– Tên khai sinh : Nguyễn Đình Dũng.
– Sinh tại Nghệ An, Việt Nam.
– Nhà thơ, dịch giả.
– Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
– Hội viên Hội Nhà Văn Ba Lan.
– Tiến sĩ Vật lí Viện Hàn lâm Khoa học Ba Lan.
– Hiện sống và làm việc tại Warszawa, Ba Lan.
Tác phẩm văn học chính:
– Tiếng vọng (thơ, in song ngữ Việt Nam – Ba Lan, nhà xuất bản Oficyjna, Warszawa Ba Lan, 2004).
– Đợi (thơ, nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà-nội, 2005).
– Zatoulana Pisen (thơ tiếng Tiệp do nhà thơ, dịch giả Vera Kopecka dịch, nhà xuất bản Bromov, Czech, 2008).
– Chiều rơi trên sóng – Evening descends on waves ( thơ, in song ngữ Việt – Anh, nhà xuất bản Hội Nhà Văn, Hà Nội, 2010)
– Tuyển tập Thơ Việt Nam từ thế kỉ thứ 11 đến thế kỉ 19 (bằng tiếng Ba Lan, dịch cùng Pavel Kubiak, nhà xuất bản IBIS, Warszawa, Ba Lan, 2010).
– Przemija życie…(Life passes on…) (thơ, in song ngữ Ba Lan – Anh, nhà xuất bản Temat, Ba Lan, 2013),
– Tuyển tập Thơ Việt Nam từ 1932 đến 1941 (bằng tiếng Ba Lan, dịch cùng Pavel Kubiak, nhà xuất bản Temat, Ba Lan, 2015).
– Tháng ngày…(Et la Vie S’en va) Thơ, song ngữ Việt – Pháp , do nhà thơ, dịch giả Athanase Vantchev de Thracy dich, nhà xuất bản Institut Culturel de Solenzara Paris , 2016
Giải thưởng Văn học:
– Thơ hay về Mùa Thu do Hội Nhà Văn Ba Lan trao năm 2004.
– Giải thưởng về Thơ và những hoạt động Văn học do UNESCO Ba Lan trao 2006.
– Công dân Danh dự vùng Krasne, quê hương Đại Thi hào Ba Lan Zygmunt Krasinski.
– Hai giải nhất (của ban Giám khảo và của công chúng) cuộc thi Marathon Thơ trong “Liên hoan thơ lần thứ năm Các nước có chung biên giới với Ba Lan” tại thành phố Rzeszow 6-2008.
– Hai “Cành Nguyệt quế Lớn” về thơ và dịch thơ tại Liên hoan Văn học Quốc tế Galicja Ba Lan năm 2009 và 2011.
– Kỉ niệm chương “Vì Sự nghiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam” do Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam trao tặng tháng 2 năm 2010.
– Giải thưởng Văn học mang tên Klemens Janicki về toàn bộ sáng tác văn học và sự đóng góp vào nền Văn hoá châu Âu, năm 2013.
– Huân chương danh dự về sự đóng góp cho nền Văn hoá Ba Lan do Bộ Văn hoá và Di sản Quốc Gia Ba Lan trao tặng năm 2013.
– Giải thưởng về Thơ và các hoạt động Văn học của UNESCO Ba Lan trao 2016.
Lâm Quang Mỹ tiêu biểu cho trường hợp hội nhập thành công vào xã hội mới trong khi không ngừng mang vác trên vai gánh nặng của quê hương.
Anh viết thơ ngắn, chỉ thỉnh thoảng mới có bài dài, về nhiều chủ đề khác nhau, từ tình yêu đến lòng nhớ nhà, trách nhiệm xã hội. Thơ tự do của anh không đi quá xa quy luật vần điệu cổ điển. Bài thơ có niềm ngạc nhiên, sự vui thú đời thường được chọn lọc cẩn thận, giữa những hình ảnh được dựng nên bởi ngôn ngữ trong sáng. Anh làm việc và sống lâu ở Ba Lan, sinh hoạt trong môi trường văn học của quốc gia định cư, vì vậy không ít thì nhiều thơ châu Âu, thơ Ba Lan đã ảnh hưởng đến anh. Đó là loại ngôn ngữ trữ tình, tình cảm, giàu yếu tố tâm linh. Nhờ thế, thơ anh dễ hiểu và có thể làm rung động người đọc; đôi khi có tính hài hước và châm biếm, mặc dù đó không phải là đặc tính chủ yếu. Anh tìm thấy sự tương thông và tiếng dội xuyên qua biên giới của các nền văn hóa. Anh quan tâm đến số phận, những xung đột, những bi kịch, và sự thăng hoa trong đời sống. Nhiều bài thơ có âm hưởng như bài hát hay vở kịch nhỏ. Anh diễn tả trong thơ những mối quan tâm sống động, tình yêu, sự cầu nguyện, như một người tin rằng thơ có thông điệp.
Cũng như đời sống của một người lưu vong chia đôi giữa đất nước nguồn cội và quê hương thứ hai, giữa quá khứ và hiện tại, giữa khổ đau thân mật và hạnh phúc xa lạ, thơ Lâm Quang Mỹ bộc lộ nỗi xao xuyến không bao giờ rời bỏ anh giữa hình thức và nội dung, giữa ngôn ngữ và nhạc điệu, giữa lòng tin yêu cuộc sống và những buồn bã lo âu nén lại. Đọc Lâm Quang Mỹ, cần đọc chậm, sống trong những bối cảnh của bài thơ, lúc ấy bạn sẽ nghe được những câu chuyện.
Lâm Quang Mỹ là một trong những tiếng nói của trí thức người Việt Đông Âu quan tâm đến tình hình đất nước và là một người hoạt động văn học sôi nổi trên quê hương thứ hai.
Trên trang mạng của mình, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, bạn thân và đồng hương của Lâm Quang Mỹ, gọi đùa anh là “ngài đại sứ văn học của Việt Nam tại Ba Lan”.
Văn Việt trân trọng giới thiệu.
TÔI VÀ THƠ TÔI
Đôi khi thơ tôi
như những sợi gió mỏng manh
còn sót lại sau từng cơn bão
vẫn gợi lên cảnh hoang tàn đổ nát.
Đôi khi thơ tôi
như đứa trẻ thơ
hồn nhiên vừa đi vừa hát
thấy của rơi bên đường không dám nhặt.
Còn tôi như chiếc lá khô cuối thu
gió đưa lạc về lối cũ
không biết buồn hay vui…
HOÀNG HÔN
Mặt trời trăng trối với ráng hồng,
Dòng nước xanh sẫm lại.
Nỗi nhớ trào thinh không.
Bên rừng kia tiếng ai vọng lên tha thiết
như chất đầy cả thế kỉ chờ mong.
Trên sườn núi vài ánh vàng sót lại.
Lạc tiếng chim khắc khoải gọi đàn.
Lũ cò trắng sải cánh bay uể oải
xa mờ dần giữa thế giới màu than.
Và gượng gạo núi bò thấp xuống.
Im lặng trùm lên, chờ đêm tan…
KHỐI TÌNH
Vệt nắng chiều vương nương bờ cỏ.
Cảm xúc chiều vương nương ý thơ.
Trăng nương mây bạc. Diều nương gió.
Tình treo như một khối bơ vơ
MẸ VÀ QUÊ
Cái-chảo-Quê rang bằng lửa gió Lào,
Tấm phản gỗ nóng quăn vỏ đỗ.
Đòn gánh bỏng vai tan buổi chợ,
Mồ hôi lưng Mẹ áo khô dòn.
Giếng làng chắt, một nửa gầu là cát.
Phần đục Mẹ uống rồi phần trong để cho con!
LÁ CỎ
Nhiều khi ta là lá cỏ
Dập dờn xanh mặt nước hồ
Nhiều khi ta là lá cỏ
Nổi chìm bao đợt sóng xô!
Nhiều khi ta là lá cỏ
Uống mưa suốt cả đêm dài
Nhiều khi ta là lá cỏ
Khát khô chờ giọt sương mai!
Nhiều khi ta là lá cỏ
Đung đưa dưới ngọn gió trời
Nhiều khi ta là lá cỏ
Nát nhàu dưới dấu chân người!…
NÀO …
Phương trời nào từng say
Bàn tay nào vẫy gọi
Bóng chiều nào từng lắt lay
Tâm trí nào từng u tối!
Con tim nào từng tội lỗi
Tháng ngày nào từng u mê
Mịt mùng nào sương khói
Nỗi niềm nào tái tê!
Con đường nào từng qua
Giấc mơ nào cạm bẫy
Bước chân nào từng run rẫy
Kỉ niệm nào từng xót xa!
Dòng đời nào trôi qua
Thuyền Tình nào neo lại
Nhớ thương làm Bến Đợi
Để Ước Mơ quay về
Phượng đỏ nào say nắng hè
Đào phai nào hờn đông lạnh
Vần thơ nào chắp cánh
Hương đời nào bay xa…
BA MƯƠI NĂM
Thân gửi các bạn cùng sang
Ba Lan du học khóa 1965.
Rời Đất nước một chiều thu Hà nội,
con tàu đưa ta tới chân trời xa…
Tạm biệt Tổ quốc nghèo
(nhưng giàu những lời ca)
để ước mơ trải dài theo con đường sắt…
Những huyền thoại trong sách học trò
đang hiện lên trước mặt:
Trung Hoa bao la đẹp như khúc Đường thi.
Bai-can mênh mông, bát ngát Xi-bê-ri.
Mat-xcơ-va choáng ngợp hồn thơ dại…
Và Ba-lan, nơi ta dừng lại,
tới tận bây giờ đã ba mươi năm!
Ba mươi năm của bao cuộc thăng trầm.
Đã từng say sưa, đã từng day dứt…
Có lúc sống ngay gần kề cái chết,
thật, giả, trắng, đen chỉ khác có ngôn từ.
Ta đã sống nhờ cái khờ dại ngây thơ,
và hay nói những điều mình không nghĩ thế!
Ba mươi năm qua đi một thời non trẻ.
Ba mươi năm của ba cuộc chiến tranh.
Bạn có trải qua những đêm lạnh thiếu chăn,
bát mì sợi và đĩa rau muống luộc,
chiếc xe đạp lốp mòn dây chun buộc
lai con đi đạp vội trước hàng quà…
Lớp chúng mình „từ gian khổ sinh ra”,
nhưng chẳng chịu để đói nghèo khuất phục,
biết trả giá cho cái vinh cái nhục,
giữ lại cho mình một góc của riêng ta.
Ba mươi năm như một thoáng trôi qua.
Trên thảm cỏ xanh rờn bao kỉ niệm
vẫn e ấp những nụ hoa tim tím,
như tình yêu trong trắng âm thầm.
Và Em,
Em đã cùng anh đi trong ba mươi năm,
từ cái nhìn ban đầu chao nghiêng vành nón,
bao buổi hẹn hò, bao lần đưa đón…
vẫn một màu Hoa Trắng ấy, ngày xưa…
vẫn cái gì dìu dịu trong mưa;
vẫn cái gì lâng lâng trong nắng…
Dưới đáy Đại-dương-thời-gian,
những Hạt Trai lóng lánh
Ba mươi năm, ta vẫn giữ cho mình.
Warszawa, Mùa Thu 1995
ĐỢI
Ta ở trong nhau những ngày trống vắng.
Nhớ buổi tiễn đưa, con đò trong nắng.
Cơn bão tan trong bảy sắc cầu vồng.
Đợi dấu chân ai, cát dài mờ sông…
ĐỘC HUYỀN CẦM
Độc Huyền Cầm! Độc Huyền Cầm!
Lang thang tìm bạn tri âm cùng trời.
Ở đâu mưa gió tơi bời,
Độc Huyền Cầm sẽ là nơi êm đềm.
Ở đâu trăng trải đầy thềm,
Độc Huyền Cầm – bóng hoa đêm hẹn hò.
Thuyền ai không bến bơ vơ,
Độc Huyền Cầm – một bãi bờ bình yên.
Dù cách xa đến trăm miền,
Độc Huyền Cầm vẫn nối liền tri âm.
Độc Huyền Cầm! Độc Huyền Cầm!
Mấy ai là kẻ tri âm trên đời!…
EM VÀ ANH
Nếu em là tờ giấy trắng,
Anh xin là những vần thơ.
Trang đời lật theo năm tháng,
Nguồn thơ không cạn bao giờ.
Em-đồng lúa vàng trĩu hạt,
Anh-con đê dài ven sông.
Đê vững ngăn dòng nước lũ,
Đồng vui bát ngát hương nồng.
Anh là trưa hè nắng lửa,
Cho em làm cánh phượng hồng,
Để ta cháy lên nỗi nhớ,
Để ta khao khát chờ mong.
Anh như con thuyền cửa Hội
Em là ngọn gió nồm nam.
Thuyền ra khơi xa vời vợi
Gió vọng câu hò mênh mang…
Cửa Hội thu 1969
* Bài này đã có lúc ghi bút danh Hoàng Tuyết Mai
Ở RELAZOWA VOLA
Trong vườn Sôpanh
khúc dạo đầu thánh thót
Từng giọt rơi rơi
đến chật cả không gian
Là tiếng nhạc
hay là tiếng khóc
Về sướng vui
hay đau khổ ngập tràn
TIẾNG GỌI
Nửa đêm choàng thức dậy
ào ào gió bốn bề
Dường như trong bão tố
tiếng gọi từ miền quê
Những tiếng như mờ xa
những tiếng như thiết tha
tự ngàn xưa vọng tới
sâu thẳm đáy lòng ta
Những kí ức nhạt nhòa
những tuổi thơ rách nát
những tâm hồn phiêu dạt
những bóng ngày trườn qua…
Sáng nay trời không nắng
không một tiếng chim ca
Phải đâu là yên lặng
bão nổi trong lòng ta.
NGƯỜI SỐNG VÀ NGƯỜI CHẾT
Nước,
tràn lên,
cuộn chảy,
Lũ ào ào,
cuốn xuáy,
Cây bật gốc,
trôi.
Nhà cửa trôi…
Đã bốn ngày trên mỏm quả đồi,
Mẹ ngồi đó, cháu trong tay đói lả.
Nước vẫn cuốn. Trời vẫn mưa xối xả.
Nghĩ tới xóm làng, lòng Mẹ cuộn đau.
Nước trắng trời và tóc Mẹ trắng đầu!
Bỗng mắt Mẹ hoa lên khi vừa nhìn thấy
những cỗ quan tài trôi!
Mẹ run lên, không đứng vững nữa rồi
để nhảy xuống mà lôi chúng lại.
Sức đâu còn, đã bốn ngày nhịn đói!
Người sống không cứu được mình,
Biết làm sao cứu được người chết!
Hướng về miền Trung Tổ quốc
Warszawa, 11-1999
NHỮNG CƠN BÃO
Nắng
thiêu đốt những hiền hòa. minh mẫn,
nhen nhóm những dữ dằn, căm hận;
Sấm chớp
lóe ngang trời hy vọng, khát khao;
Rồi những hạt mưa rơi
ve vuốt tuyệt vời sao!
Và chúng ta chẳng biết gì độc hại
trong những giọt mưa-nước thải
từ bầu trời bị ô nhiễm cực kì!
Rồi gió
ban đầu cho cảm giác mê li
– sự mát mẻ của mồ hôi ráo
dần dần trở nên hung bạo,
tàn phá tơi bời…
Phải chăng bạn ơi
chúng ta đang sống sau,
hay trước nhũng cơn bão ấy?
TIẾNG VỌNG ƯỚC MƠ
Dội vào mỏm đá lô nhô
con sóng tan thành bọt trắng.
Lặn vào trái tim tôi
sự cô quạnh lan đến trời xanh.
Bọt nước tung lên lại về với sóng
cô đơn tim tôi chơ vơ chốn mông mênh…
Đảo làm giá đỡ cho tôi
nhưng đảo vẫn ngập trong biển lệ,
Nước mắt hành tinh có bao giờ vơi!
Đảo làm nhân chứng cho tôi:
Sự đơn độc choán đầy tâm thức,
không thể nhận thêm và chẳng thể cho thêm!
Chiếc-thuyền-dảo nhỏ nhoi giữa biển
lầm lũi ngàn năm chẳng tới bờ
Tôi-người thủy thủ gửi hồn theo sóng
Để đón về tiếng vọng những ước mơ…
Đảo Maiorca,Tây-ban-nha, 199
TƠ LÒNG
Nắng phơi khô bạc đất đồi,
Cây Ô-liu vẫn đâm chồi non tơ.
Vườn thung cam đã vàng mơ,
Quả sà xuống thấp ý chờ tay ai.
Cọ xanh chải mượt nắng mai.
Màu hoa giấy tím gợi hoài nhớ thương.
Vịnh xa mặt lặng như gương.
Tơ lòng giăng những sợi vương mây trời.
Đảo cô đơn giữa biển khơi
Tôi cô đơn giữa biển đời không em!
Mallorca, hè 1999
GỬI BẠN
Lại gửi Thành đây Thành ơi Thành,
Trong những ngày này cảng Gơđanh,
Thu đến rồi sao, trời ren rét,
Gió tự phương nào, cây bớt xanh.
Thôi chớ bước trên những lá buồn,
Hãy về với tớ, cát đường thôn,
sương sớm thu sang càng mát dịu.
Quê tớ độ này chắc vui hơn.
Ta sẽ lướt trên sóng sông Lam,
Ghé bến Tiên-điền chuyến đò ngang,
Nghe câu ví dặm say dòng nước,
Như thuở chàng Kim say giọng đàn.
Bến Chế * chắc Thành cũng muốn thăm
Lê Thánh Tông xưa với Tao-đàn,
Đá vẫn cùng thơ chồng lớp lớp,
Lao xao tùng bách, nắng mơn man .
Ta sẽ trèo lên đỉnh non Hồng**
Phóng tầm mắt rộng, ngắm biển Đông
Chín mươi chín ngọn lưng trời thẳm,
Bền vững bao đời chí cha ông!
Rồi trở về nhà tớ Thành ơi.
Đón ta, mẹ tớ ướt mắt cười.
Mẹ sẽ xoa đầu từng đứa một:
-„Ở tận đâu về các con tôi?”
Gdańsk, 8-1966
*Làng Chế bên sông Lam, cảnh rất đẹp.Trong
bài thơ “Vịnh làng Chế”của Lê thánh Tông
(1442-1497), người đứng đầu Tao-đàn nhị
thập bát tú, có câu: „Cảnh đẹp bằng đây họa
có hai!”
**Núi Hồng-lĩnh ở Nghệ-Tĩnh có 99 ngọn.
HOA TRẮNG
Nhớ chăng những chùm hoa nhỏ ấy,
Nở trắng bên đường, trắng tuổi thơ.
Trên những Con-Đường-Hoa-Trắng ấy,
Ta vẫn đi về suốt trong mơ!…
Warszawa, một đêm Hè 1994
GIÀ
Ngày đi trong thanh bình.
Đêm ngược chiều bão tố.
Ngày như đứa trẻ nhỏ.
Đêm đã ngoài sáu mươi.
Tết năm Con Khỉ 2004
ĐỘC THOẠI TRÊN BIỂN
Êm ả một vùng Ban-tích
Ầm ầm sóng dậy biển Đông.
Mắt thấy màu xanh ngọc bích
Lòng hun ngàn ngọn lửa hồng!
– Hãy nhìn trong từng giọt nước
có giọt nào từ Cửu Long
đượm mùi rễ dừa rễ đước,
rễ ngô rễ mía sông Hồng?
– Có giọt nào từ quê ta
từ những luống cày thấm ra
cùng máu mồ hôi nước mắt
của bao thế hệ ông cha?
– Có giọt nào mang hôi tanh
của loài mặt người dạ thú?
Giọt nào chắt chiu ấp ủ
đậm đà sâu nặng nghĩa tình?
– Ơi biển khơi xa trong xanh…
Gdynia, thu 1990
SÁNG CHIỀU ĐÊM
Sáng đi có trăm đường
Chiều chỉ về một lối
Có lúc nào tự hỏi:
– Đêm nay mình nơi đâu?
THÁNG NGÀY
Rã rời anh cố níu cánh hè
Xao xác em thu chầm chậm về
Thẳm sâu đáy mắt thuyền không đậu
Một chút buồn gieo bóng mây qua
Còn gì chờ ta
Bên trời nẻo xa…
Heo may dựng tường ngang nẻo dài
Dưới vệt xe lăn đá mệt nhoài
Sóng tan bóng núi về phương cũ
Một tiếng hò xa nhớ nguôi ngoai
Còn ai chờ ai
Tháng ngày phôi phai…
TRỞ LẠI LODZ (*)
( Sau nhiều năm xa cách)
Đến Thuyền mà không thấy biển
Gặp ánh mắt ai lúng liếng
Soi trời đầu xuân Ba-lan.
Dập dìu khúc hát điệu đàn
Để lòng ta say nỗi nhớ
Quên cả phút đầu bỡ ngỡ
Ngất ngây bóng dáng Xuân qua…
Đâu rồi những cô thợ dệt?
Còn không những mối tơ dăng?
Con thoi ngày xưa vẫn giữ?
Dấu in tay người còn chăng?
Bàn tay dệt nên cuộc sống.
Năm tháng có phai sắc màu?
Niềm vui dăng thành sợi dọc;
Sợi ngang dệt bằng khổ đau?!…
Đến Thuyền mà không thấy biển
Chỉ nghe sóng lòng dội bến
Buồm xa chở gió về đâu?…
(*) Lodz (Łódź) – tên một thành phố lớn của Ba-lan, từ cổ xưa
đã nổi tiếng về nghề dệt.
Tiếng Ba-lan chữ “łódź” có nghĩa là chiếc thuyền.