèn khuya chung bóng trăng tròn sánh vai.

1855. Cùng chung một tiếng tơ đồng,
Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm.
Giọt châu lã chã khôn cầm,
Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương.

Hay trong buổi Kim-Kiều tái-hợp:

3135. Động phòng dìu dặt chén mồi,
Bâng khuâng duyên mới ngậm ngùi tình xưa .
Những từ sen ngó đào tơ,
Mười lăm năm mới bây giờ là đây !

Hơn thế, tựa NHỮNG RUỒI của Phùng Thăng hay hơn cái tựa RUỒI của một dịch-giả khác nhiều lắm. RUỒI có thể là tựa của một cuốn sách môn sinh-vật-học. Nhưng NHỮNG RUỒI gợi nhắc đến từ đồ-ruồi-bu. Nó khác xa một trời một vực với cụm từ NHỮNG CON RUỒI. Bỏ mạo từ CON đi, NHỮNG RUỒI không còn là số nhiều nữa. Ruồi trong NHỮNG RUỒI không phải là danh-từ cụ thể, mà là trừu-tượng, là chữ chỉ chung những thứ có tính-cách giống như ruồi, dơ-bẩn, đáng khinh, đáng tởm. Trong văn nói thường-nhật của người Việt, người ta vẫn thấy những cách dùng như thế. Chẳng hạn như: Mưa dầm dề suốt ngày, đường phố ngập lụt, nhìn đâu cũng thấy những nước là nước. Hay là Trần học-giả quen dùng ngữ-pháp của Tây để đọc tiếng Việt mà không nhận thấy điều ấy chăng?

Trần học-giả cũng đã nêu ra những chữ sau đây mà ông khép tội Phùng Thăng là “không tránh được cái giọng lai căng, như khi dịch các chữ yeux morts(ton) regard de poisson mortcon mắt cá chết, cái nhìn cá chết. Thế nhưng cách dịch ấy lại làm chúng ta liên-tưởng đến con mắt cá ươn sắp sửa se mình của Nguyên Sa, mà Phùng nữ-sĩ có lẽ đã đi trước cả ông thi-sĩ Vốn dĩ là Hạt Cát ấy. Hay khi dịch chữ mouche a vianderuồi-ăn-thịt, thay vì là ruồi-nhặng. Đành rằng cái nghĩa thông-thường của mouche a viande là ruồi nhặng xanh, hay ruồi trâu, có khả-năng hút máu người hay trâu ngựa. Chữ mouche a viande ban đầu được dùng để chỉ giống ruồi hay bu trên thịt đã rữa-thối, trước khi nó biến thành nghĩa ruồi nhặng. Trả nó về cái nguyên-nghĩa của nó thì càng thú-vị chứ. Sao Sartre đã không dùng chữ đồng-nghĩa là mouche a merde, như Trần học-giả đã nhắc ra? Hay là Sartre có ý muốn ám-chỉ đến cái đám thần-dân bạc-nhược, yếu-hèn, sống mà như đã chết, thân-xác đã ung-thối, tâm-hồn đã chương-ình lên, làm mồi lôi-cuốn những con ruồi thích ăn thịt ấy? Mà nếu thế thì chữ ruồi-ăn-thịt của Phùng Thăng gợi lên đúng ý của Sartre, chứ không phài là lối dịch lai-căng như đã bị chỉ-trích. Ai dám quả-quyết là Sartre không có ý ấy? Mà dẫu là Sartre không có ý ám-chỉ điều ấy trong chữ mouche a viande, thì toàn vở kịch há chẳng đã nói lên điều ấy ư? Vả lại, dịch là ruồi-ăn-thịt thì nó có hại gì đến vở kịch?

Lại có những chỗ mà Trần hoc-giả cho là “lối dịch tối nghĩa” và đề-nghị sửa lại, như sau:

Xoay hướng sự hỗn loạn này để làm lợi ích cho trật tự đạo đức, há không đáng giá hơn sao? (Phùng Thăng)

Chi bằng biến tình trạng này trở nên một tình trạng có lợi cho trật tự đạo đức, há chẳng tốt hơn sao? (Trần Thiện Đạo)

Tôi thật chẳng thấy có gì là “tối-nghĩa” trong cả hai cách dịch, và cũng chẳng thấy gì đáng gọi là khác-biệt giữa những chữ “Xoay hướng sự hỗn loạn này… với “Chi bằng biến tình trạng này…, giữa “để làm lợi ích cho trật tự đạo đức với “trở nên một tình trạng có lợi cho trật tự đạo đức, giữa há không đáng giá hơn sao? với “há chẳng tốt hơn sao?

Ngoài những chỗ cho là “tối-nghĩa”, Trần học-giả cũng đưa ra các sơ sót cỏn-con của Phùng Thăng mà làm lớn chuyện lên, cho là dịch thiếu nghĩa, chẳng hạn như câu sau đây:

“Phần câu: qui va sur ses sept ans mà dịch là lên bảy, thì thiếu nghĩa, phải dịch là sắp tròn bảy tuổi, thì mới diễn hết ý của phần câu ấy” (trích nguyên văn lời Trần học-giả). Quả là va sur ses sept ans có nghĩa là gần bảy tuổi. Thế nhưng dịch như Trần học-giả là sắp tròn bảy tuổi cũng chưa hẳn là lột hết được cái hay của cụm từ qui va sur ses sept ans.

Mặt khác, có những lỗi mà Trần học-giả đã nêu ra rất chính-đáng. Chẳng hạn như trong câu “Enfant, j’aurais joué avec ses battants, je me serais arc-bouté contre eux…” mà Phùng Thăng đã dịch là “Thuở nhỏ, ta đã chơi đùa với những cánh cửa, ta chống đỡ chúng…” thì không đúng. Phùng Thăng đã sơ sót không để ý là động từ jouer ở đây dùng ở thể conditionel passé, và có nghĩa là nhẽ ra ta đã chơi đùa thay vì là ta đã chơi đùa – tương tự như trong tiếng Anh là I would have played (past unreal conditional) thay vì là I played – mà Trần học-giả đã đề nghị dịch là chắc ta đã chơi đùa. Hay là chữ aveuglantes nghĩa là làm chói mắt mà Phùng Thăng đã dịch lầm là đui mù. Trần học-giả cũng đã đúng khi vạch ra lỗi lầm của Phùng Thăng khi dịch câu “Il y a des hommes qui naissent engagés: ils n’ont pas le choix, on les a jetés sur un chemin thành ra Có những người vừa sinh ra là đã nhập cuộc: họ không có sự chọn lựa, người ta đã ném họ trên một con đường”, mà thật ra từ engagé ở chỗ khác có thể có nghĩa là nhập-cuộc, tham-dự, nhưng ở đây lại có nghĩa là bị trói tay.

Trên đây là một số ít trong rất nhiều điều, có nói thêm ra cũng chỉ dài-dòng, làm bận mắt độc-giả, mà học-giả Trần Thiện Đạo đã “bắt lỗi”, và dựa vào đó để lên tiếng hết mực chê-bai bản dịch của nữ-sĩ Phùng Thăng một cách thậm-tệ. Có thật là những “lỗi-lầm” ấy đã làm bản dịch NHỮNG RUỒIphản, sai ý” của nguyên-tác hay không? Tôi nghĩ là không. Ngay cả trong những chỗ học-giả Trần Thiện Đạo đã nêu ra thật sự là lỗi-lầm, thì những điều ấy đâu có làm người đọc hiểu sai những ý chính của Sartre về thuyết hiện-sinh.

Nguyên-nhân nào khiến Trần học-giả đã vạch-vòi, chê-bai, đả kích nữ-sĩ Phùng Thăng nặng-nề như vậy? Tôi không nghĩ ông là người có ác ý, với Phùng Thăng hay với ai khác, hay là người muốn lên mặt trưởng-thượng mắng-mỏ người dưới. Tôi không tin là thế. Tôi tin ông là một người tốt. Một người có tâm-tính, có tấm lòng hệt như viên thanh tra Javert trong Les Miserables. Hết-lòng vì công-vụ, sẵn-sàng đem hết khả-năng, quyền-lực ra để phục-vụ điều mà ông cho là công-lý, hòng bảo-vệ cho luật pháp, trừng-phạt những kẻ phạm tội. Công lý là công lý, dù nó có chà đạp lên lương-tâm, lẽ phải. Vây thì, dưới cái nhìn của học-giả Trần Thiện Đạo, nữ-sĩ Phùng Thăng đã phạm tội gì? Để hiểu được điều ấy đến ngọn-nguồn thì phải hiểu cá-tính của Trần học-giả, hiểu cái quan-niệm cứng-rắn, tuyệt-đối của ông về công-việc dịch sách. Ông là người có đầu óc tẩn-mẩn, tinh-kỉ như chính ông đã tự thú, và xem việc dịch-thuật là một sứ-mệnh khắt-khe, thiêng-liêng. Thái-độ cố-công, tận-tụy ấy là việc đáng ca-ngợi, cần-thiết phải có, của một người cầm bút tự-trọng. Thế nhưng mỗi nhà-văn, mỗi dịch-giả, hành-xử thái-độ ấy dựa theo cái quan-niệm riêng tư của mình, theo cái cảm-nhận riêng về cái đẹp, cái chân-thiện-mỹ của nghệ-thuật. Thái-độ thì cẩn-trọng như thế, còn quan-niệm của Trần học-giả về dịch-thuật ra sao? Ông nghĩ thế nào về vai trò của người dịch? Thế nào là một người dịch lý-tưởng theo học-giả Trần Thiện Đạo? Xin xem nguyên văn lời của ông như sau:

Vì dịch giả là kẻ đương nhiên tự nguyện làm một thứ nô lệ đặc thù. Nói cách khác, hắn chỉ tự do trung thành, truyệt đối [sic] trung thành, nghĩa là phải bám sát gót, đặt chân mình vào đúng dấu chân của tác giả, không chệch choạc, chệch đường, chệch hướng. Hệt một tấm kính phản chiếu dạng đứng trước mặt mình, hệt con khỉ mô phỏng động tác của tác giả. Không chỉ y chang dáng dấp bên ngoài mà còn cả nội tâm.”(2)

Tôi kính-trọng cái quan-niệm tuyệt-đối trung-thành ấy của ông. Nhưng câu hỏi đặt ra là trung-thành với cái gì? Mỗi người đọc một bài thơ, ngắm một bức tranh, xem một vở kịch, đều có những cảm-xúc riêng-tư khác nhau. Trung-thành là trung-thành với cái cảm-xúc ấy. Và từ đấy, dịch là công-việc diễn-tả lại cảm-xúc riêng-tư của mình qua một phương-tiện khác, bằng một ngôn-ngữ khác. Không thể nghĩ là ai khác cũng rung-động, cảm-xúc giống mình. Dịch vì thế không phải là nô-lệ, mà là sáng-tạo. Người dịch vì thế không thể chỉ là một con khỉ đứng trước gương.

Bùi Giáng từng tuyên-bố tất cả những bài thơ ông đã làm là dịch lại thơ Nguyễn Du, thơ Hồ Dzếnh. Và Nguyễn Du, Hồ Dzếnh cũng là dịch lại thơ của những người trước họ. Thi sĩ Vũ Hoàng Chương trong bức thư gửi tác-giả Võ Văn Ái, in trong lời tựa quyển NGUYỄN TRÃI SINH THỨC VÀ HÀNH ĐỘNG, khi nói về bài thơ của Nguyễn Trãi mà ông đã dịch sang tiếng Việt, ông đã viết: chuyển từ thơ Hán sang, chứ không phải là dịch nhé, xin nhớ cho, vì người khác thì dịch, Hoàng thì chuyển. Xem thế đủ biết Vũ Quân không chấp-nhận thái-độ làm con khỉ.

Đây là một đoạn văn khác, ngay trước đoạn văn trên, của Trần học-giả:

Nhưng chúng ta không thể vì vậy mà bỏ qua một khía cạnh chúng tôi cho là căn bản, làm nền cho mọi dịch phẩm thật sự hoàn hảo, nhưng lại ít khi được nhắc tới: sự đồng nhất tinh thần và bút pháp giữa dịch giả với tác giả.

Xin mời đọc đoạn văn sau đây của Saint-Exupéry trong tác phẩm LE PETIT PRINCE:

Le géographe est trop important pour flâner. Il ne quitte pas son bureau. Mais il y reçoit les explorateurs.

Mà Bùi Giáng đã dịch là: Nhà địa lý quan trọng lắm, đâu có phải rỡn đâu mà lang thang phôi pha tháng ngày đìu hiu đi dạo! Nhà địa lý không rời bàn giấy của mình. Ngồi tại phòng giấy mà tiếp kiến các nhà thám hiểm.

Chỉ từ một chữ flâner là đi dạo, mà Bùi tiên-sinh đã cho ra một tràng “đâu có phải rỡn đâu mà lang thang phôi pha tháng ngày đìu hiu đi dạo, nghe thật thú-vị cái giọng điệu của ông lão đang bận-rộn với quyển sách to tướng. Hai bút pháp không đồng nhất, hoàn-toàn khác nhau, mà hòa-hợp một cách diệu-vợi.

Công-việc dịch-thuật vì thế là một việc hết sức chủ-quan. Và người dịch một mặt phải trung-thành với nguyên tác, với cái mà hắn cảm nhận được, và một mặt phải được tự-do để chăm bón, vỗ về thương yêu, hòng tái tạo lại cái cảm-xúc của hắn. Dĩ-nhiên đây chỉ là quan-niệm của kẻ tiện-sinh này. Và các vị cao-nhân khác rất có thể lên án quan-niệm ấy là của những người les belles infidèles, tình lang phụ bạc, như Trần học-giả đã nói. Mà đúng lý ra phải dịch là tình nương mới phải chứ, thưa Trần học-giả. Les belles cơ mà! Và nói cho cùng, nếu đã quan-niệm là bút-pháp phải đồng-nhất, thì sao Trần học-giả lại dịch va sur ses sept anssắp tròn bảy tuổi. Phải dịch va sur ses sept ans sắp lên bảy chứ nhỉ, vì lẽ sur trên mà lị, chẳng lên thì lấy gì đòi ở trên? Đùa chút thế thôi, thế nhưng tôi lại còn nghe đồng vọng đâu đây một sắc-thái khác trong nguyên-văn. Tôi nghe qui va sur ses sept ans có thoáng ý-vị của cách nói ngót-nghét bảy tuổi trong Việt-ngữ. Sắp lên bảy là một cách diễn-đạt tuồn-tuột, nó chỉ thực-sự tương-đương với qui aura bientôt sept ans. Cách nói qui va sur ses sept ans lạ và hay ở chỗ đưa hai từ sur ses đứng cạnh nhau. Trần học giả có nghe ra hết những cung bậc của sur ses sept ans của Sartre không vậy? Ngôn-ngữ văn-học ngoài chuyện nói có nghĩa và nói đúng nghĩa ra, đáng lý còn phải cầu thêm âm-hưởng nữa chứ, mà đâu chỉ âm-hưởng không thôi, còn cầu mức cá-tính này, mức góc cạnh này, mức thanh-thú trong cách biểu-đạt này, muốn tinh-tế hơn nữa này, sẽ uyển-chuyển thêm lên thật nhiều nữa này, đa-dạng hơn, duyên-dáng hơn, để lộ ngữ-điệu của người nói hơn, khiến nhân-vật đa-chiều hơn, trầm-ngâm hơn, gây nhiều tiếng vọng trong tiềm-thức người nghe hơn, chứa đụng nhiều tầng ẩn-ngữ hơn, v.v. và v.v. Thơ hay mà đem dịch thành thơ hay là chuẩn-xác nhất. Thơ hay dịch thành văn xuôi chính-xác là lệch-lạc không thể lệch-lạc hơn. Mà văn xuôi của những tay viết cự-phách như Sartre, nó dùng chữ và ném câu có khi còn thâm-hậu công-lực thôi-xao hơn cả thơ. Kẻ học-trò ham đọc sách này càng học càng thấy mình nhỏ bé mà trời xanh thì vòi-vọi. Vài lời về việc dịch-thuật. Trong một dịp khác, kẻ tiện-sinh này xin được nói nhiều hơn về quan-niệm dịch thơ văn.

Xin trở lại với NHỮNG RUỒI của Phùng Thăng. Bản dịch ấy hẳn là có một số khiếm-khuyết. Và bài phê-bình của Trần học-giả đã nêu ra được một số những lỗi ấy. Nhưng có những lỗi nhỏ nhặt như thiếu phụ trẻ thì chữ trẻ là thừa vì chữ thiếu đã hàm nghĩa trẻ rồi, thì cái lỗi ấy đâu có đến nỗi mà Trần học-giả phải lớn tiếng là vừa phản vừa diệt. Trong văn viết cũng như văn nói chúng ta vẫn thấy những chữ trùng-lặp như ngày sinh nhật, người quân tử (ăn chẳng cầu no, ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch – Nguyễn Công Trứ, Hàn Nho Phong Vị Phú), v.v. Mà ngay cả Trần học-giả cũng đã dùng chữ trùng-lặp như thế, khi ông viết là giấy khống chỉ (giấy đã ký tên nhưng còn trống, tỉ dụ như a blank-check), thì chữ chỉ đã có nghĩa là giấy.

Tuy không ai có thể phủ-nhận mối quan-tâm của Trần học-giả về tình-trạng mà ông gọi là “dịch loạn” ở trong nước, về sự thành-tâm của ông khi muốn báo-động về sự cẩu-thả của một số văn dịch trên văn-đàn, báo-chí. Nhưng giá như mà 50 năm về trước, Trần học-giả gửi thư riêng cho nữ-sĩ Phùng Thăng thì chắc người đã rất hoan-hỉ sửa lại một số chỗ để lần tái-bản sau được hoàn-chỉnh hơn. Chứ mang những chuyện như câu nói đùa của nhà-văn Hoàng Đạo(3) ra để chế-nhạo, châm-biếm, mà so sánh với văn dịch của Phùng Thăng, thì thật không phải. Còn việc dịch loạn trên văn-đàn, báo-giới hôm nay, thì chú tâm vào những tác-phẩm hôm nay có phải hơn là lôi chuyện ngày xửa ngày xưa ra mà nói không!

Thẳng thắn phê-bình, nêu ra những lỗi lầm, dù chưa chắc đó có đúng thật là lỗi-lầm hay không, thì quả là trách-nhiệm thật-sự của người phê-bình. Nhưng những lời chỉ-trích của Trần học-già loại như “cô thích đua đòi dùng chữ thời thượng”, hay buộc tội Phùng Thăng là ỷ vào việc “được độc giả tin cậy qua bản dịch Câu Chuyện Của Dòng Sông xuất bản trước đây” mà “khinh thường độc giả”, đâm ra “xem sự tín nhiệm của độc giả như một thứ giấy khống chỉ cho phép cô tùy tiện muốn dịch sao thì dịch” thì lại là những lời đả kích tư-cách của người khác, thật là điều không nên làm, không được phép có mặt trên văn-đàn của những người mệnh-danh là trí-thức.

Thế-hệ chúng tôi lớn lên trong chiến-tranh, thiếu-thốn sách-vở, lại không có cơ-hội để phát-triển khả-năng ngoại-ngữ, ngoại trừ một thiểu-số rất nhỏ do thiên-tư bẩm-sinh vốn thông-minh mà có, hòng tiếp-thu với văn-học nước ngoài. Công-việc của những người như hai chị em nữ-sĩ Phùng Khánh, Phùng Thăng là đã tạo cơ-hội cho chúng tôi được đọc những tác-phẩm như Câu Chuyện Của Dòng Sông, Bắt Trẻ Đồng Xanh, v.v. trong thập niên 60, thật là việc làm có ích-lợi cho sự phát-triển tâm-linh của chúng tôi. Cho dù sau này đã ở nước ngoài, có cơ-hội đọc bằng ngoại-ngữ, hiểu thêm được đôi ba điều mà bản dịch thiếu-sót, chúng tôi vẫn quý-trọng các bản dịch ấy, không phải chỉ vì những tình-cảm lưu-luyến thuở thanh-xuân, mà còn vì đọc những bản dịch ấy bằng tiếng Việt có những cái thú-vị khác với khi đọc nguyên-tác. Các bản dịch ấy không hề là infidèles sans le savoir đối với nguyên tác, thưa Trần học-giả, hay theo lối nói của Tố Như tiên-sinh, yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau, mà là chân-dung từ một góc nhìn khác, dù là không khỏi có đôi phần tì-vết, của cùng một giai-nhân đáng yêu, đáng quý.

Cách đây mươi hôm, kẻ tiện-sinh này nằm mơ thấy Phương Chứng-đại sư, phương-trượng chùa Thiếu-Lâm. Hôm sau lại được một người bạn tâm-giao là Vân Trình Lữ Nhạc gửi cho bài hỏi-đáp Lang Da hòa-thượng thật là thâm-thúy, soi sáng cái gọi là bản-chất của sự-vật, cái mà người đời vẫn thường gọi chân diện mục. Thiện tai, thiện tai!

Xin được gửi tặng lại Trần-quân, như là lời tạ-tội nếu có điều gì trong bài viết này đã làm ông phiền lòng.

昔有問琅琊和尚者。

Tích hữu vấn Lang Da hoà thượng giả:

Xưa có kẻ ghé hỏi Lang-Da hoà-thượng.

問:清淨本然,云何忽生山河大地。意旨如何?

Vấn: Thanh-tịnh bổn-nhiên, vân hà hốt sinh sơn hà đại địa. Ý chỉ như hà?

Hỏi: Về căn-bản tự-nhiên, vạn-vật vốn là thanh-tịnh, mây trắng đâu ra mà đùn nên nước nước non non?

曰:大似漁船出海。

Viết: Đại tự ngư thuyền xuất hải.

Rằng: To như thuyền chài ra biển.

進云:此意如何?

Tiến vân: Thử ý như hà?

Sấn đến bảo: Thế là thế nào?

曰:誰知遠煙浪別有好商量?

Viết: Thuỳ tri viễn yên lãng, Biệt hữu hảo thương lường? 

Rằng: Sóng xô nước rút miền thăm-thẳm, Tiếng lại lời qua cuộc biển dâu!

問:如何是過去佛家風?

Vấn: Như hà thị quá khứ Phật gia phong?

Hỏi: Cốt-cách Phật đời xưa thế nào?

曰:園林寂寞無人管,李白桃紅自在華。

Viết: Viên lâm tịch mịch vô nhân quản, Lý bạch đào hồng tự tại hoa.

Rằng: Vườn tược im-lìm chi sá giữ, Đào hồng mận trắng thản-nhiên đơm.

問:如何是現在佛家風?

Vấn: Như hà thị hiện tại Phật gia phong?

Hỏi: Cốt-cách Phật đời nay thế nào?

曰:白水家風迷曉燕,紅桃僊苑醉春風。

Viết: Bạch thuỷ gia phong mê hiểu yến, Hồng đào tiên uyển tuý xuân phong.

Rằng: Nước tuôn cửa ngỏ đàn én lạc, Hồng nở hang sâu ngọn gió say.

進云:如何是未來佛家風?

Tiến vân: Như hà thị vị lai Phật gia phong?

Sấn đến bảo: Cốt-cách Phật đời sau thế nào?

曰:海浦待潮天欲月,漁村聞笛客思家。

Viết: Hải phố đãi triều thiên dục nguyệt, Ngư thôn văn địch khách tư gia. 

Rằng: Phố biển triều dâng trăng dợm mọc, Xóm chài sáo vẳng khách toan nghe.

進云:如何是和尚家風?

Tiến vân: Như hà thị Hoà thượng gia phong?

Sấn đến bảo: Cốt-lõi hoà-thượng nay thế nào?

曰:破衲擁雲朝喫粥,古瓶瀉月夜前茶。

Viết: Phá nạp ủng vân triêu khiết chúc, Cổ bình tả nguyệt dạ tiên trà.

Rằng: Áo rách mây tươm mai húp cháo, Ấm mòn trăng rỉ tối đun trà.

問:靈雲悟桃華時如何?

Vấn: Linh vân ngộ đào hoa thời như hà?

Hỏi: Mây thiêng lầm phải hoa đào thì sao?

曰:自開自謝隨時節,問著東君總不知。

Viết: Tự khai, tự tạ tuỳ thời tiết, Vấn trước Đông-Quân tổng bất tri.

Rằng: Xuân về nở nụ, thu hoa rụng, Đào đất vạch trời phỏng ích chi!

進云:殺人不眨眼時如何?

Tiến vân: Sát nhân bất biếm nhãn thời như hà?

Sấn đến bảo: Giết nhau chẳng chớp mắt thì sao?

曰:通身是膽。

Viết: Thông thân thị đảm.

Rằng: Trong thân có mật.

問:大修行底人,還落因果也無?

Vấn: Đại tu hành để nhân, hoàn lạc nhân quả dã vô?

Hỏi: Tu-hành lâu năm song vẫn mắc vòng nhân-quả, có hay chăng?

曰:口似血盆呵佛祖,牙如劍樹嘴禪林。一朝死入阿鼻獄,笑殺南無觀世音。

Viết: Khẩu tự huyết bồn a Phật tổ, Nha như kiếm thụ chuỷ thiền lâm. Nhất triêu tử nhập A-Tỳ ngục, Tiếu sát: “Nam vô Quán-Thế-Âm”! .

Rằng: Ngậm nhơ phun Phật nhân khai khẩu, Giơ vuốt cào Thiền thú động tâm. Nực cười sáu nẻo A-Tỳ ngục, Miệng niệm liên-hồi Quán-Thế-Âm.

問:白鷺下田千點雪,黃鶯樹上一枝華。時如何?

Vấn: Bạch lộ hạ điền thiên điểm tuyết, Hoàng oanh thụ thượng nhất chi hoa. Thời như hà?

Hỏi: Đồng quạnh cò về muôn đốm tuyết, Cây cao chim đỗ một vầng dương. Thế thì sao?

曰:錯。

Viết: Thác.

Rằng: Sai.

進云:大尊德作麼生?

Tiến vân: Đại tôn đức tác ma sinh? 

Sấn đến bảo: Đại-Đức định đầu-thai cửa nào?

曰:白鷺下田千點雪,黃鶯樹上一枝華。

Viết: Bạch lộ hạ điền thiên điểm tuyết, Hoàng oanh thụ thượng nhất chi hoa.

Đáp: Đồng quạnh cò về muôn đốm tuyết, Cây cao chim đỗ một vầng dương.

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài, Lời quê góp nhặt dông dài. Xin chấm hết. A Di Đà Phật.

Tô Thẩm Huy

Houston, Tiết Đại Thử, Bính Thân, 2016

______________________________________________________________________________

Chú thích:

1. Xuân Diệu: Nhưng, cũng lạ! nỗi tình đau khổ ấy, Ðể riêng tây, như có chỗ không đành.

2. Trần Thiện Đạo, Dịch loạn, Văn Nghệ số 16 ngày 21-4-2012. Hoặc có thể tìm thấy ở http://vanchuongplusvn.blogspot.com/2012/04/tran-thien-ao-dich-loan.html

3. Parlez-moi d’amour, Redites-moi des choses tendres: Hãy nói với anh cái ái tình, Lại nói với anh cái đồ mềm. Từ Chủ Nghĩa Hiện Sinh Tới Thuyết Cấu Trúc, T.T. Đạo, NXB Văn-Học, trang 104.

Comments are closed.