Thơ Đặng Tiến (Thái Nguyên)

ĐỂ NHẠI MỘT THÀNH NGỮ VIỆT

Tặng chị

Nguyễn Thị Giáng Vân

.===

Xưa cùng chung một nhà

Một vườn

Một ruộng

Một làng

Nơi có thần cây đa

Có ma cây gạo

Có cú cáo cây đề

Mẹ hát con khen hay, rất hay và hay nhất

Nay

Thấy mẹ vẫn hát

Hát miên man, hát tối ngày, tối trời, tối đất

Hát triền miên, khản cổ, ho hen vẫn hát

Hát và hát và hát và hát

Kể lể công lao công tích, rất là kì

Có ít xít ra nhiều, không có bịa ra cho có

Vơ véo quàng xiêng, hú họa, tào phào

Những đứa con nghe mẹ hát năm nao năm nảo năm nào

Gần như vô cảm

Mẹ muốn con cười thì chúng mếu chúng khóc

Mẹ muốn lấy từ con nước mắt

Chúng lại toét miệng cười

Mẹ hát mẹ hát và mẹ hát

Diễn ra toàn những chuyện ngược đời

Mẹ càng hát cây càng rụng lá

Bụi vẩn lên đầy trời

Nước sông sủi tăm không phải là tăm cá

Biển ngầu bọt chết chóc

Rừng cháy rần rần lửa tung tóe nơi nơi

Mẹ hát à ơi

Ơi à rồi lại à ơi

Thôi rồi rồi thôi

Mẹ tự khen mẹ nhé

Nếu có tiền thì thuê.

 

BIỂN ĐÔNG DẬY SÓNG

Thơ trở thành nhảm nhí

Tổ Quốc có thể/nên nhìn từ chữ kí

Ở Trung Nam Hải và tòa Bạch Cung

Thơ nhung nhăng hết giải thưởng này đến giải thưởng khác

Hóa khùng

Tổ Quốc ngoài Biển Đông đang đối mặt

Những trận cuồng phong, những dục vọng điên cuồng

Nhà thơ lửng khửng thì thào lào khào nhẽo nhợt

Đứng trên bờ khóc điệu ngẩn ngơ sầu

Biển Đông Biển Đông

Tổ Quốc bị khủng bố

Thơ khóc than chán vãi cả hồn.

 

THƠ VỀ LOÀI VẸT

Ông bạn tôi, nhà thơ, độc đáo, khác lạ

Có lần than kinh sợ nhất là lũ người-vẹt

Tôi cười buồn tỏ ý… ngờ ngờ

Người vẹt vẹt người… xem chừng cũng thấm chất thơ

Thậm chí

Còn có cả chất hùng ca, bi ca, tráng ca, hoan ca, tình ca nữa

Vẹt đã trở thành ngôn phong

Trở thành văn phong

Trở thành họa phong, nhạc phong

Vẹt thấm nhuần, nhuần thấm, thấm đượm, thấm sâu

Người trẻ nói như vẹt già khú đế

Người già nói như vẹt trẻ nghênh ngang ngạo nghễ

Người không trẻ không già nói như vẹt ngẩn ngơ

Tiếng vẹt vang vang, hùng hồn, hào hứng, hổn hển, ỷ eo, uôm ao, ạt ào, láo nhào

Vẹt xanh đỏ tím vàng nhộn nhịp

Vẹt đỏ rực như đám cháy rừng

Vẹt đỏ lòm lòm màu máu

Vẹt thẽ thọt ỏn thót nịnh nọt nhẽo nhèo

Vẹt lộn lèo, lộn nhào… thành văn thơ báo bổ tràng giang đại hải

Này vẹt khốn nạn kia ơi

Đập một nhát chết tươi.

 

BAO GIỜ

Để nhại ca dao có mô hình "Bao giờ…"

====

Bao giờ 51% người Việt

Nhiều hơn càng tốt

Nhận ra chân lí từ câu nói dân gian

Ngang ngang, có vẻ ngang ngang

Nhưng không gian, không mánh mung chi hết

Rằng

"Chung quy chỉ tại Vua Hùng /Hung King

Đẻ ra một lũ vừa khùng vừa điên"!

Bao giờ 51% người Việt

Nhiều hơn càng tốt

Nhận ra chân lí từ câu nói có vẻ dân gian

Tuy gian gian nhưng lại là rất thật

Rằng

Bầu ơi thương lấy bí cùng

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn

Là câu bi thương nhất

Buồn thương nhất

Vì người Việt mình chẳng bao giờ có tình thương

Thương miệng và thương môi

Xa thương còn gần thì thường

Chuyên nói lời đãi bôi

Chót lưỡi và đầu môi

Bao giờ 51% người Việt

Nhiều hơn càng tốt

Nhận ra rằng có một sự thật

Chẳng ai dám nói ra

Không ai dám hé môi

Chỉ thầm thì xó bếp, rất mệt

Vua vịt vua gà

Vua bà vua ông

Vua chạy lông nhông

Kết cục

Không khi nào có vua

Toàn thấy giặc là giặc

Đắc thắng

Làm vua

Ngai vàng đẫm máu

Kinh đô đầy gươm giáo

Mưu hèn kế bẩn tàn hại lẫn nhau

Bao giờ 51% người Việt

Nhiều hơn càng tốt

Nhận ra

Nhận ra

Nhận ra

 

RỒNG…

Những con rồng tuyệt tự

Chẳng còn một mống nào

Nguồn gen quý, mất tiêu

Vô tăm tích

Đám nghệ sĩ oách xà ngầu và oách xà lách

Tạc rồng đá dựng khắp nơi

Chạm rồng lên chuông vàng khánh bạc và gỗ quý

Để hù dọa người

Rồng chết xác ẩn hiện

Sau những đám mây ngôn từ rối rắm

Cực kì khủng bố

Kinh hơn ma trơi

Kinh hơn ngoáo ộp

Ô rồng này rồng kìa rồng

Mi oách xà ngầu

Cho mi thành rồng lộn xuống ao

Ô nhiễm

Cho mi lộn cổ xuống sông đã và đang chết

Nước đen ngòm

Rồng đá chìm sâu đáy bùn

Rồng gỗ mục mòn rữa nát

Rồng đất tan ra lại trở về bùn đất

Những con rồng tuyệt tự

Nguồn gen quý mất tiêu

Hết trứng rồng… thì xài trứng liu điu

Nở ra rồng thời a còng a cong gì đó

Vô giá và không có giá

Rồng ơi!

 

DỬNG DƯNG

Dửng dưng là thái độ của những người

Thường bị / được đám / số đông chê bai ỷ ôi là vô cảm

Dửng dưng hình như cũng được gọi là lãnh đạm

Dửng dưng nghĩa là không nhảy tưng tưng

Không náo nhiệt

Không tưng bừng

Không nổ đùng

Không lửa rơm ngụt ngụt

Dửng dưng

Ồ hóa ra luôn thuộc về số ít

Bên rìa, bên ngoài

Vì thế gọi là dửng dưng

Những người dửng dưng

Thường là thiện lành

Thường hay lo những hệ lụy âm tính

Những người dửng dưng

Rất ít khi và có thể chẳng bao giờ

Xung phong xung thiên xung kích

Làm anh hùng, yêng hùng hay làm kẻ sát nhân

Những người dửng dưng

Thường lặng im

Không làm rác tai nhức mắt

Người dửng dưng là người tốt

Họ cũng dửng dưng với lời khen

Còn những lời chê bai

Đương nhiên

Dửng dưng

Và dửng dừng dưng.

Comments are closed.