Benjamin Péret (1899-1959) là nhà thơ đầu tiên của phong trào Siêu thực Pháp, bắt đầu vào những năm 1920. Ông là một nhân vật nổi bật và có ảnh hưởng trong giới Siêu thực. Sau khi chuyển đến Paris vào năm 1920, ông gặp André Breton. Péret trở thành nhà thơ của phong trào văn học và nghệ thuật Dada, phong trào này ra đời từ sự vỡ mộng mà nhiều người cùng thế hệ với ông cảm thấy do trải nghiệm của họ trong Chiến tranh. Tập thơ đầu tiên của Péret, Le Passenger du Transatlantique, được xuất bản vào năm 1921 và ông tiếp tục xuất bản các tập thơ trong suốt bốn thập kỷ tiếp theo. Năm 1922, theo sự dẫn dắt của Breton, ông tách khỏi phong trào Dada để chuyển sang chủ nghĩa Siêu thực. Ông đồng biên tập tạp chí La Révolution Surréaliste của Breton từ năm 1924 đến năm 1925. Péret được các nhà văn theo chủ nghĩa Siêu thực vô cùng ngưỡng mộ vì sự trung thành và kiên định của ông với những lý tưởng văn học, đặc biệt là trong thực hành “viết tự động”, mà Péret có lẽ là nhà thơ thành công nhất. Những bài thơ của ông, vẫn nhất quán trong suốt bốn thập kỷ, được đặc biệt chú ý vì tính vui tươi và hài hước. Mary Ann Caws, người đã viết nhiều về Péret và các nhà thơ siêu thực Pháp, mô tả tính cách của Péret là “lập dị” và lưu ý rằng: “Là một con người, Péret đã gây ấn tượng sống động. Một số chi tiết nổi bật trong tất cả các lời kể của ông – rằng ông đeo những chiếc cà vạt lòe loẹt, có tiếng cười khàn khàn và sự căm ghét hoàn toàn không thể ngăn cản đối với các giáo sĩ, nhổ nước bọt vào họ trên đường phố.” Thơ của Péret được chú ý vì tính nhất quán, tuân thủ các nguyên tắc của phong trào Siêu thực. Vì vậy, Elizabeth R. Jackson nhận xét, “Người ta không thể nói chính xác sự phát triển trong suốt nhiều năm” về tác phẩm văn học của Péret, mà “chỉ về sự tiến hóa nhẹ nhàng”. Trong Le Passenger du Transatlantique, tập thơ đầu tay của Péret, các bài thơ đặc biệt vui tươi và hài hước. Các tập Immortelle Maladie (1924) và Sleep, Sleep in the Stones (1926) chịu ảnh hưởng của lý thuyết tâm lý học, sử dụng hình ảnh mộng mơ và có tông màu tối hơn.
Benjamin Péret là nhà thơ trung thành nhất của chủ nghĩa Siêu thực vì ông không bao giờ sai lầm với lý thuyết của mình; ông là người duy nhất luôn cảm thấy thoải mái khi viết tự động. Người ta nói rằng ông đã ngồi hàng giờ trong những quán cà phê ồn ào để viết nguệch ngoạc từ trang này sang trang khác và sửa chữa rất ít. Trong cách viết tự phát của mình, hình ảnh nối tiếp hình ảnh mà nhà thơ không hề nỗ lực rõ ràng. Người đọc không ý thức được sự căng thẳng hay cường điệu, mà chỉ ý thức được một dòng hình ảnh nhất quán với một thế giới riêng của nhà thơ. Người đọc sẽ cảm thấy bớt xa cách với Péret, nhà thơ có vũ trụ dễ bước vào hơn.
Một lý do khiến thơ Péret dễ tiếp cận là ở chỗ, mặc dù có vẻ ngoài khó hiểu nhưng chúng thực sự có cấu trúc, đôi khi bên ngoài, đôi khi bên trong. Tính quy luật bên ngoài rõ ràng nhất của bài thơ là hình thức câu logic của nó. Bài thơ cũng có thể được xây dựng dựa trên những âm thanh tương tự hoặc được kết hợp với nhau theo một phong cách cụ thể. Nhiều bài thơ của Péret đã hoàn chỉnh và không thể tiếp tục; những lời cuối cùng chắc chắn là cuối cùng. Và sau một nhóm hình ảnh u ám, người ta thấy cảm giác vui vẻ. Những câu chuyện của Péret, giống như những câu chuyện phi siêu thực, bị ràng buộc vào một khuôn khổ ít nhất có thể nhận ra được bởi các sự kiện; và chúng không thể đảo ngược được. Mọi chuyện xảy ra, thời gian trôi qua, và cái kết rõ ràng đã khác với lúc đầu.
Vài ví dụ về thơ Benjamin Péret: Bài thơ Cầu thang trăm bậc (L’escalier aux cent marches) thể hiện hình ảnh siêu thực và mơ mộng đặc trưng của phong trào tiên phong những năm 1920 và 1930. Nó gợi lên cảm giác xa lạ và phân mảnh thông qua các cụm từ trừu tượng và rời rạc, phản ánh bản chất hỗn loạn và phân mảnh của thời đại. Bài thơ thiếu cấu trúc tường thuật thông thường, dựa vào cách tiếp cận dòng ý thức nắm bắt được những suy nghĩ thoáng qua và rời rạc của người nói.
So với các tác phẩm khác của Péret, bài thơ này thể hiện giọng điệu vui tươi và phi lý tương tự, sử dụng phép ẩn dụ không quy ước và sự đối lập bất ngờ. Sự ngắn gọn của bài thơ góp phần tạo nên hiệu ứng phân mảnh và mất phương hướng của nó. Thông qua việc sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh không theo quy ước, và tập trung vào tiềm thức và mơ mộng, bài thơ thách thức các quan niệm truyền thống về thực tế và ý nghĩa – đặc trưng của phong trào Siêu thực.
Bài thơ Chế tạo chân tay (Making Feet And Hands) trình bày một bức tranh siêu thực và rời rạc về hình dạng con người và những tương tác của con người với thế giới. Hình ảnh của bài thơ không theo quy ước, đối lập giữa cái tầm thường và trừu tượng theo những cách không ngờ tới. Ví dụ, đôi mắt được nhân cách hóa thành một thực thể tự chủ, trong khi những chiếc thang trở nên mềm mại như trẻ sơ sinh. Bài thơ không có cốt truyện rõ ràng, thay vào đó, nó khám phá một dòng ý thức đi sâu vào tiềm thức và cõi vô lý. Sự khác biệt này so với thơ ca thông thường tạo ra cảm giác mất phương hướng và thách thức người đọc tham gia vào bài thơ ở cấp độ phi lý trí. So với các tác phẩm khác của tác giả, bài thơ này thể hiện sự vui tươi và thử nghiệm tương tự với ngôn ngữ. Péret khám phá phong trào Siêu thực và bài thơ này thể hiện tính thẩm mỹ đó, kết hợp hình ảnh giống như giấc mơ với lời phê phán các chuẩn mực xã hội. Bài thơ đi chệch khỏi các xu hướng chủ đạo của thời đại thường nhấn mạnh vào sự rõ ràng và lý trí. Thay vào đó, nó bao gồm sự rời rạc và không thể đoán trước, phản ánh tinh thần nghệ thuật của nền văn học tiên phong xuất hiện vào đầu thế kỷ 20.
Dưới đây giới thiệu 5 bài thơ của Benjamin Péret, do Nguyễn Man Nhiên dịch từ nguyên tác Pháp ngữ Je ne dors pas; Clin d’oeil; L’escalier aux cent marches; Parle-moi; và từ bản Anh ngữ Making Feet And Hands.
ANH KHÔNG NGỦ
Hãy nói anh biết sự phản chiếu của màu xanh cô-ban
tại sao đàn quạ lại bay quanh em
như hòn than ôm lấy ngọn lửa bằng cách nuốt chửng
ớt
người luôn để lại những quả trứng đỏ trên môi em
Thánh George
đi đến phố Pigalle
đu võng ở quảng trường
vừa khít như viên đạn vào ngực với những quả bóng
trông rất giống một con quay hồi chuyển
trông giống Diêm Vương đang rũ bỏ Nữ Thần Mùa Xuân trong chiếc khăn tay của hắn
biến mất ở đường chân trời giống như quần đảo Eo Biển
từ đôi mắt em
gần Eo mũi em
đó là ánh trăng trong hầm mà anh
ăn trộm
hy vọng tìm thấy miệng con sói có hình dạng
không vết hằn trên ghế nha sĩ
không có lưới để bắt cá đầu muỗi
không có muỗi ngủ như đồng hồ hẹn giờ ở góc
rừng
không có thời gian gặm nhấm bộ xương của tổ tiên anh và
kẻ khác
giống tép tỏi trong sốt mayonnaise
thực sự
Tối nay
miễn là chúng ta rắc lên nó những cánh hoa hạnh nhân đắng
một không khí tuyệt vời của rượu vang mới
một chút a-xit
một chút dịu dàng
chua và ngọt
như ngọn núi lửa trẻ phun trào
dung nham sẽ tái sinh khuôn mặt em mãi mãi.
NHÁY MẮT
Những đàn vẹt bay qua đầu khi anh nhìn thấy em
từ phía trước
và bầu trời nhờn có vệt sét xanh
người theo dõi tên em theo mọi hướng
Rosa để kiểu tóc bộ tộc da đen đi lạc trên cầu thang
nơi cặp ngực sắc nét của phụ nữ nhìn qua con mắt
đàn ông
Hôm nay anh nhìn qua mái tóc em
Rosa ngọc mắt mèo buổi sáng
và anh thức dậy trong đôi mắt em
Rosa áo giáp
và anh nghĩ đến bộ ngực bùng nổ của em
Rosa mặt hồ ếch phủ xanh
và anh ngủ trong rốn biển Cát-xpi của em
Rosa hoa tầm xuân trong cuộc tổng đình công
và anh lạc giữa đôi vai em của dải Ngân hà do thụ tinh
sao chổi
Rosa hoa nhài trong đêm giặt
Rosa từ ngôi nhà ma ám
Rosa rừng đen tràn ngập tem bưu chính xanh xanh
Cánh diều Rosa bay trên vùng đất hoang nơi những đứa trẻ chơi trò
đánh giặc
Rosa khói xì gà
Bọt biển Rosa ánh pha lê
Rosa
CẦU THANG TRĂM BẬC
Đại bàng xanh và quỷ thảo nguyên
trong chiếc xe ngựa cuối cùng ở Berlin
tự vệ
những tâm hồn lang thang
Quán Moulin Rouge ở trường ăn xin
chờ đợi cậu sinh viên nghèo
Với đúng Thợ săn biết cách săn mồi
một ngày trả lương
Thợ săn biết cách săn mồi
như bố suy đoán
với nụ cười
Bằng thanh kiếm bằng thanh kiếm bằng thanh kiếm
con hổ biển mơ về hạnh phúc
báo thù
Trinh nữ mặc áo vét sông Hằng khóc Sự phù phiếm
khi xác thịt khuất phục
Dừng lại, nhìn và lắng nghe
con gà tây nổi tiếng dành cả ngày vui
xoay quanh trong một vòng tròn mê hoặc
với sự can đảm của sư tử
Ngài Thiếu tá
Paris của tôi
chú tôi đến từ Mỹ
trái tim và đôi chân tôi
nô lệ sắc đẹp
ngưỡng mộ những cuộc chính phục của Nora
chúng tôi yêu cầu một người đánh máy
cho tên cướp biển đen
Không, không thể được
người phụ nữ mặc quần áo đó là Góa Phụ Vui Vẻ
trở thành con mồi của gió
Bởi vì Bà tỷ phú Không Xấu Hổ
trong vỏ bọc của người khác
đang chạy đua một cách điên rồ
Con trai bà đã đúng
Viên tuần tra 129 đội
mũ rơm Ý
át chủ bài của những nài ngựa
đang bỏ rơi cô gái phiêu lưu
để lấy người phụ nữ
Đó là Trăng tháng Tư đuổi theo trâu
đến Nhà thờ Đức Bà Paris
Ôi người đàn ông với đôi mắt sáng
bất khuất
muốn phán xét anh theo luật sa mạc
nhưng những tình nhân với tâm hồn trẻ thơ đã ra đi
một hành trình đẹp đẽ
NÓI VỚI TÔI
Đen như khói, đen như thú, đen đen
hẹn gặp nhau giữa hai đài tưởng niệm chiến tranh
có thể nghe lọt tai tôi
nơi vang vọng giọng nói ma quái của mi-ca biển
nhắc mãi tên em
trông không giống nhật thực
rằng tôi tin vào chính mình khi em nhìn
một con chim sơn ca trong tủ lạnh em mở cửa
hy vọng nhìn thấy một con chim én dầu thoát ra
bốc cháy
nhưng từ chim sơn ca mùa xuân sẽ sinh ra nguồn dầu lửa
nếu em muốn
như một con én
muốn mùa hè chơi nhạc của bão tố
và biến nó thành một con ruồi
ai mơ thấy mạng nhện đường
trong một tấm kính mắt
đôi khi xanh như sao băng phản chiếu từ quả trứng
đôi khi xanh lá như dòng suối rỉ ra từ chiếc đồng hồ
CHẾ TẠO CHÂN TAY
Mắt đứng lên mắt nằm xuống mắt ngồi
Tại sao lại lang thang giữa hai hàng rào làm bằng lan can cầu thang trong khi những chiếc thang trở nên mềm mại
như những đứa trẻ sơ sinh
như những người lính Bắc Phi mất quê hương cùng đôi giày của họ
Tại sao lại giơ tay lên trời khi bầu trời
đã tự nhấn chìm mình mà không có vần điệu hay lý do
để giết thời gian và để ria mép mọc dài
Tại sao mắt tôi lại ngồi xuống trước khi đi ngủ
vì yên ngựa làm cho lừa đau
và bút chì gãy theo cách khó ngờ nhất
suốt thời gian
trừ những ngày dông bão
khi chúng gãy theo đường ngoằn ngoèo
và những ngày tuyết rơi
khi chúng xé toạc áo len của mình
Nhưng cặp kính cũ kỹ đã hoen ố
hát những bài hát khi nhặt cỏ cho mèo
Những chú mèo đi theo đám rước
mang cờ và cờ hiệu
Đuôi cá bắt chéo trái tim đang đập
cổ họng thường xuyên nhô lên hạ xuống bắt chước biển xung quanh
và con cá xoay quanh chiếc quạt gió
Cũng có những bàn tay
dài trắng với móng xanh tươi
và những khớp ngón của sương
lông mi rung rinh nhìn bướm
buồn bã vì ngày đã phạm sai lầm trên cầu thang
Cũng có những đôi tình nhân tươi như nước chảy
nhảy lên nhảy xuống trong thung lũng
vì họ được nắng chạm vào
Họ không có râu nhưng đôi mắt trong veo
họ đuổi theo chuồn chuồn
không để ý đến những gì mọi người sẽ nói
…
Artwork: David M. Kessler