Thơ Georg Trakl

Pháp Hoan dịch từ nguyên tác tiếng Đức

 

 

Một Tối Mùa Đông

 

Khi tuyết rơi dày lên các ô cửa sổ,

Và tiếng chuông chiều vang vọng hồi lâu,

Bàn đã bày sẵn cho những kẻ đến sau

Trong căn nhà nhỏ gọn gàng, tươm tất.

 

Trên những lối đi đêm đen dày đặc

Một lữ khách tìm đến trước cổng nhà.

Cây ân phước trong bóng tối đơm hoa

Từ chất sáp sâu trong lòng đất lạnh.

 

Người lữ khách bước vào trong im lặng;

Qua bậc cửa hóa đá bởi niềm đau.

Ánh sáng thanh khiết chiếu xuống từ trên cao

Trên chiếc bàn tròn: bánh mì và rượu đỏ.

 

 

Ein Winterabend

 

Wenn der Schnee ans Fenster fällt,

Lang die Abendglocke läutet,

Vielen ist der Tisch bereitet

Und das Haus ist wohlbestellt.

 

Mancher auf der Wanderschaft

Kommt ans Tor auf dunklen Pfaden.

Golden blüht der Baum der Gnaden

Aus der Erde kühlem Saft.

 

Wanderer tritt still herein;

Schmerz versteinerte die Schwelle.

Da erglänzt in reiner Helle

Auf dem Tische Brot und Wein.

 

*

 

Vào Mùa Đông

 

Trên cánh đồng sáng một màu trắng lạnh

Dưới bầu trời cô quạnh và mênh mông

Lũ quạ đen trên ao nước bay vòng

Đám thợ săn âm thầm đi xuống núi.

 

Niềm thinh lặng trên ngọn cây buổi tối

Lửa chập chờn trong mái lá hắt ra

Chuông tuần lộc vọng đến từ nơi xa

Trăng xám ngắt đang mọc lên chậm rãi.

 

Hươu nằm chết bên ruộng nương êm ái

Quạ vẫy vùng trong những rãnh máu tanh

Hơi khói vàng xao động đám cỏ tranh

Tiếng bước chân dẫm trong khu rừng vắng.

 

 

Im Winter

 

Der Acker leuchtet weiß und kalt.

Der Himmel ist einsam und ungeheuer.

Dohlen kreisen über dem Weiher

Und Jäger steigen nieder vom Wald.

 

Ein Schweigen in schwarzen Wipfeln wohnt.

Ein Feuerschein huscht aus den Hütten.

Bisweilen schellt sehr fern ein Schlitten

Und langsam steigt der graue Mond.

 

Ein Wild verblutet sanft am Rain

Und Raben plätschern in blutigen Gossen.

Das Rohr bebt gelb und aufgeschossen.

Frost, Rauch, ein Schritt im leeren Hain.

 

*

 

Mùa Hè

 

Buổi chiều lặng tiếng thở than

của chim cu trong rừng vắng.

Hạt lúa chín nặng cúi mình

bông anh túc đỏ thắm.

 

Có tiếng sấm đen rúng động

trên ngọn đồi xa.

Bài ca của con dế nhỏ,

chết trên đồng rộng bao la.

 

Gió về trong tán cây dẻ

bỗng dứt tiếng thì thào.

Váy áo ai kêu sột soạt

phía cầu thang cao.

 

Cây nến chiếu sáng im lìm

trong căn phòng kín;

bàn tay bằng bạc vươn ra

dập tắt ánh nến;

 

đêm không sao, lặng gió.

 

 

Sommer

 

Am Abend schweigt die Klage

des Kuckucks im Wald.

Tiefer neigt sich das Korn,

der rote Mohn.

 

Schwarzes Gewitter droht

über dem Hügel.

Das alte Lied der Grille

erstirbt im Feld.

 

Nimmer regt sich das Laub

der Kastanie.

Auf der Wendeltreppe

rauscht dein Kleid.

 

Stille leuchtet die Kerze

im dunklen Zimmer;

eine silberne Hand

löschte sie aus;

 

windstille, sternlose Nacht.

 

 

*

 

De profundis (*)

 

Có một cánh đồng trơ rạ, nơi cơn mưa đen đổ xuống.

Có một cội cây nâu thẫm, đứng đó lẻ loi.

Có một cơn gió rít, xoay quanh căn chòi trống –

Sao buồn quá chiều nay.

 

Bên kia xóm nhỏ

Cô gái mồ côi dịu dàng còn mót những bông lúa cuối.

Mắt cô tròn xoe và vàng rỡ trong buổi hoàng hôn

Và lòng cô ngóng đợi tình lang từ chốn thiên đường.

 

Khi trở lại nhà

Những người chăn cừu bắt gặp tấm thân yêu kiều ấy

Rữa nát trong đám bụi gai.

 

Tôi là chiếc bóng cách xa xóm làng tăm tối.

Và tôi uống lấy

Sự thinh lặng của Thượng đế từ giếng nước trong rừng.

 

Trên trán tôi tụ thành kim khí lạnh.

Những con nhện lùng kiếm trái tim tôi.

Làn ánh sáng, trong miệng tôi đã tắt.

 

Đêm tôi thấy mình nằm trên bãi đất hoang,

Cứng đơ cùng rác rưởi và bụi mờ tinh tú.

Trong bụi cây hạt dẻ

Lại lanh canh những thiên sứ pha lê.‍‍‍‍

 

(*) Tiếng La-tinh, có nghĩa ‘’Từ vực thẳm’’

 

 

De profundis

 

Es ist ein Stoppelfeld, in das ein schwarzer Regen fällt.

Es ist ein brauner Baum, der einsam dasteht.

Es ist ein Zischelwind, der leere Hütten umkreist –

Wie traurig dieser Abend.

 

Am Weiler vorbei

Sammelt die sanfte Waise noch spärliche Ähren ein.

Ihre Augen weiden rund und goldig in der Dämmerung

Und ihr Schoß harrt des himmlischen Bräutigams.

 

Bei ihrer Heimkehr

Fanden die Hirten den süßen Leib

Verwest im Dornenbusch.

 

Ein Schatten bin ich ferne finsteren Dörfern.

Gottes Schweigen

Trank ich aus dem Brunnen des Hains.

 

Auf meine Stirne tritt kaltes Metall.

Spinnen suchen mein Herz.

Es ist ein Licht, das meinen Mund erlöscht.

 

Nachts fand ich mich auf einer Heide,

Starrend von Unrat und Staub der Sterne.

Im Haselgebüsch

Klangen wieder kristallne Engel.

 

 

*

 

Sinh Nở

‍‍ ‍‍ ‍‍‍‍‍‍ ‍‍ ‍‍ ‍‍‍‍‍‍‍‍ ‍‍‍‍‍‍ ‍‍ ‍‍ ‍‍‍‍‍‍ ‍‍ ‍‍ ‍‍‍‍‍‍
Những rặng núi: bóng đen, im lặng và tuyết trắng.
Người thợ săn đỏ leo xuống từ khu rừng;
Ôi, ánh nhìn rêu cỏ của loài dã thú.

‍‍ ‍‍ ‍‍‍‍‍‍ ‍‍ ‍‍ ‍‍‍‍‍‍ ‍‍ ‍‍ ‍‍‍‍‍‍‍‍ ‍‍‍‍‍‍ ‍‍ ‍‍ ‍‍‍‍‍‍ ‍‍ ‍‍ ‍‍‍‍‍‍ ‍‍ ‍‍ ‍‍‍‍‍‍‍‍ ‍‍‍‍‍‍ ‍‍ ‍‍ ‍‍‍‍‍‍ ‍‍ ‍‍ ‍‍‍‍‍‍
Dưới tán linh sam thẫm tối, bà mẹ nằm im
Bàn tay mơ màng mở ra trong giấc ngủ,
Khi mặt trăng tối nay hiện ra mục rữa.

‍‍‍‍‍‍ ‍‍ ‍‍ ‍‍‍‍‍‍ ‍‍ ‍‍ ‍‍‍‍‍‍ ‍‍ ‍‍ ‍‍‍‍‍‍‍‍ ‍‍‍‍‍‍ ‍‍ ‍‍ ‍‍‍‍‍‍ ‍‍ ‍‍ ‍‍‍‍‍‍
Ôi, sự sinh nở của con người. Mỗi đêm
Dòng nước xanh rạt rào dưới vực thẳm;
Một thiên thần sa đọa thở dài khi thoáng thấy bóng mình,

‍‍ ‍‍ ‍‍‍‍‍‍‍‍ ‍‍‍‍‍‍ ‍‍ ‍‍ ‍‍‍‍‍‍ ‍‍ ‍‍ ‍‍‍‍‍‍
Dáng hình xanh xao thức dậy trong căn buồng ẩm
Hai mặt trăng
Đôi mắt rọi sáng của người đàn bà già hóa đá.

‍‍‍‍‍‍ ‍‍ ‍‍ ‍‍‍‍‍‍ ‍‍ ‍‍ ‍‍‍‍‍‍ ‍‍ ‍‍ ‍‍‍‍‍‍‍‍ ‍‍‍‍‍‍ ‍‍ ‍‍ ‍‍‍‍‍‍ ‍‍ ‍‍ ‍‍‍‍‍‍
Tiếng thét đau đớn phút lâm bồn. Với đôi cánh đen
Đêm vuốt ve thái dương đứa bé,
Tuyết nhẹ nhàng rơi xuống từ đám mây đỏ tía.

 


Geburt

Gebirge: Schwarze, Schweigen und Schnee.
Rot vom Wald niedersteigt die Jagd;
0, die moosigen Blicke des Wilds.

Stille der Mutter; unter schwarzen Tannen
Offnen sich die schlafenden Hande,
Wenn verfallen der kalte Mond erscheint.

0, die Geburt des Menschen. Nachtlich rauscht
Blaues Wasser im Felsengrund;
Seufzend erblickt sein Bild der gefallene Engel,

Erwacht ein Bleiches in dumpfer Stube.
ZweiMonde
Erglanzen die Augen der steinernen Greisin.

Weh, der Gebarenden Schrei. Mit schwarzem Fliigel
Riihrt die Knabenschlafe die Nacht,
Schnee, der leise aus purpurner Wolke sinkt. ‍‍‍‍‍‍‍‍

 

*

 

Trên Mặt Trận Phía Đông

 

Đàn Organ của bão táp mùa đông vang lên điên loạn

Hệt như cơn thịnh nộ tăm tối của con người,

Những cơn sóng máu của chiến trận vỡ tung,

Cánh rừng sao, trụi lá.

 

Mang vầng trán bị tàn phá và đôi cánh tay màu bạc

Đêm vẫy gọi những người lính chết.

Trong bóng cây tần bì mùa thu

Những vong hồn than thở.

 

Hoang mạc gai vây bộc quanh thành phố.

Trăng bò lên vũng máu trên những bậc thang

Đuổi theo đám đàn bà trong dáng vẻ kinh hoàng.

Bầy sói hoang nhảy bổ qua cánh cổng.

 

 

Im Osten

 

Den wilden Orgeln des Wintersturms

Gleicht des Volkes finstrer Zorn,

Die purpurne Woge der Schlacht,

Entlaubter Sterne.

 

Mit zerbrochnen Brauen, silbernen Armen

Winkt sterbenden Soldaten die Nacht.

Im Schatten der herbstlichen Esche

Seufzen die Geister der Erschlagenen.

 

Dornige Wildnis umgürtet die Stadt.

Von blutenden Stufen jagt der Mond

Die erschrockenen Frauen.

Wilde Wölfe brachen durchs Tor.

 

*

 

Grodek

 

Vào buổi chiều tối những khu rừng mùa thu rền vang

tiếng hung khí chết người, những cánh đồng vàng óng

và ao hồ xanh thẫm, trên cao là vầng nhật

lăn về chân trời tối đen; đêm bủa vây

những chiến binh hấp hối, tiếng kêu than hoang dại

từ những chiếc mồm rách bươm

Nhưng trên bãi trống âm thầm tích tụ

đám mây đỏ tía nơi trú ngụ một hung thần

máu tràn ra sóng sánh, trăng khuya thấm lạnh;

tất cả nẻo đường đều dẫn về mục rữa tối tăm.

Dưới tán lá lấp lánh tinh tú và đêm đen

bóng người em gái lướt qua khu vườn vắng

đón chào hồn ma những người anh hùng, đầu tóc đẫm máu

và nhẹ nhàng vút lên trong đám lau sậy những ống sáo tăm tối của mùa thu.

Ôi, nỗi đau buồn kiêu hãnh hơn! điện thờ bằng đồng lạnh giá

ngọn lửa nóng bỏng của tinh thần hôm nay được dưỡng nuôi bởi đớn đau mãnh liệt

những thế hệ không bao giờ được sinh ra.

 

 

Grodek

 

Am Abend tönen die herbstlichen Wälder

von tödlichen Waffen, die goldnen Ebenen

und blauen Seen, darüber die Sonne

düster hinrollt; umfängt die Nacht

sterbende Krieger, die wilde Klage

ihrer zerbrochenen Münder.

Doch stille sammelt im Weidengrund

rotes Gewölk, darin ein zürnender Gott wohnt

das vergoßne Blut sich, mondne Kühle;

alle Straßen münden in schwarze Verwesung.

Unter goldenem Gezweig der Nacht und Sternen

es schwankt der Schwester Schatten durch den schweigenden Hain,

zu grüßen die Geister der Helden, die blutenden Häupter;

und leise tönen im Rohr die dunkeln Flöten des Herbstes.

O stolzere Trauer! ihr ehernen Altäre

die heiße Flamme des Geistes

nährt heute ein gewaltiger Schmerz die ungebornen Enkel.

 

 

Grodek là bài thơ cuối cùng của thi sĩ Georg Trakl, được ông sáng tác năm 1914. Trakl từng là lính quân y trong Đệ Nhất Thế Chiến, những ám ảnh kinh hoàng tại chiến trường Grodek (hồi đó thuộc đế quốc Áo-Hung) khiến ông trở nên điên dại, mất tự chủ và nhiều lần đòi tự sát bằng súng. Sau một thời gian chấn thương tâm lý và những cơn trầm cảm liên hoàn, ông tìm đến cái chết bằng cách sử dụng thuốc phiện quá liều tại bệnh viện quân sự Cracow vào ngày 3 tháng 11 năm 1914, ở tuổi 27. Grodek có lẽ là bài thơ quan trọng nhất và được biết đến nhiều nhất của Trakl.

Comments are closed.