Thơ Bertolt Brecht về chiến tranh

Pháp Hoan tuyển dịch

KHẨU HIỆU

Trong những thời kỳ đen tối
Sẽ có những bài hát được cất lên?
Đúng vậy, sẽ có những bài hát được cất lên.
Hát về những thời kỳ đen tối.

MOTTO

In den finsteren Zeiten

Wird da auch gesungen werden?

Da wird auch gesungen werden.

Von den finsteren Zeiten.

*

ĐẠI TƯỚNG, XE TĂNG CỦA NGÀI LÀ MỘT CHIẾC XE THẬT MẠNH MẼ

Đại tướng. Xe tăng của ngài là một chiếc xe thật mạnh mẽ
Nó làm rạp cả cánh rừng và nghiền nát một trăm người.
Nhưng nó có một khuyết điểm:
Nó cần một người lái.
Đại tướng, máy ném bom của ngài thật mạnh mẽ.
Nó bay nhanh hơn một cơn bão và mang nặng hơn một con voi.
Nhưng nó có một khuyết điểm:
Nó cần một thợ cơ khí.
Đại tướng, con người thời rất hữu ích.
Hắn có thể bay và hắn có thể giết.
Nhưng hắn có một khuyết điểm:
Hắn biết nghĩ.

GENERAL, DEIN TANK IST EIN STAKER WAGEN.

Er bricht einen Wald nieder und zermalmt hundert Menschen.

Aber er hat einen Fehler:

Er braucht einen Fahrer.

General, dein Bomberflugzeug ist stark.

Es fliegt schneller als ein Sturm und trägt mehr als ein Elefant.

Aber es hat einen Fehler:

Es braucht einen Monteur.

General, der Mensch ist sehr brauchbar.

Er kann fliegen und er kann töten.

Aber er hat einen Fehler:

Er kann denken.

*

NIỀM AN ỦI TỪ NGÀI THỦ TƯỚNG

Sau những thất bại nặng nề không muốn có
Ngài thủ tướng lại đưa ra bài phát biểu hùng hồn
Để vực dậy niềm tín thác từ đám đông theo dõi.
Như một người thợ gặt, ai đó nói
Luôn ưa thích những cây lúa đứng thẳng hàng.

TROST VOM KANZLER

Nach schweren Schicksalsschlaegen

Pflegt der Kanzler durch eine grosse Rede

Seine Anhaenger wieder aufzurichten.

Auch der Schnitter, heisst es

Liebt die aufrichtigen Aehren.

*

THẰNG CON TRAI TÔI HỎI

Thằng con trai tôi hỏi: Con có cần học Toán?
Để làm gì, tôi muốn nói. Rằng hai lát bánh mì thời hơn một
Đó là điều sớm muộn gì mày cũng rõ
Thằng con trai tôi hỏi: Con có cần học tiếng Pháp?
Để làm gì, tôi nghĩ. Đất nước này đã đến hồi sụp đổ.
Mày chỉ cần xoa tay lên bụng mà rên
Và điều mày muốn nói, người nào cũng tỏ
Thằng con trai tôi hỏi: Con có nên học Sử?
Để làm gì, tôi muốn nói. Hãy học cách cắm đầu xuống đất
Thời may ra mày có thể sống sót
Đúng rồi, phải nên học Toán, tôi bảo
Và cả Pháp văn, cả thêm Lịch Sử

MEIN JUNGER SOHN FRAGT MICH: Soll ich Mathematik lernen?
Wozu, möchte ich sagen. Daß zwei Stücke Brot mehr ist als eines
Das wirst du auch so merken.

Mein junger Sohn fragt mich: Soll ich Französisch lernen?
Wozu, möchte ich sagen. Dieses Reich geht unter. Und
Reibe du nur mit der Hand den Bauch und stöhne
Und man wird dich schon verstehen.

Mein junger Sohn fragt mich: Soll ich Geschichte lernen?
Wozu, möchte ich sagen. Lerne du deinen Kopf in die Erde stecken
Da wirst du vielleicht übrigbleiben.

Ja, lerne Mathematik, sage ich
Lerne Französisch, lerne Geschichte!

*


CUỘC CHIẾN ĐANG ĐẾN

Cuộc chiến đang đến
Không phải là cuộc chiến đầu tiên
Đã từng có
Những cuộc chiến trước đó.
Khi cuộc chiến cuối cùng đến hồi kết thúc
Có những kẻ chinh phạt và những kẻ bị chinh phạt
Giữa những kẻ bị chinh phạt.
Thường dân chết đói
Giữa những kẻ chinh phạt
Thường dân cũng chết đói.

Der Krieg, der kommen wird

Der Krieg, der kommen wird

Ist nicht der erste. Vor ihm

Waren andere Kriege.

Als der letzte vorüber war

Gab es Sieger und Besiegte.

Bei den Besiegten das niedere Volk

Hungerte. Bei den Siegern

Hungerte das niedere Volk auch.

*

THỜI TỒI TỆ CHO THƠ TRỮ TÌNH

Dẫu biết rằng: chỉ những ai hạnh phúc
Mới được yêu được quý. Giọng của anh
Thiên hạ ưa nghe. Mặt của anh
Thiên hạ lại ưa nhìn.
Cái cây què quặt ở trong sân
Chứng tỏ nền đất cằn cỗi, thế nhưng
Người qua đường lại chửi cái cây què
Mà chửi cũng phải thôi.
Những chiếc thuyền xanh và những cánh buồm vui
Trên eo biển tôi không nhìn thấy chúng. Tôi chỉ thấy
Cái lưới thủng của ngư dân.
Tại sao tôi chỉ nói
Về người đàn bà bốn mươi tuổi lụ khụ bước đi?
Và những bộ ngực của thiếu nữ xuân thì
Vẫn như xưa, ấm áp.
Gieo một vần vào bài hát
Gần như là một điều ngạo mạn.
Bên trong tôi chứa đựng
Sự hào hứng khi cây táo dại đơm hoa
Và sự hãi hùng trước những lời nói ra
Trong bài phát biểu của ”tay hoạ sĩ”. *
Nhưng chỉ điều thứ hai
Mới khiến tôi cầm bút.

Schlechte Zeit für Lyrik

Ich weiß doch: nur der Glückliche

Ist beliebt. Seine Stimme

Hört man gern. Sein Gesicht ist schön.

Der verkrüppelte Baum im Hof

Zeigt auf den schlechten Boden, aber

Die Vorübergehenden schimpfen ihn einen Krüppel

Doch mit Recht.

Die grünen Boote und die lustigen Segel des Sundes

Sehe ich nicht. Von allem

Sehe ich nur der Fischer rissiges Garnnetz.

Warum rede ich nur davon

Daß die vierzigjährige Häuslerin gekrümmt geht?

Die Brüste der Mädchen

Sind warm wie ehedem.

In meinem Lied ein Reim

Käme mir fast vor wie Übermut.

In mir streiten sich

Die Begeisterung über den blühenden Apfelbaum

Und das Entsetzen über die Reden des Anstreichers.

Aber nur das zweite

Drängt mich, zum Schreibtisc

* Ám chỉ Hitler. Nguyên tác là gã thợ sơn.

Comments are closed.