Tiểu sử:
Nguyễn Lương Vỵ
Sinh năm 1952
Quê quán: Quán Rường, Tam Kỳ, Quảng Nam
Đã có thơ đăng báo từ 1969 tại Sài Gòn:
Tác phẩm đã in:
– Âm Vang Và Sắc Màu (NXB Trẻ, Sài Gòn, 1991)
– Phương Ý (NXB Thanh Niên, Sài Gòn, 2000)
– Hòa Âm Âm Âm Âm… (NXB Thư Ấn Quán, New Jersey, 2007)
– Huyết Âm (NXB Q&P Production, California, 2008)
– Tinh Âm (NXB Q&P Production, California, 2010)
– Bốn Câu Thất Huyền Âm (NXB Q&P, Production, California, 2011)
– Tám Câu Lục Huyền Âm (NXB Q&P Production, California, 2013)
– Năm Chữ Năm Câu (NXB Q&P Production, California, 01.2014)
– Năm Chữ Ngàn Câu (NXB Q&P Production, California, 12.2014)
– Tuyển Tập Thơ 45 Năm (1969 – 2014) (NXB Sống, Q&P Production, California, 2015)
Giữa những nhà thơ cùng thế hệ, Nguyễn Lương Vỵ là người miệt mài hơn cả, mài giũa trái tim mình, chờ đợi giây phút linh cầu. Những lúc thành công, anh trở thành một bộ phận của cái toàn thể, như thân cây rung cho cả khu rừng.
Nguyễn Lương Vỵ đi giữa ảo và thực. Trong mỗi linh hồn, có một mặc định về con đường đi tới, bất chấp mục đích của đời sống. Nơi cốt tủy của tồn tại, có một tiếng nói phải được cất lên, một đời sống phải được sống, một tình yêu phải được bày tỏ. Những ham muốn không đạt tới đã tạo nên cõi thơ anh. Đọc triền miên thơ từ năm này qua năm khác, từ bài này qua bài khác thấy anh làm thơ tự nhiên như thở, trong khi những trăn trở như chim đập cánh không mỏi trước gương. Sự kết thúc. Sự trở lại.
Thỉnh thoảng bật lên trong trẻo như tiếng đàn, ở nơi sự căng thẳng giữa một bên là những bổn phận của đời sống, giản dị, nhu mì, và một bên là những câu hỏi vô tận mang tính tâm linh, về thực hữu. Anh thường xuyên ra vào cõi hư vô, nói nhiều đến tình yêu, nhục cảm, cái chết, sự tận tuyệt, cõi âm, nhưng thơ anh không phải bao giờ cũng dẫn chúng ta tới được những nơi kia. Bởi vì thơ không tìm cách giúp người đọc thoát ly hiện hữu, mà giúp họ sống chính hiện thực ấy.
Giọng thơ của Nguyễn Lương Vỵ có phần phê phán và không xa rời thế sự, làm cho lối thơ kỳ bí của anh phảng phất hơi ấm, không phải của chân lý mà anh tìm được, nhưng của những câu hỏi tươi mới, mỗi ngày anh một chất thêm vào.
Những năm gần đây, thơ anh trở nên hài hước, nhẹ nhõm, có lời ca ngợi đối với sự sống, niềm thương cảm, sự chua chát, những bằng chứng của tình yêu mà anh bắt gặp và chia sẻ. Một nhà thơ càng không chắc chắn về con đường của mình, đạo, và bày tỏ điều ấy dễ dàng, càng gây cảm giác tin cậy ở người đọc. Điều quan trọng trong thơ ca ngày nay là người viết và người đọc cùng một lúc chia sẻ các hình ảnh, lời cầu nguyện, cùng một lúc vì, cũng như trong khoa học, không một cá nhân nào còn đủ sức sở hữu toàn bộ sự thực. Đó là lý do của sự di chuyển nhiều lần những điểm nhìn, những góc đứng, trong thơ Nguyễn Lương Vỵ. Chống lại trữ tình cá nhân là nhu cầu cảm thông và đối thoại. Vì vậy, thơ anh có nhiều giọng nói. Sự đa thanh là một đặc điểm.
Tính triết học trong thơ ca ngày một bị coi nhẹ bởi các nhà thơ và nhà phê bình, cần được mang trở lại. Đó là sự chú ý, sự quan sát. Cảm giác tồn tại, như một cá nhân, một công dân, cảm giác ấy không tự nhiên mà có. Chúng biến đổi theo thời gian và định vị. Nguyễn Lương Vỵ, với những bài thơ độc đáo của anh, không ngừng đưa ra lời kêu gọi trở về với sự chú ý, với bản thể tình yêu. Đó thực sự là một dấn thân, và trong ánh sáng của câu hỏi tâm linh, những lời kêu gọi ấy, trữ tình và cá nhân, cuối cùng lại tìm thấy lối đi chung của chúng, từ bên kia trở về cõi thế, từ sự huyền ảo trở lại lòng tin, từ cõi tàn hủy mà trở về với đời sống, với người đọc.
Văn Việt trân trọng giới thiệu.
NGUYỄN LƯƠNG VỴ
NỬA ĐÊM THỨC DẬY NHÌN MÂY TRẮNG
Lung linh hồn quê cũ
Mây trắng phủ khắp trời
Nhớ trăng khô hết máu
Muôn trùng dặm núi ơi!!!
1969
CẢM ỨNG
Biển đắp một tòa sương
Lạnh đôi bờ vú nhỏ
Nàng tắm trong tịch dương
Núi gầm lên khóc nhớ…
1969
ÂM NHẠC
Ghi trên nền nhạc giao hưởng số 5 của Ludwig Van Beethoven
Âm nhập cốt
Âm binh phiêu hốt tiếng tru
Ta tru một kiếp cho mù mắt
Mù lệ đề thơ để nhớ đời
À ơi! Rượu đỏ hoàng hôn tắt
Ta dắt hồn ta túy lúy chơi!
Âm nhập cốt
Âm vàng mấy gót hồ ly
Vạn kỷ cung thương còn réo rắt
Còn ru ta mãi quãng đời xanh
À ơi! Ai hát ngoài phuơng Bắc
Chờ nhau tinh đẩu sáng long lanh
Tiếng đá ngân nga chìm giếng lạnh
Sói đầu mây bạc áng thiên tinh
Ô hô! Quan tái đà xao xuyến
Giọt máu năm xưa bỗng tượng hình
Lâng lâng tinh khí xuất luân hồi
Nguyệt thở thơ bay rợp nắng đồi
Khuya khoắt ta nằm trong lá mới
Dìu nhau hoan lạc quỷ nương ơi
Quỷ nương cốt đá ta cốt mây
Ôm ấp ngàn thu sương chớp vây
Trống mái uớt dầm cung bậc chín
Reo suốt thinh không đợt sóng gầy
Thạch cầm vỡ
Ngàn năm thơ thẩn với âm vang
Ta ôm trời đất sầu vô hạn
Thương nhớ Thanh Xuân mộng úa tàn
À ơi! Dâu bể chưa khô cạn
Chưa dứt tâm tư vọng ngút ngàn…
03.1971
MỘT THOÁNG ĐÀ NẴNG
Chiều nay
Trở về ngồi lặng yên với biển
Bãi cát còn sót lại những giợn sóng
Đã rút đi xa
Như quá khứ
Những sợi tóc vàng cháy
Vắt ngang qua ánh mặt trời
Vắt ngang qua lưng núi
Mười lăm năm
Ngày trở về không hẹn trước
Âm thầm như bóng mây
Xoa tay dõi mắt tìm
Người đào huyệt trong nghĩa trang
Rít điếu thuốc lào cuối cùng
Nén nhang cháy trên nấm mồ cô quạnh
Màu ráng đỏ bầm trên núi xa
Ta muốn tru lên như con chó ốm
Rồi chạy như điên như bay…
Chiều nay
Ngồi nhớ chiều xa
Nhớ lắm ngực chiều Nam Ô Liên Chiểu
Mười lăm năm nghẹn thở
Mười lăm năm nhói tim
Đà Nẵng một thời côi cút bụi đời
Một mình lang thang đầu trần khét nắng
Bến sông Hàn những năm Sáu Mươi
Ta bắt đầu hiểu
Tuổi thơ của mình
Như chiếc lục bình
Trôi đi thất thểu
Trôi đi trôi đi
Ta bắt đầu thấy
Tuổi thơ của mình
Có một chiếc đinh
Rung rinh giữa trán
Rung rinh rung rinh…
Chiều nay
Ngồi nhớ chiều xa
Nhớ lắm bóng núi Sơn Trà Non Nước
Mười lăm năm xuôi ngược
Mười lăm năm xác xơ
Đà Nẵng một thời òa bay niên thiếu
Một mình lang thang vẹt gót phố khuya
Thềm chợ Cồn những năm Sáu Mươi
Ta bắt đầu hiểu
Tuổi thơ của mình
Như một tấm hình
Bay đi trong gió
Bay đi bay đi
Ta bắt đầu biết
Tuổi thơ của mình
Có một vết cứa
Lặng im rách tim
Lặng im lặng im…
Đà Nẵng Đà Nẵng
Ngày trở về không hẹn trước
Bất ngờ như lúc ra đi
Mười lăm năm vẫn nghe nước sông Hàn chảy trong mỗi bước
Mười lăm năm vẫn ngước mắt gào ngàn
Thơ vẫn thiết tha niềm hoài cảm
Thiết tha những con đường thân quen thức đợi
Cho ta tìm ta chiếc thân còm cuối phố
Gặp lại nhau rồi
Vuốt tóc khét nắng
Giữa chiều thinh vắng
Rụng xuống một vài
Rụng xuống rụng xuống
Chiếc lá ứng mộng
Bóng mộ trăng cài
Quàng vai nhau nhé
Chưa phai bóng mộ
Chưa phai chưa phai…
10.1980
ÂM VANG VÀ SẮC MÀU
Ngàn năm bước thấp bước cao
Ta xin bước tiếp bước nào nữa đây?!
Bước xa viễn tượng hao gầy
Bước gần hiện tại vẫn đầy bão giông
Vết thương nhân loại đèo bòng
Vết bầm thế giới những vòng quay nhanh
Khóc hờ chén rượu tàn canh
Cười khan cạn hết bài hành phương Đông
Người em nô giỡn bụi hồng
Hát rong oan nghiệt tạ giòng sông xanh
Ngàn năm sầu dựng trường thành
Ta xin cúi lạy âm thanh sắc màu
Điệp trùng thế kỷ trôi mau
Thương câu lục bát mà đau lục bình
Quê nhà Hoa Nắng quyên sinh
Xứ người Trăng Huyết run mình chết theo
Hàm ơn ngọn lửa thầm reo
Đêm thiêng rạch một tiếng kêu sáng lòng
Vẫn còn những bước thương mong
Còn vang ngấn tích ở trong tim người…
10.1985
CHÉP HỘ NGƯỜI ĐÀN BÀ ĐIÊN
Chiều sưng húp mồ ma
Ai cắt đầu ta vậy?!
Ai moi ruột gan ta
Để bây giờ lửa cháy
A ha! Những cột khói
Trơ những mắt tre già
Câu ca dao chết đói
Những cánh rừng vàng da
Đạn bom ta nào biết
Chỉ nghe một tiếng ầm
Chiều thì câm và điếc
Nên ta càng điếc thâm
Làm ơn đừng hỏi nữa
Để ta khóc ta cười
Để ta cầm cục lửa
Tìm con ta giữa đời
Người đàn bà rũ rượi
Ngồi im trên nấm mồ
Mồ thì không biết nói
Chiều thì xa nhấp nhô…
10.1985
TRỞ LẠI NGŨ HÀNH SƠN
Ngũ Hành Sơn
Ngũ Hành Sơn
Ta lại về thăm núi
Bạn đó a!
Sương muối
Hồn chiều…
Ớn lạnh tiếng kêu
Mắt đá xanh
Đắm đuối
Rát ngực ta
Buột miệng la thầm
Chiều bén gót
Con trăng lộn ngược
Buổi sơ Thu
Con nước đầm đìa
Kìa!
Đá rịn mồ hôi
Ngựa cũ
Tiếng hí màu huyết dụ
Trầm sâu…
Kià!
Bạc đầu
Bóng hạc nhớ mây
Đau máu đá
Mà đời đâu biết!…
Bạn đó a!
Oan hồn tứ tuyệt
Huyền thoại xanh
Búng huyết sơ đầu
Ngũ Hành Sơn
Ngũ Hành Sơn
Biết tìm đâu ngựa cũ
Hí rền mây
Ngực ủ mộ bia…
11.1988
THƯỢNG THANH KHÍ
Cảm ứng Hàn Mặc Tử
Đau thương trong suốt Thượng Thanh Khí
Ta chết trong veo giữa huyệt trời
Hồn thơm, no cứng Xuân Như Ý
Phượng Trì vút lên mùa trăng chơi
Vút lên câu huyết thi năm ấy
Ta chết hồ nghi trong giá băng
Trong sương lang bạt vô tình thấy
Thơ liếm môi người không nói năng
Vút lên trí tưởng thơm nhan sắc
Ta chết hồn nhiên dưới búp non
Nguyệt nõn một chùm lông réo rắt
Bay theo thương tưởng một linh hồn
Thơ ta bay một đời chưa thấu (*)
Ngàn trước ngàn sau hụt đáy hoài
Tứ cũng Hư như Huyền ảo não
Thi huyết khô rồi nhưng chẳng nguôi
Hồn là ai?(*) Là ta viễn xứ
Là bút thần khai gặp lại mình
Miếu cũ hiện ra trong mỗi chữ
Bình vôi bôi xóa hết vô minh
Nhạn về trong trẻo Thượng Thanh Khí
Ta hát Tình Quê trên nẻo Không
Thơm quá một trời Xuân Như Ý
Câu huyết thi bay với tiếng cồng…
2.2003
_______________
(*) Ý thơ của thi sĩ Hàn Mặc Tử
CẢM ỨNG BÍCH KHÊ
Em bí mật chôn ta
Trong tinh hoa của sắc
Trong hiu hắt của màu
Trong tiếng vang thời khắc
Gọi là lộc khổ đau
Lộc khổ đau tươi rói
Xuân Tượng Trưng phúc trời
Ta chết ngay trong lời
Lộc biếc vang một ý
Nở thanh khí một trời
Núi Thiên Ấn ngủ vùi
Sông Trà chảy xót ruột
Thơ ta ngún một nùi
Tinh Huyết ngân một giọt
Em bí mật hoài thai
Hài nhi bọc tinh âm
Khóc xanh hết bờ cõi
O oe hồng tiếng nói
Kiến trúc chín bậc trầm
Mười bậc cao vòi või
Thơ lạ như thần ưng
Âm thương đau móng sắc
Ta chết ngay tức khắc
Giữa trời Xuân Tượng Trưng
Tinh Huyết bỗng thơm lừng…
5.2003
Ghi chú: Những chữ in nghiêng là tác phẩm của thi sĩ Bích Khê.
THƠ VỀ THƠ I
Một câu thơ đã chết
Một câu thơ hoài thai
Một câu thơ sắp chết
Gió huýt sáo dặm dài
Gió lưng ong cài lược
Chải sợi lông thời gian
Mềm dư vang sau trước
Chữ ứa một cung đàn
Chữ ứa một dung nhan
Nằm xếp hàng như mộ
Ta yêu em kiên khổ
Dẫu phí hết ngàn đời
Một câu thơ đi chơi
Một câu thơ bật khóc
Một câu thơ lăn lóc
Gió trong tờ lá non…
5.2000
THƠ VỀ THƠ II
Năm mươi năm theo em
Từ khi trong mầm khí
Con trăng non rên rỉ
Con suối khát nguồn xưa
Chìm biết bao cơn mưa
Nổi biết bao cơn nắng
Thơ càng mần càng vắng
Những gót chân hài nhi
Nhiều khi muốn xóa đi
Trong máu tàn xương lụi
Chợt nghe trong cốt núi
Đang tượng hình cốt mây
Năm mươi năm vơi đầy
Soi mắt nhau chợt hiểu
Ngàn câu thơ chết yểu
Xanh hết suối hồn ta…
6.2002
THƠ VỀ THƠ III
Chữ tươi màu tinh huyết
Bông tuyết đỏ trong hồn
Bông tuyết trắng đầu non
Mưa truồng phơi nắng lạ
Thèm em thèm tất cả
Hương kinh nguyệt đất trời
Thu Không rụng một lời
Một đời ta hứng trọn
Thương em đau cỏ mọn
Hạt bụi xót hiên ngoài
Hạt nát tan chiều phai
Thơ rền trên vách núi
Một câu thơ chết đuối
Vớt lên trong bao la
Nghe lạnh hết xương da
Bưng mặt không dám hỏi…
5.2005
SỬ LỊCH
Những vòng tròn quay quắt trong mơ
Cuộc chia ly từ trong trứng Mẹ
Trứng lưu huyết rừng hương ngấn lệ
Của biển già câm lặng lời xanh
Những vòng tròn mưa nắng hòa thanh
Màu sử lịch bầm trong câu hát
Ta tìm mãi lời nguyền của đất
Cầm trong tay những trận gió nồng
Gió vu vơ nứt từng nhánh sông
Từng gương mặt bà con ẩn hiện
Từng cái chết là từng câu chuyện
Gốc rạ cằn đứt ruột trời xa
Gió ngu ngơ nào biết Huyết Hoa
Đền miếu cũ ngủ vùi thương nhớ
Màu sử lịch Huyết Hoa vừa nở
Nắng lừng hương nơi chốn ta về
Chốn ta về là chốn Nhà Quê
Gắp vài đũa lùa theo nước mắt
Muối vẫn mặn âm vang mùa gặt
Gừng vẫn cay thanh sắc Ca Dao
Chốn ta về lục trúc chiêm bao
Hai mắt nhắm canh chừng tiếng động
Cỏ vẫn hát giọt ngần sương mỏng
Gọi ngàn thâu đau đáu bước chân
Những vòng tròn trong tiếng chuông ngân
Những tiếng khóc một trời thơ dại
Màu sử lịch là màu cây trái
Vườn ta ươm khổ lụy lâu rồi
Những vòng tròn bay đi đâu nơi?!
Chuyến tàu cuối ga đời hút bóng
Ga thời khắc chắc chi mà ngóng
Đành thưa em Sử Lịch môi cong…
4.2005
THẦN SẦU
I
Tri ân Em đẹp thần sầu
Cho ta quỉ khốc bạc đầu khôn kham
Phút giây vụt hiện sắc chàm
Vụt bay cánh mộng trời Nam khuất rồi!!!
Thấy trong giọt máu luân hồi
Giọt mưa luân vũ cây đời gọi nhau
Giọt trùng sinh níu ngàn sau
Giọt âm xé lá bên cầu nhớ ai
Nghe trong xứ sở ngân dài
Tiếng xương khua với tủy mài tiếng tru
Tiếng hờn nuốt bóng trăng lu
Tiếng oan ực hết oán thù mây bay
Đất ôm mộng mị đường cày
Trời khua tiếng cuốc hao gầy trong ta
Bập bùng trí não niêm hoa
Cành sương vi tiếu bao la sắc màu
II
Tri ân Em đẹp thần sầu
Cho ta linh cảm ngàn thâu vắng chìm
Bụi bờ ngơ ngác lời chim
Tìm nhau bến tạnh sông im lối về
Thấy trong giọt nhạc cuồng mê
Giọt trôi buốt nắng giọt nhòe bóng mưa
Giọt lăn má đỏ gió đưa
Giọt tràn khóe mắt môi vừa hé ra?!
Nghe trong tơ cỏ lừng hoa
Tiếng thơ dại với tiếng ma rù rì
Tiếng đời xô động âm ti
Tiếng khuya thức nhọn sầu bi tan tành
Âm vang dòn rụm hòa thanh
Cầm tay Cổ-Độ-Kinh-Thành-Ngữ-Ngôn
Hít sâu thở nhẹ đêm son
Quỳ hôn cuối bể đầu non Em nằm…
III
Thần sầu những sợi lông măng
Trăng non thơm ngát giá băng rợn người
Thơ tan theo tiếng Em cười
Hồn nhiên ngấn lệ tuổi đời xanh um
Thấy trong thiên địa một chùm
Ướt trên búp nguyệt nở dùm cho ta
Một rừng múp rụp hồn hoa
Cho Em trở giấc gần xa rực hồng
Nghe trong thiên địa cay nồng
Trồng vun tuyết bạch cái mồng điêu linh
Ráng pha đỏ mắt biên đình
Một xâu Sử Lịch bóng hình hắt hiu
Mồ hoang tiếng phách dập dìu
Rừng lau lấp lánh rất nhiều dung nhan
Sóng xô bất tuyệt điêu tàn
Hồn quê bất tận âm tràn theo âm
IV
Thần sầu giọt lửa cháy câm
Sôi gan lịch kiếp cung cầm rụng rơi
Ta ôm đá ngủ quên lời
Vì trong ý cũ núi đồi quá xanh
Thấy trong biếc lục trường thành
Lá môi Em nở ngon lành bài thơ
Ví dầu cầu ván ngẩn ngơ
Ngờ đâu đáy huyệt đang chờ chúng ta
Nghe trong vạt áo í a
Hà hơi gió lật giang hà sát vai
Ngực Em đắng tiếng thở dài
Núm son tội nghiệp thiên tài chết trôi
Chết đi chết đứng chết ngồi
Chết phơ phất chết rụng rời chơi luôn!!!
Tào Khê khát cội say nguồn
Thây ma lịch kiếp không buồn chẳng vui
V
Té ra quỉ khốc ngậm ngùi
Mùi hương dị thảo lau chùi bão giông
Phượng Cầu rợp bóng phương Đông
Vụt bay vụt hiện ngàn sông Em về
Thấy trong búp lửa xanh thề
Mềm lưng vũ trụ tư bề thắp sao
Lưng Em mịn hết chiêm bao
Lá Em mượt hết tế bào thơ ca!
Nghe trong tráng khí trào ra
À ơi men rượu Hoàng Hoa nhấp hoài
Khí thiêng ngùn ngụt hiên ngoài
Cầm canh tiếng thở muôn loài ghé thăm
Huyền Không cái lạnh muôn năm
Thầm trao muôn thuở xa xăm điếng hồn
Đá khô tinh huyết trắng non
Dòn tan muôn kiếp gió lòn tinh khôi
VI
Té ra quỉ khốc lâu rồi
Vì Em chớp mắt trên trời líu lo
Nỗi niềm dưới đất quanh co
Điêu linh thống khổ thơ no ứ tràn
Thấy trong tro bụi thắp hàng
Hạt cô liêu rụng rỡ ràng cô liêu
Nhặt lên cổ nguyệt quá nhiều
Lung linh cổ tự những chiều cổ phong
Nghe trong lá mạ băng đồng
Cồng chiêng rót mật pha hồng tiếng ru
Hài nhi bú mộng khóc bù
Mai sau ráo hoảnh ngục tù trần ai
Huyền Không cái lạnh ngân dài
Bông bay ảo diệu trâm cài tóc mây
Mùi hương dị thảo còn ngây
Cho ta ngóng mãi bóng ngày vọng âm
VII
Thần sầu tiếng hú mù câm
Một hơi thiên địa mưa dầm nắng chan
Suớng lên chất ngất cung đàn
Đau lên chót vót non ngàn lửa reo
Thấy trong xanh buốt cháy theo
Khi Em khép nguyệt lời heo hút lời
Lông măng óng mượt thêm rồi
Mềm thêm vũ trụ đứng ngồi bơ vơ!!!
Nghe trong chín đỏ ngẩn ngơ
Trĩu cành bích ngạn không ngờ cách xa
Thơ un khói nhớ quan hà
Tà huy lớp lớp thiết tha ngún hoài
Thuần thanh lô hỏa trong ngoài
Lạy Em trong suốt bào thai kiếp người
Lạy Em sặc máu khóc cười
Lạy Em buốt huyết son tươi xé lòng
VIII
Thần sầu tiếng rú Huyền Không
Rồng Tiên bấu móng ta bồng ta nâng
Ta ươm ta ướm tử phần
Độc cô khớp với phong trần đong đưa
Thấy trong tre trúc chát chua
Trống rung rách nát sân chùa tịch nhiên
Câu kinh lúng liếng trăm miền
Ngàn nơi muôn chốn tham thiền thấy nhau
Nghe trong nức nở về sau
Yến bay oanh liệng biển dâu hồ cầm
Cầm thu cầm nguyệt thì thầm
Cầm Em khép mắt khôn cầm biệt ly!!!
Quỳ hôn chiếc lá diệu kỳ
Cố hương diệu vợi thôi thì thế thôi
Lá Em thơm quá mép môi
Thơ ngun ngút cháy đường ngôi sững sờ…
IX
Thơ ngùn ngụt cháy bơ vơ
Vì ta sẩy bước ầu ơ lạc loài
Nghiến răng cái lạnh trong ngoài
Em ơi khóe mắt u hoài những đâu?!
Những kia những nọ về sau
Càng quen thức đợi càng đau đớn nhiều
Độc cô cổ mộ bao nhiêu
Em ơi khóe mắt bấy nhiêu vết hằn
Vết sông khô vết suối cằn
Rưng rưng vết nứt vết lăn tuyệt cùng
Ta ôm đá ngủ mịt mùng
Xác quên bén mộng đì đùng hồn xưa
Huyền Không nhói tiếng đò đưa
Gò bông lau trắng đứng trưa hóa rằm…
5.2005
GỬI QUỐC ÂM
I.
Trọn đời thương nhớ Quốc Âm
Thơ sáng trưng theo tháng năm
Bình Ngô Đại Cáo sấm dậy
Quân Trung Từ Mệnh lôi trầm (1)
Sống trong veo như nhật nguyệt
Chết tịch mịch tợ cổ câm
Bè mây trắng vang câu hát
Nước non trở giấc thạch cầm…
II.
Thạch cầm nở đóa huyết thi
Sá chi tử biệt sinh ly
Ải Nam Quan lời thề khắc
Đất Lỗi Giang tâm nguyện ghi (2)
Lam Sơn ẩn hình hổ phục
Lũng Nhai hiện bóng rồng phi
Trả thù cha đền nợ nước
Nhẹ thênh thơ ngát vân vi…
III.
Quốc Âm thanh khí thường hằng
Tình thư một bức nói năng (3)
Nhấn ngón tay rân phím nhạc
Nhịp bàn chân réo gót đằng
Gõ chén hát trăng mười sáu
Nâng ly ca núi ngàn đăng
Vũ trụ cùng người đối ẩm
Thềm khuya ứng mộng cho chăng?!…
IV.
Đóa huyết thi bầm huyết sử
Đời nay vẫn rền linh ngữ
Chắc chi thiên hạ chí tình (4)
Hà tất một mình nhiễu sự
Thuyền nan nén nghẹn mái chèo
Bóng phượng tung ngần viễn xứ
Người đi đâu người về đâu
Quốc Âm trầm sâu mỗi chữ…
V.
Trọn đời thương nhớ Ức Trai
Sáu trăm ba mươi năm ngoài
Chí Linh nhương sao nhấp nháy
Côn Sơn vung bút mãi mai
Oan nghiệt tuyệt không nhếch mép
Công danh đếch có rùn vai
Loáng gươm đưa đầu lìa cổ
Chẳng cần chi ai khóc ai…
VI.
Khóc ai nào biết khóc ai
Lệ Chi Viên oán ngút dài
Rưng rức ngần sương cay mắt
Sững sờ trận gió ù tai
Sử lịch chìm sâu ngất ngất
Thời gian trôi giạt phai phai
Ém trong ngực một tiếng thét
Khóc ai nào biết khóc ai?!…
VII.
Lá thu mưa đóa huyết thi
Đầu cây ngọn cỏ thầm thì
Chim bay về rợp võng nắng
Gió cuốn đi chớp quầng mi
Nghiêng tai nghe âm trổ nụ
Ghé mắt thấy chữ phương phi
Xoa tay nhặt năm tháng cũ
Mầm tươi vừa nhú diệu kỳ…
08.2010
(Tưởng niệm 630 năm [1380 – 2010] tiền bối Nguyễn Trãi)
(1) Quân Trung Từ Mệnh Tập: Là tập sách gồm những văn thư do Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi (Lê Thái Tổ) gửi cho các tướng tá nhà Minh trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, từ năm 1423 đến năm1427. Bản khắc in năm 1868 chỉ ghi lại được 46 văn kiện. Năm 1970, nhà nghiên cứu Trần Văn Giáp phát hiện thêm 23 văn kiện nữa do Nguyễn Trãi viết gửi cho tướng nhà Minh.(Nguồn: Vikipedia.)
(2) Lỗi Giang: Nơi Nguyễn Trãi yết kiến Lê Lợi, tham gia cuộc kháng chiến chống quân Minh.
(3) Tình thư một bức còn phong kín
Gió đưa hơi, gượng mở xem…
(Quốc Âm Thi Tập – Nguyễn Trãi.)
(4) Chắc chi thiên hạ đời nay /Mà đem non nước làm rầy chiêm bao…
(Tự Thán – Nguyễn Trãi.)
MỆNH CỦA CHỮ
Tặng Tô Đăng Khoa
I.
Khi huyết cầm ửng nắng
Thì âm hoa ngất hương
Khi chữ réo dị thường
Thì âm thu ngất nhịp
Biết đâu vô lượng kiếp
Giọt đàn kia cháy câm
Những chấm nhỏ xa xăm
Những dấu chân bụi đỏ
Khi huyết cầm đứng ngọ
Thì âm hoa trầm mình
Khi chữ réo tận tình
Thì âm thu trầm uất
Biết đâu trong phơ phất
Những bậc đá lưng trời
Những huyệt mù hắt hơi
Vì âm hoa đang lạnh…
II.
Vì âm hoa đang tạnh
Chữ muốt trắng oan hồn
Hồn muốt đen kiền khôn
Mắt vực chẳng biết nữa
Vì âm hoa đang ứa
Chữ ôm ngực gọi người
Người ôm sông chết tươi
Sông âm thầm chết lặng
Vì âm hoa đang lắng
Chữ luồn kim tìm nhau
Ai ngồi khâu ngàn thâu
Rách bươm từ cổ độ
Vì âm hoa đang rộ
Chữ nứt tiếng ngô đồng
Lóng xương mây trổ bông
Trong tiếng gà viễn xứ…
III.
Âm thu rền cổ tự
Ma họp chợ thổi kèn
Lá dứa thơm ngọn đèn
Bông súng tím ngực hát
Âm thu vùi trong cát
Rừng lau cong lưng đêm
Tượng thanh ngất trắng rêm
Tượng hình ngất trắng vỡ
Âm thu đau rạng rỡ
Bình vôi trơ miếu đền
Viên sỏi vờ ngủ quên
Nghe hết niềm cô tịch
Âm thu đau rả rích
Chữ ly tan rồi sao
Hồn ly tan rồi sao
Huyết cầm buông hết nắng…
08.2012
T[I]ẾU NGẠO GIANG HỒ
1.
kim dung viết tiếu ngạo giang hồ
tung hoành máu ướt với xương khô
tự phong chánh tà tranh bá chủ
kinh hãi anh hùng hào kiệt rồ
2.
t[i]ếu ngạo giang hồ ngàn lẻ một
bài thơ mần chậm ngấm nhân gian
mời ma thiên cổ về thưa thốt
sanh tử hai bên chẳng đụng hàng
3.
t[i]ếu ngạo giang hồ không võ lâm
không mưu ma chước quỷ hà rầm
chỉ có tứ đùn lên bất tận
thơ nhìn rõ mặt thấy muôn năm
4.
t[i]ếu ngạo giang hồ chơi một bóng
một mình một cõi có hề chi
văn minh cơ khí hay gò đống
người ngợm bơ vơ biết nói gì
5.
t[i]ếu ngạo giang hồ cũng hụt hơi
tuổi già lơ láo ý quên lời
có khi nhòa lệ mà không biết
chữ khóc biên đình tưởng lá rơi
6.
t[i]ếu ngạo giang hồ thơ đến muộn
về khuya kìa luống cải giồng khoai
con sên nhắn sáo tìm đom đóm
thơ nhắn gì không vạn cõi ngoài
7.
t[i]ếu ngạo giang hồ khoái thức trông
thơ ngồi khua nước lớn nước ròng
muốn chảy theo rủ con nước ngược
nguồn xưa lâu lắm lạnh nhiều không
8.
t[i]ếu ngạo giang hồ nhìn cho kỷ
thấy cho lâu giọt nắng lam điền
giọt mưa đưa đẩy trong tâm thất
tháng chạp săn lùng trăng tháng giêng
9.
mần thơ cứ t[i]ếu ngạo giang hồ
nếu kiếp nầy chưa đụng xương khô
thì hẹn kiếp sau xin mần tiếp
vũ trụ cười vang vui thấy mồ!!!
05.2016
Ghi chú:
Kim Dung (tên thật: Tra Lương Dung) sinh ngày 10 tháng 3 năm 1924, là một trong những nhà văn ảnh hưởng nhất của văn học Trung Quốc hiện đại, chuyên viết tiểu thuyết võ hiệp. Tác phẩm của ông hầu hết đã được dịch ra các ngôn ngữ Việt, Hàn, Nhật, Thái, Anh, Pháp, Indonesia… được chuyển thành phim với số lượng độc giả, khán giả đọc sách và xem phim đông kỷ lục.
Tiếu Ngạo Giang Hồ: Tên cuốn tiểu thuyết võ hiệp được đặt theo một bản nhạc cầm tiêu hợp tấu đóng vai trò trung tâm của tác phẩm. Tác phẩm nầy được xem là một trong những tiểu thuyết võ hiệp đặc sắc nhất của tác giả. (nguồn tham khảo: vikipedia.com)
ĐỌC THƠ TRẦN NHÂN TÔNG
1.
người lính già kể chuyện nguyên phong
rù rì theo sắc nắng thương mong
đầu bạc bên chiêu lăng lặng lẽ
tình quê nợ nước vẫn chưa xong
2.
một hơi thở một đời thế thôi
gió cuốn đi thực mộng quên rồi (*)
chùa làng lưu lại câu tâm bút
thơ bay đi theo mây rong chơi
3.
núi bảo đài thơm ngát ánh trăng
đời đang trôi như thầm nhủ rằng
năm tháng xa gần nâng sáo ngọc
nửa bóng râm và nửa tuyết băng
4.
mây giăng ảo diệu trên yên tử
chuông chiều thở nhẹ quanh thiền tự
cánh hồng rụng nhớ cánh bướm bay
nệm cỏ sư ngồi tứ niệm xứ
5.
thị phi hoa rơi rụng buổi sáng
lợi danh lạnh theo mưa ban đêm (**)
bật một que diêm trong im vắng
rít điếu thuốc tàn chẳng nghĩ thêm
6.
xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
sơn hà thiên cổ điện kim âu (***)
đời nay ngu ác đày dân khổ
trào đình hèn mạt sợ thằng tàu
7.
thơ là kệ hay kệ là thơ
hỏi làm chi xác chữ cứng đơ
thần hồn tạnh ráo sáng con mắt
pháp không sanh không diệt sang bờ
8.
tịch mịch rền câu có câu không
thuở anh niên đội nắng băng đồng
trời chẳng nói và đất chẳng nói
nắng đầu xuân gọi nắng đầu đông
9.
tịch mịch vui trăng non vừa nhú
tịch mịch sầu vớt lên tuyệt cú
sông thu vừa hớp ngụm sương mai
trời thu vừa nở thêm một nụ
06.2016
Ghi chú những chữ in nghiêng trong bài thơ:
– Nguyên Phong: Niên hiệu của vua Trần Thái Tông năm 1251. – Chiêu Lăng: Lăng mộ của vua Trần Thái Tông.
– Bảo Đài: Tên một ngọn núi ở Yên Tử, huyện Đông Triều, nay thuộc tỉnh Quảng Ninh. – Yên Tử: Vùng núi hiểm trở, hùng vĩ ở huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. – Pháp không sanh không diệt: Diễn ý từ 2 câu “Nhất thiết pháp bất sinh / Nhất thiết pháp bất diệt” (Hết thảy các pháp không sinh / Hết thảy các pháp không diệt) trong bài kệ “Thị Tịch” của Trần Nhân Tông.- Câu Có Câu Không: Tựa đề bài thơ (đúng hơn là bài kệ) “Hữu Cú Vô Cú” của Trần Nhân Tông. Hình thức, cú pháp, ngôn ngữ của bài thơ rất dung dị (4 chữ, 36 câu) nhưng nội dung rất hàm súc, uyên áo, thâm diệu, nói về Tánh Không (Sunyàta) của Phật pháp.
(*) Lấy ý từ hai câu thơ “Thân như hô hấp tỵ trung khí / Thế tự phong hành lĩnh ngoại vân” (Thân như hơi thở, thở ra hít vào [bằng] mũi / Cuộc đời tợ gió đi [vờn, luồn, bay lướt] trên đỉnh mây ngoài xa) trong bài thơ “Thân Như” của Trần Nhân Tông.
(**) Lấy ý từ hai câu thơ “Thị phi niệm trục triêu hoa lạc, Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn” (Nghĩ chuyện thị phi rơi rụng cùng với hoa buổi sáng / Lòng ham danh lợi lạnh theo trận mưa đêm” trong bài thơ “Sơn Phòng Mạn Hứng” của Trần Nhân Tông.
(***) Ngày 17 tháng 3 năm Mậu Tý (18.04.1288), sau chiến thắng Bạch Đằng, triều đình nhà Trần đem các tướng quân Nguyên bị bắt làm lễ dâng thắng trận ở Chiêu Lăng (lăng vua Trần Thái Tông). Tại đây, vua Trần Nhân Tông trông thấy chân mấy con ngựa đá đều lấm bùn (vì trước đó quân Nguyên đã phá Chiêu Lăng và định đập bỏ ngựa đi mà chưa kịp), tức cảnh và xúc động, nhà vua viết hai câu thơ này. (Nguồn: wikisource.org).
Dịch nghĩa hai câu thơ trên: “Trên nền xã tắc, hai lần ngựa đá phải lao khổ mệt nhọc / Nhưng núi sông ngàn đời được vững chắc toàn vẹn như cái thố vàng.”