Thơ Đặng Tiến (Thái Nguyên)

 A. SEKHOV

 

Chắc chắn ông không thể hình dung

Hết thập niên thứ hai thế kỉ 21

Những gì ông viết trăm năm trước

Vẫn đầy nhóc

Trên xứ sở từng được gọi Quốc gia Pháp ngữ

Ánh sáng, Tiến bộ, Văn minh

Đọc những gì ông viết

Cay đắng làm sao

Hờn tủi làm sao

Nhợt nhạt làm sao

Đời là thế thật quá đỗi tầm phào

Sự tầm phào tiêu mòn sinh khí

Tiếng cười cũng phải khe khẽ

Niềm vui cũng phải cầm chừng

Lời tỏ tình cũng không dám vang ngân

Tiếng khóc, cả tiếng khóc cũng cầm chừng

Không thành tiếng

Chim hải âu lờ đờ bay

Những con người lờ đờ sống

Béo tốt và gầy guộc

Phú quý và ăn mày

Đám trí thức tâm hồn nghèo xơ xác

Những viên chức tép riu môi trễ mắt cụp héo hắt

Người sống, sống hiu hiu tẻ ngắt

Người chết, chết âm thầm lặng lặng

Những thây ma sống

Những người sống thây ma

Nỗi buồn cơm áo

Ôi! Còn có nỗi buồn

Còn có nỗi lo

Còn có bất hạnh

Trời ơi kinh hoàng niềm vui miếng ăn

Trái phúc bồn tử chua lè

Là cả một nỗi niềm

Là cả một hạnh phúc

Một món mứt trở thành lẽ sống

Cây trong vườn ước vọng thiêng liêng

Miếng ăn cầm tù nhân gian

Hiu quạnh quá

Chỉ nghĩ thôi mà muốn khóc

Chỉ nghĩ thôi thấy ngạt thở suốt trăm năm…

A. Sekhov

Chắc chắn ông không hề biết

Xứ An Nam nay gọi Việt Nam

Phận người như rác

Như cây cỏ như mây trôi bèo dạt

Miếng ăn bằng trời

Miếng ăn bằng đất

Trăm năm cõi người

Sống như chết

Và chết thì như sống

Luẩn quẩn cõi người cõi ma

Vẫn rau dưa mắm muối tương cà

Vũ trụ luận bát cơm quả trứng

….

Đang viết dở, phải ăn cơm.

Cơm cấp bách hơn thơ./.

 

NHỚ A. SEKHOV

 

Tôi hình dung

Gương mặt ông lúc nào cũng đượm buồn

Nụ cười héo hắt

Cặp kính cận che bớt đôi mắt như đang ngơ ngác

Vô vàn điều khiến ông bối rối

Toàn những chuyện tầm phào

Toàn những chuyện tào lao

Toàn những chuyện thường ngày nhỏ mọn

Toàn những chuyện nhí nhắt không thể gọi tên

Toàn những chuyện điên rồ và ngu ngốc

Toàn những chuyện mọc ra từ cuộc đời thường nhật mênh mông hoàng hôn xám nhạt

Toàn những chuyện trong cõi người nửa đáng thương và nửa thì đáng ghét

Thậm chí đôi khi hoàn toàn đáng ghét

Những cô nàng đỏm dáng

Những anh béo anh gầy

Những viên chức quèn nhát nhúa

Những nhân viên nhà nước về hưu với thói quen quái gở

Những nhà giáo nửa hiền lành nửa ma ranh nửa trí thức nửa lưu manh vặt

Những …

Những…

Những…

Thập loại chúng sinh nhẫn nại sống trong ngôi nhà cửa quanh năm bưng bít

Thập loại chúng sinh sợ nắng ban mai, sợ tuyết lạnh đầu mùa, sợ mùa xuân tưng bừng hoa nở, sợ mùa hè nắng chói chang, sợ mùa thu lãng mạng và sợ mùa đông dài xám ngăt

Thập loại chúng sinh như những thây ma chưa kịp chết và cũng chưa kịp sống…

Ngòi bút của ông cứ thủng thẳng kể

Cứ thủng thẳng tái sinh trên những trang viết

Cái nước Nga mênh mông ngột ngạt

Cái nước Nga ngột ngạt mênh mông

Những người Nga cao quý và đê tiện

Những người Nga dũng cảm và hèn nhát

Những người Nga nhăn nheo già và ngu ngơ trẻ

Những người Nga…

Một cánh chim hải âu cũng đủ khiến họ mừng vui

Một khóm phúc bồn tử trái chua chua chát chát cũng khiến họ đợi chờ

Những chàng trai trẻ thở dài thở dài ngao ngán

Những trí thức thiu thiu buồn thê thảm

Thói nô lệ hiện hình trên nét mặt trên giọng nói trên nụ cười trên cái nhìn trên dáng vẻ

Trời đất thói nô lệ hóa thành bầu khí quyển

Thói nô lệ quánh đặc khắp nơi nơi…

Anton Pavlovich Chekhov!

Trăm năm đọc lại

Trời ơi!

 

TỰ DO

[Nhớ bài thơ LIBERTÉ của P. Éluard]

 

Tự do của mỗi Dân tộc

Tự do của mỗi Con người

Được luận bàn bằng ngôn từ

Chân thật hoặc hoa mĩ

Trơn tru hoặc ngọng nghịu

Tự do

Tự do

Tự do

Tự do không bao giờ tự đến

Tự do không bao giờ xin được

Tự do không phải là của bố thí

Tự do chỉ có Chúa ban tặng

Ban tặng cho những Con người dũng cảm

Ban tặng cho những Dân tộc dũng cảm

Và Chúa sẽ lấy đi

Khi sự Hèn nhát bắt đầu

Tự do không thể có được

Chỉ bằng lời

Tự do phải được bảo vệ bằng Công lí

Công lí phải được bảo vệ bằng Vũ khí

Ngôn từ khi ấy

Cũng phải trở thành vũ khí….

Một Con người dũng cảm

Một Dân tộc dũng cảm

Xứng đáng có Tự do

Khi biết đáp trả bạo quyền

Khi biết đáp trả

Khi biết đáp trả

Tự do!

Tự do!

Tự do!

Không ra đời từ nòng súng!

Nhưng Tự do cần được bảo vệ

Bằng súng

Trong tay những con người dũng cảm!

Tự do!

Khi ấy

Có khi phải đổi bằng máu!

 

THƠ VỀ CÁI QUÁI DỊ

[Tự nhiên nhớ Nhà thơ Charles Pierre Baudelaire – tác giả Những bông hoa Ác]

 

Một cái xác bốc mùi

Đang tự hủy

Phơi trần trần dưới ánh sáng mặt trời

Bên rìa đường tấp nập người nhìn và đi về phía trước

Xác chết, ừ chưa phải là xác chết

Nó vẫn sống, hình như còn rất lâu

Nhung nhúc dòi bọ béo múp

Những con dòi sinh ra từ đó…

Những con dòi những con dòi ghê tởm

Đục khoét tới xương tủy nhưng chúng khôn ngoan

Tạm thời chừa não và tim…

Cái cái xác phân hủy dần

Nhưng sẽ sống lâu

Rất lâu

Lâu đến như là tất yếu

Người ta đắp điếm lên cái xác rìa đường

Bằng đủ thứ

Kinh nhất là bằng ngôn từ

Cái xác thối được huyền thoại hóa

Là Khủng long, là Đại bàng, là Mãnh sư, là Mãnh hổ

Người ta tẩn mẩn tìm diệt dòi bọ

Với niềm tin

Con vật bẩn thỉu kia lại sẽ…

Trở lại như xưa

Đại bàng, Khủng long, Mãnh hổ, Mãnh sư

Người ta tin là thế

Ôi kinh hoàng cái xác không chịu chết bên đường.

 

CAO BÁ QUÁT

 

Ông không hài lòng và phản kháng

Hình như theo lề lối cũ?!

Giấc mơ Đường Ngu Nghiêu Thuấn

Mộng phù Lê như lá úa cuối mùa

Như cờ rách nát khi tàn cuộc

Như ánh hoàng hôn le lói nhạt nhòa

Dũng cảm hay liều lĩnh đi theo lối cũ?

Kiêu hãnh hay là gàn dở?

Sự dũng cảm của những người gàn dở

Sựu kiêu hãnh của những người liều lĩnh

Chân dung Cao Chu Thần

Chân dung một thời khốc hại

Chân dung trái ngang của một thời u mê tăm tối

Chân dung ủ ê buồn án tru di

Ba họ vạ lây đầu rơi máu chảy

Ba họ vạ lây vì lòng dũng cảm đến gàn dở

Vì sự kiêu hãnh đến liều lĩnh

Ba họ có tội tình gì?

Án tru di thảm khốc

Thảm khốc án tru di

Tiếng than ai oán vọng âm Cao Bá Nhạ…

 

Một đời theo sách thánh hiền

Thánh hiền cuối mùa chữ nghĩa thành xiềng xích

Chữ nghĩa quấn chặt

Ba bồ chữ hóa thành gánh nặng

Ba bồ chữ không cứu được mạng người

Ba bồ chữ trở thành nhảm nhí

Uổng công tụng niệm

Uổng công sinh ra làm người….

Ta kẻ hậu sinh

Đọc Cao Bá Quát

Lòng không thể dửng dưng

Nhưng chật đầy những nỗi phân vân

Ngợi ca, ta không thể!

Chê trách, ta không nỡ!

Sinh nhầm thời ư? Câu cửa miệng cũ mèm!

Chỉ thấy tiếc cho một người tài đã chọn nhầm lí tưởng

Đường Ngu Nghiêu Thuấn ảo tưởng xa vời….

 

 TRẦN KHÂM (TRẦN NHÂN TÔNG)

 

Đang ngồi ngai vàng, ông bỏ tất

Triều đình ư? Đầy mưu hèn kế bẩn

Ngai vàng ư? Chiếc dép rách làm khốn nạn bao kiếp nhân sinh

Thế là đủ, ông về với núi với rừng với mây với gió với suối trong với trăng thanh….

Thật đáng ghét lũ đàn bà nhũng nhẵng bám theo rồi tự tìm cái chết

Nhưng chưa bằng lũ lũ hậu sinh

Lũ lũ hậu sinh khốn nạn khôn cùng

Thêu dệt và tấn phong

Trần Khâm – tên cha mẹ đặt mất hút giữa vô vàn lòe loẹt danh xưng

Pháp Thiên Sùng Đạo Ứng Thế Hóa Dân Long Từ Hiển Hiệu Thánh Văn Thần Võ Nguyên Minh Duệ Hiếu Hoàng Đế!

Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu Đà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật!

Kinh nhất là danh xưng Phật Hoàng!

Tượng của ông lại ngự trên dép rách!

Vinh danh tận cùng

Khốn nạn tận cùng 

Phù vân mây bay bay mãi

Trời xanh cao vời vợi

Hậu sinh nào ai đã ngẩng đầu

Hậu sinh cúi đầu khom lưng quỳ gối vái lạy

Hậu sinh mấy ai còn đọc Cư trần lạc đạo…

Hậu sinh mê đắm cõi ta bà

Nhấn chìm Trần Khâm trong thói xa hoa

Nhấn chìm Trần Khâm trong biển ngôn từ màu mè giả vờ cao siêu bí ẩn

Ngài trở thành nguồn đầu cơ vô tận

Nơi nhân gian huỵch toẹt

Ai muốn ăn oản thời năng lên chùa

Ai cần ăn oản thời chăm thờ Phật

Trần Khâm! Ôi Trần Khâm nghiệp chướng mấy trăm năm ngày mỗi ngày thêm dày!

Yên Tử mang mang mây khói

Yên Tử xa vời thăm thẳm suối khe

Yên Tử

Đỉnh phù vân

Mây cứ bay đừng bận tâm cõi nhân gian đầy bụi.

 

Đ.T

Comments are closed.