Hợp tuyển Frankfurt (kỳ 10)

Phạm Kỳ Đăng dịch

 

BÀI THƠ “BÊN KIA” CỦA PAUL CELAN

 

Nobert Hummelt

 

Phỏng đoán đây là bài thơ viết sớm nhất của tác giả “Tẩu khúc tử thần”: một khởi sự bậc thầy, như nhiều tác phẩm kế tiếp sau này của ông không thể diễn giải cặn kẽ, mà luôn bảo lưu điều bí ẩn của nó.

Paul Celan, nhà thơ viết nên tác phẩm thơ quan trọng nhất của tiếng Đức sau 1945 không ngừng được đưa vào mối liên thuộc với vấn đề của thơ trữ tình sau sự kiện Auschwitz. Điều này thường bó hẹp tầm nhìn vào những bài thơ của ông. Hiếm khi người ta nhớ lại, ông đã viết trước Auschwitz dưới bút danh Paul Antschel trong thế giới Cernowitz đắm chìm – thủ đô xưa kia của Bukowina Tiểu vương quốc của Đế chế quân chủ Áo – Hung vào khi ông sinh ra đã thuộc về Rumania. Tuy thế không thay đổi trong nhà của gia đình Paul Antschel mọi người nói tiếng Đức, và những trải nghiệm văn học trong nhà trường của Paul xảy ra trong ngôn ngữ này đặc biệt gắn bó ông với người mẹ tinh tế. Nơi đó thư viện riêng đồ sộ thuộc nhà Karl Horowitz, người cha của Edith Silbermann – bạn gái Paul – có ý nghĩa quan trọng. Trong hồi ký của mình bà tường thuật lại việc mình cung ứng cho ông sách quí từ tủ sách của cha mình ra sao, tất nhiên một cách bí mật, bởi sách không được phép rời ra khỏi nhà. Cổ điển, Lãng mạn, Hiện thực đã tìm con đường của mình như vậy đi tới nhà thơ đang nhen nhóm, thuộc về số đó Mörike, Hesse và những bài thơ của Heym, Trakl và George, đặc biệt người ta tôn thờ chiêm bái Rilke (1) thực sự.

 

Bài thơ “Bên kia” của Celan, dự đoán viết sớm nhất, xuất hiện khoảng năm 1939/1940 và hẳn thế được viết trong nhà Horowitz, cho ta nhận ra hơi hướng, cái khởi đầu này mới hạnh phúc, may mắn không bị che bóng và hòa hợp làm sao với các tác gia khuôn mẫu. Bài thơ, mẫu mực cho bài thơ đầu tay, đúng là một phóng tưởng bứt phá, nhưng đối ngẫu qua một sự chần chừ thả mình theo nỗi nhớ xa xôi, bởi cái địa điểm cần phải rời đi tỏ ra hầu như không ít quyến rũ hơn so với nơi xa mời gọi kẻ đến tận cùng đang còn đứng chôn chân trên ngưỡng tới. “Tận phía bên kia rặng dẻ mới là thế giới” – ngay với dòng phá đề này bung ra khỏi khối kết đóng của khổ thơ đầu tiên, câu này còn trở lại hai lần ở bài thơ giàu thanh sắc và điệp khúc, một âm hưởng đã lẩy ra, một bức tranh đã phác họa, một tình huống đã khai mở. Chỉ có ranh giới giữa sự chật chội cửa nhà và sự xa xôi kỳ ảo được gọi tên, và thế đó người ta nhìn ra một phong cảnh thơ ấu toàn phần.

 

Một câu chuyện giữa làn gió và bản thân ông

 

Đó là một khởi đầu điêu luyện, kể như câu thơ này không muốn có hơi hướng của Celan, vâng kẻ cho tới thời điểm này vẫn chưa hề có với tư cách là tác giả. Nhưng câu thơ này không thể đứng chung với Rilke, có chăng gần gụi với Huchel (2), kể cả sau chiến tranh, khi đối với chính bản thân Celan (ý) câu thơ đã trở nên bất khả. Trên bục sân khấu của bài thơ, những cây dẻ đại diện cho cây trằn ở bài ballade Vua Trằn nổi tiếng của Goethe. Đó là một giọng nói ban đêm ma quái tương tự nhỏ nhẹ hứa hẹn chút gì đó, chỉ một vị thần thiên nhiên được nhân cách hóa không xuất hiện, cả những người con gái và người cha che chở cậu bé trai cũng vắng mặt. Ở Celan, vừa mới lớn thoát tuổi cậu bé trai, đây là sự chuyện giữa làn gió và chính ông, tuy nhiên khá lạ lẫm phân chia ra một Tôi và một Hắn. Cái người bị đánh thức bởi làn “gió trong xe mây” vẫn còn là “một ai đó”, nhưng rồi có một cái Tôi tự ý thức hiện ra muốn cột trói gió vào dây xích và tuy thế không chắc chắn khá nên để cho gió mang mình đi theo hay để cho gió lôi đi.

 

Cái sự chần chừ này giải tỏa lời đố, và như thế bản thân bài thơ đầu tay của tác giả chứa đây những câu hỏi không giải đáp để sau này nhiều thế hệ các nhà ngữ văn Đức đã viết sưng tấy đầu ngón tay để diễn giải. Dương xỉ và hoa mao địa hoàng đỏ thì chắc chắn đẹp thật đấy, tại sao con người ta nên chăng không từ bỏ sự chật chội để có thể chiếm giữ được chúng? Và điều đó có nghĩa chi với ám hiệu của ngôi nhà nhỏ xuýt xoa, liệu làn gió tự thân có nên làm ra một vần nối tiếp vào đó? Chàng Paul Antschel trẻ tuổi đã dựng nên ở đây một bản dàn bè cao trào âm nhạc ngay từ đầu đã ngầm phá hủy bất cứ một cách đọc nào đơn nghĩa.

 

Và với sự hứng thú ông đã dệt nên tấm thảm âm sắc của những nhà thơ mình vừa có được trong tay. Theo cung cách đó, câu thơ “Mà thế nếu đêm nay cũng không dần sáng” gần gụi hòa kết với những câu thơ của George (3) trong bài “Năm của tâm hồn”, ở đó tương tự như vậy ngọn gió đã giỡn buông cái bản thể của mình: “Bởi chưng hạnh phúc mở lòng cho chúng ta, đến bao giờ/ Nếu giờ đây đêm đầy sao quyến rũ/ Trong vườn xanh không giành giật lại/ Nếu mùa không đủ đầy hoa rực rỡ/ nếu không được dự báo bởi ngọn gió lửa nung?

 

Làm thơ như viết tiếp những người đi trước như vậy, với Paul Celan đã không còn khả thi được nữa, sau khi người Đức đã áp giải và sát hại cha mẹ ông. Cái đêm họ bị kéo lê đi, hoảng sợ vì dự cảm của mình, ông đã nán lại chỗ Edith; cha mẹ ông đã quá kiệt sức để rời nhà mà đi. Dẫu nỗi lòng mới nặng trĩu làm sao khi ông phải hoàn toán tách mình khỏi bảng mục hình thức đa dạng và âm sắc tuyệt vời của truyền thống Đức, bằng cách nào đó bài thơ “Tẩu khúc tử thần” chỉ ra điều đó. Rõ nét hơn, bài thơ “Gần những nấm mồ”, bài ông viết năm 1944 gần trại tập trung Michailowska nơi mẹ ông bị bắn chết, đã diễn đạt “Và mẹ ơi mẹ còn dung thứ/ như khi xưa, vâng, dạo ở nhà/ vần thơ Đức êm ru, đau đớn?

 

Ông đã không đưa bài thơ hay “Bên kia” vào tập lượm lặt “Hoa Anh túc và Ký ức” sau này khiến ông nổi tiếng vào năm 1952. Nhưng sau đó ông đã đọc bài thơ cho đài truyền thanh, chính vì thế chúng ta cũng có giọng đọc của ông lưu truyền.

 

Nguồn: Frankfurter Anthologie

 

BÊN KIA

 

Paul Celan (1920-1970)

 

Tận bên kia rặng dẻ mới là thế giới

Từ đó đêm đêm tới đây một làn gió trong xe mây và ai đó đứng trên chỗ này đây…

Gió muốn mang hắn vượt qua rặng dẻ:

“Dương xỉ ở nơi ta và nơi ta mao địa hoàng đỏ!

Bên kia rặng dẻ mới là thế giới, tận bên kia…”

 

Thế rồi tôi xuýt xoa khe khẽ, như những ngôi nhà nhỏ hay làm, rồi tôi giữ lấy, rồi gió phải cưỡng lại: tiếng gọi của tôi cột gió vào cổ tay!

Tôi nghe gió trở lại trong nhiều đêm:

“Nơi ta bùng cháy lên phương xa, ở nơi mi chật chội…”

Thế rồi tôi xuýt xoa khe khẽ, như những ngôi nhà nhỏ hay làm.

 

Mà thế nếu đêm nay không trở sáng và làn gió trở lại trên xe mây:

“Dương xỉ ở nơi ta và nơi ta mao địa hoàng đỏ!”

Và muốn mang hắn ta đi qua rặng dẻ – thì tôi không, tôi không giữ gió nơi đây…

Tận bên kia rặng dẻ mới là thế giới.

 

Nguyên tác tiếng Đức:

 

DRÜBEN

 

Paul Celan (1920-1970)

 

Erst jenseits der Kastanien ist die Welt.

Von dort kommt nachts ein Wind im Wolkenwagen und irgendwer steht auf dahier…

Den will er über die Kastanien tragen:

“Bei mir ist Engelsüß und roter Fingerhut bei mir!

Erst jenseits der Kastanien ist die Welt…”

 

Dann zirp ich leise, wie es Heimchen tun, dann halt ich ihn, dann muß er sich verwehren: ihm legt mein Ruf sich ums Gelenk!

Den Wind hör ich in vielen Nächten wiederkehren:

“Bei mir flammt Ferne, bei dir ist es eng …”

Dann zirp ich leise, wie es Heimchen tun.

 

Doch wenn die Nacht auch heut sich nicht erhellt und wiederkommt der Wind im Wolkenwagen:

“Bei mir ist Engelsüß und roter Fingerhut bei mir!”

Und will ihn über die Kastanien tragen – dann halt, dann halt ich ihn nicht hier…

Erst jenseits der Kastanien ist die Welt.

 

Chú thích của người dịch:

 

Norbert Hummelt (sinh năm 1962): Nhà thơ, dịch giả và ký giả văn hóa.

(1) Các nhà thơ Eduard Friedrich Mörike (1804-1875), Hermann Hesse (1877 – 1962), Georg Heym (1887-1912), Georg Trakl (1887-1914) và Rainer Maria Rilke (1875-1926).

(2) Peter Huchel (1903-1981): Nhà thơ và Tổng biên tập tờ “Sinn und Form” (Ý nghĩa và Hình thức) của CHDC Đức, vì chống đối và bị An ninh truy bức ông bỏ sang Tây Đức năm 1978.

(3) Stefan George (1868-1933): Nhà thơ lớn người Đức, ban đầu chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng, sau chủ trường dòng thơ thuần mỹ “nghệ thuật vị nghệ thuật” quảng bá trong Tờ Nghệ Thuật (Blätter für die Kunst), rồi sau dần xa lánh, cuối cùng bản thân ông trở thành tâm điểm của một nhóm thơ có quan niệm thẩm mĩ – triết học riêng mang tên mình, “Nhóm George”.

 

Paul Celan (tên khai sinh Paul Antschel, 1920-1970): Nhà thơ viết tiếng Đức, gốc Do Thái. *Sinh tại Czernowitz, Bucovina, tỉnh lỵ của đế quốc Áo-Hung, thời còn trực thuộc Romania, nay thuộc về Ukraine * 1937- 1939: Học nghề Y tại Tours, Pháp* 1941-1945: Chạy trốn, bị cầm tù trong trại tập trung. Cha mẹ ông bị áp giải vào trại tập trung ở Transnistria, nơi cha ông chết vì thương hàn và mẹ ông bị bắn chết *Sau 1945: Làm phiên dịch trong nhà xuất bản ở Bukarest sau Thế chiến II *Năm 1947 di cư qua Vienna, sau sang Paris 1948 *Tại đây Paul Celan nghiên cứu Ngôn ngữ và Văn chương, giảng tiếng Đức tại École Normale Supérieure. 1970: Tự sát, gieo mình xuống sông Seine sau chuyến thăm Israel vào tháng Mười năm 1969.

 

 

TÂM TÌNH VỚI CÂM LẶNG – VỀ BÀI THƠ “LƯU ĐÀY” CỦA PETER HUCHEL

 

Horst Bienek

 

Trong khu vực nói tiếng Đức danh tiếng của Peter Huchel lớn. Ở đó ông xuất bản lại không nhiều hơn 100 bài thơ. Ông chẳng hề là một người cách tân, cũng chẳng là cây bút tiền phong lẫn người phê phán thời đại. Có dễ trước hết ông nhiệt thành qui thuận về truyền thống. Ông ấy là người cam chịu, và một nhà đạo đức. Không suy suyển, đĩnh đạc, giản dị, tỷ mỷ, về mặt con người cũng như về nghệ thuật. Bằng cung cách nguyên bản nhất, ông đã chứng minh, cái nhỏ có thể lớn, cái ít có thể nhiều và quê hương chật hẹp là thế giới. Luôn lặp đi lặp lại, ông đã miêu tả cái phong cảnh nơi ông xuất thân, bầu trời, cây cối, những ao hồ vùng Mark, những người dân sống nơi đó, những tình cảm thầm kín, những đồ vật giản phác.

 

Có thể đó chính là thứ nơi ông gây ấn tượng mạnh cho người đọc. Bất kể ông xuất hiện nơi đâu trong những năm cuối đời, khán phòng đầy người, già trẻ cùng đến để lắng nghe ông đọc ở đây với cái giọng nhỏ nhẹ đã trở nên đứt quãng, tóc trắng như cước chải rành rẽ vuốt trên trán, một gương mặt của Xê da, vẫn còn đẹp trong độ tuổi lão trượng.

 

Trước 1933 Huchel đã xuất bản những bài thơ đầu tay. Người ta đã có thể tính ông cùng với Wilhelm Lehmann và Elisabeth Langgässer vào những nhà ảo thuật của thiên nhiên. Ông sống theo một kiểu lưu đày nội tâm trong đế chế III. Sau chiến tranh ông trở thành người phụ trách chương trình của Đài truyền thanh Berlin và chẳng mấy chốc sau đó lĩnh nhiệm vụ Tổng biên tập của tờ tạp chí “Sinn und Form” (Ý nghĩa và Hình thức), với tờ đó ông muốn môi giới văn chương thế giới giữa phía Đông và phía Tây và bất chấp một số mối thù ghét ông đã thực hiện được mong ước này tới năm 1962. Sau đó ông bị lật đổ. Tại CHDC Đức không thứ gì ông viết ra được in ấn nữa. Ngôi nhà của ông bị mật vụ An ninh Stasi canh gác, những khách đến thăm bị đuổi về, sự đi lại sang phương Tây bị bác bỏ. Người biệt giam cấm cố của vùng Wilhelmshorst. Ông chính là người đó ròng rã 9 năm trời. Sau đó họ để ông đi. Một thời gian ông sống ở Roma, sau đó tại Satufen thuộc Breisgau, nơi ông mất năm 1981. Một giải thưởng uy tín dành cho thơ mang tên ông.

 

Bài thơ “Lưu đày”, ra đời khoảng năm 1966, mang sức lực của ngôn từ bi ai, như hàm chứa ma lực đen tối; bài thơ đạt chiều kích thực tế và mang tính sinh tồn của nó trước bối cảnh xảy ra trong tiểu sử. Tên bài mang đặc tính báo hiệu. Phong cảnh được huy động ở đây ngay lập tức có chút gì bí hiểm, đằng sau mỗi từ ẩn chứa đe dọa, sau mỗi hình tượng lởn vởn một cạm bẫy.

 

Lưu đày có nghĩa là tồn sinh một mình, tồn tại trong ruồng rẫy. Những người bạn duy nhất lui tới thăm nhà vào chiều tối là những bóng râm của những ngọn đồi. Chúng bò vào chậm chạp, phủ tối đi tất cả, từng đồ vật thứ nọ sang thứ kia, xung quanh, ở cả tâm hồn nữa. Anh muốn đi khỏi, nhưng anh không thể. Lá cây phong có khi rụng trước. Hòn đá, thứ kiên định, không khuyên anh đi khỏi đây. Và không khuyên ở lại. Nó chỉ nói, hãy trung thành. Với bản thân anh. Và như thế, kẻ bị lưu đày nói chuyện tay đôi với sự câm lặng của mình, suốt đêm trường, cho tới bình minh, cho đến lúc ánh sáng và vòm lá xanh hòa nhập thành một trước cửa sổ và tất cả tàn phai trong ánh sáng trắng của ban ngày. Không có gì được định đoạt. Không có gì thay đổi. Sự lưu đày vẫn kéo dài.

 

Không thịnh nộ, không giận dữ, chỉ buồn, nín câm, yên lặng và ý thức nán lại trung thành với chính bản thân. Như hòn đá là một hòn đá, ngọn lửa là một ngọn lửa, một chiếc lá phong là một chiếc lá phong. Chờ đợi, cho đến khi tĩnh lặng lên tiếng, sự lưu đày của giấu kín kết thúc, bóng tối trở thành lời và lời thành một bài thơ. “Trong cái ngày tôi rời đi”, như sau này ông viết trong một bài thơ khác,” những con quạ lánh đi… một hơi băng giá quét qua gian kho chứa của lời.”

 

Người ta có thể đọc điều đó như một bi ca của thiên nhiên. Và ở đó chính là một bài thơ chính trị xuất sắc. Tiêu đề giản chiết luôn gợi ta nhớ về điều đó.

 

Nguồn: Horst Bienek, aus Marcel Reich-Ranicki (Hrsg.): Một trăm bài thơ của thế kỷ, 2000 – Hundert Gedichte des Jahrhunderts, Insel Verlag, 2000

 

LƯU ĐÀY

 

Peter Huchel (1903-1981)

 

Những người bạn lại gần khi chiều xuống

– Ấy những bóng đổ từ những ngọn đồi.

Chúng chậm rãi bò qua bậu cửa,

phủ đen muối,

phủ tối bánh mỳ,

và chuyện trò với nỗi niềm tôi câm lặng.

 

Ngoài kia làn gió thoáng đưa

Trong lùm phong Na Uy;

Chị gái tôi hứng nước mưa

vào máng đá vôi,

sững sờ nhìn theo

những đám mây trời.

 

Hãy đi cùng gió!

Những bóng râm nói.

Mùa hè đặt lưỡi liềm sắt

lên trái tim anh.

Đi đi, trước khi

chứng tích của mùa thu

bùng cháy trong lá phong.

Hãy thủy chung, hòn đá nói.

Bình minh le lói

dâng lên, nơi ánh sáng và

vòm lá sống trong nhau

và gương mặt tàn phai

trong một ngọn lửa.

 

Nguyên tác tiếng Đức:

 

EXIL

 

Peter Huchel (1903-1981)

 

Am Abend nahen die Freunde,

die Schatten der Hügel.

Sie treten langsam über die Schwelle,

verdunkeln das Salz,

verdunkeln das Brot

und führen Gespräche mit meinem Schweigen.

 

Draußen im Ahorn

regt sich der Wind;

Meine Schwester, das Regenwasser,

in kalkiger Mulde,

gefangen

blickt sie den Wolken nach.

 

Geh mit dem Wind,

sagen die Schatten.

Der Sommer legt dir

die eiserne Sichel aufs Herz.

Geh fort, bevor im Ahornblatt

das Stigma des Herbstes brennt.

Sei getreu, sagt der Stein.

Die dämmernde Frühe

hebt an, wo Licht und Laub

ineinander wohnen

und das Gesicht

in einer Flamme vergeht.

 

Chú thích của người dịch:

 

Horst Bienek (1930-1990): Nhà văn Đức, sau chiến tranh định cư ở vùng chiếm đóng Xô viết (CHDC Đức sau này). Viết thơ cho tạp chí “Sinn und Form”. Năm 1951 bị An ninh quốc gia Stasi bắt, và một tòa án quân sự xô-viết tuyên 20 năm khổ sai vì cáo buộc gọi là “tuyên truyền chống xô-viết và làm gián điệp cho Mỹ”. Sau 4 năm lao động khổ sai tại trại gulag Workuta (Liên Xô), ông được ân xá vào năm 1955. Tại CHLB Đức, quốc gia đón nhận, ông viết văn, làm giám đốc nhà xuất bản dtv (Deutscher Taschenbuch-Verlag) và phụ trách ban văn chương của Viện Hàn lâm Nghệ thuật Bavaria.

 

Peter Huchel (1903-1981): Nhà thơ và Biên tập viên văn học.

Tiểu sử: 1903: Sinh tại Lichterfelde gần Berlin

1923-1926: Nghiên cứu Văn chương và Triết học tại Berlin và Vienna

1930-1936: In thơ và văn xuôi trên những tạp chí văn chương quen thuộc: “Die literarische Welt”, “Das Innere Reich”, “Die Kolonne” và “Vossische Zeitung”.

1932: Giải thưởng thơ của tạp chí “Kolone” cho tập thơ “Der Knabenteich” (Hồ của những cậu trai)

1934: Lập gia đình với Dora Lassel. Chia tay nhau năm 1946. 1953 Lập gia đình với Monica Rosenthal.

1934-1940: Viết kịch tương thanh cho đài truyền thanh Berlin và Làn sóng ngắn Đức.

1941-1945: Nghĩa vụ quân sự, phục dịch trong ngành không quân, cho đến khi bị bắt vào trại giam Xô viết.

1945-1948: Làm ở đài truyền thanh Đông Berlin, ban đầu với tư cách đạo diễn và từ 1947 giám đốc Đài phát thanh và Giám đốc nghệ thuật.

1948: In các sáng tác từ 1925 thành tập “Những bài thơ”.

1949-1962: Tổng biên tập của tờ tạp chí danh tiếng “Sinn und Form” (Ý nghĩa và Hình thức) của Viện Hàn lâm Nghệ thuật Berlin.

1951: Giải thưởng quốc gia của DDR. Từ 1956 đại diện DDR tại Biennale thơ ca quốc tế.

1953: Bị o ép từ chức Tổng biên tập “Sinn und Form”. Nhờ sự can thiệp của Bertolt Brecht, chính quyền phải làm ngơ.

1961: Sau khi dựng bức tường Huchel bị tấn công vì quan điểm nghệ thuật động chạm đến hệ thống.

1962: Từ chức Tổng biên tập “Sinn und Form” (Ý nghĩa và Hình thức).

1963: Tập thơ “Chausseen, Chausseen” xuất bản ở Tây Đức, ông được trao giải thưởng Theodor-Fontane của Tây Berlin.

1963-1971: Sau khi ông từ chối sự cưỡng bức phải chối bỏ giải thưởng Theodor Fontane, ông bị Stasi (An ninh quốc gia) theo dõi và cô lập. Ông bị cấm xuất bản và cấm ra nước ngoài, từ 1968 bị tịch thu thư tín.

1965: Không được rời DDR để đảm chức thỉnh giảng về thơ ca tại trường Tổng hợp Frankfurt/Main cũng như nhận Giải thưởng lớn của bang Nordrhein Westfalen.

1971: Nhờ có sự can thiệp của Viện Hàn lâm Nghệ thuật Tây Berlin và Chủ tịch Trung tâm Văn bút quốc tế của Đức Heinrich Böll ông được rời DDR. Ông định cư tại Staufen bei Freiburg, xuất bản tập thơ “Những ngày tính đếm”.

1976 – 1979 Nhận nhiều giải thưởng văn chương danh giá (Giải Jacob-Burckhardt và Giải Eichendorff).

1979: Được bầu làm Viện sĩ Viện Hàn lâm Nghệ thuật Bavaria và Viện Hàn lâm Thơ ca và Ngôn ngữ Darmstadt. Từ 1984 công bố giải thưởng văn chương mang tên ông.

Peter Huchel mất năm 1981.

 

©® Phạm Kỳ Đăng và Văn Việt

 

 

Comments are closed.