Tomas Tranströmer – Năm bài thơ

Nguyễn Man Nhiên dịch

Tomas Tranströmer (1931—2015) là một nhà thơ trữ tình người Thụy Điển nổi tiếng với ngôn ngữ giản dị nhưng vang vọng, đặc biệt là những ẩn dụ khác thường gắn liền với chủ nghĩa Biểu hiện và chủ nghĩa Siêu thực. Thơ ông vừa mang tính phô bày vừa mang tính bí ẩn, chứa đựng hình ảnh mạnh mẽ liên quan đến các vấn đề về sự phân mảnh và cô lập trong nội tâm cá thể và xã hội. Những quan sát thơ ca của Tranströmer về thiên nhiên kết hợp sự phong phú của ý nghĩa với sự giản đơn tối đa của phong cách. Thơ của Tranströmer có thể ví như những căn phòng hoàn hảo về mặt âm học, trong đó tất cả những rung động trái ngược có thể nghe được mà không cần căng thẳng. Những bài thơ của Tranströmer tưởng tượng ra không gian nơi vực sâu ẩn chứa, giống như nước ngầm phun lên từ nguồn giếng mới đào. Ngôn ngữ trực tiếp và hình ảnh mạnh mẽ trong thơ Tranströmer đã khiến ông trở thành nhà thơ Bắc Âu được dịch rộng rãi nhất trong thế giới nói tiếng Anh vào cuối thế kỷ 20.

Tranströmer đạt nhiều thành tựu trong sự nghiệp, bao gồm Giải thưởng công nhận trọn đời từ Quỹ Griffin cho sự xuất sắc trong thơ, Giải thưởng văn học Aftonbladets, Giải thưởng Bonnier, Giải thưởng Neustadt, Giải thưởng Oevralids, Giải thưởng Petrarch ở Đức, Giải thưởng Thụy Điển từ Diễn đàn thơ quốc tế, Giải thưởng Bắc Âu… Năm 2011, Tomas Tranströmer đã được Viện Hàn lâm Thụy Điển trao Giải Nobel Văn học, “bởi vì, thông qua những hình ảnh cô đọng, trong suốt của mình, nhà thơ đã mang đến cho chúng ta sự tiếp cận mới mẻ về thực tại.”

THIÊN ĐƯỜNG DANG DỞ

Nỗi tuyệt vọng đứt quãng.

Nỗi thống khổ đứt quãng.

Chuyến bay kền kền đứt quãng.

Ánh sáng háo hức tuôn trào,

ngay cả những bóng ma cũng nhấp một ngụm.

Và những bức tranh của chúng ta thấy ánh sáng ban ngày,

những con thú màu đỏ trong các xưởng phim kỷ Băng hà.

Mọi thứ bắt đầu nhìn xung quanh.

Hàng trăm người chúng ta đi dưới ánh mặt trời.

Mỗi người là một cánh cửa hé mở

dẫn đến căn phòng cho tất cả.

Mặt đất vô tận bên dưới chúng ta.

Nước lấp lánh giữa những tán cây.

Hồ là cửa sổ nhìn vào lòng đất.

Dịch từ bản Anh ngữ bài thơ “The Half-Finished Heaven” – nguyên tác tiếng Thụy Điển “Den halvfärdiga himlen”, trích trong tập “Den halvfärdiga himlen” (1962) – của nhà thơ Tomas Tranströmer.

KHÚC ALÊGRÔ *

Tôi chơi nhạc Haydn ** sau một ngày đen tối

và cảm thấy hơi ấm nhẹ nhõm trong tay.

Các phím đàn đã sẵn sàng. Tiếng búa gõ nhẹ nhàng.

Âm hưởng xanh tươi, sống động và yên bình.

Âm nhạc nói rằng tự do tồn tại

và không ai phải cống nạp cho hoàng đế.

Tôi thọc tay vào túi Haydn

bắt chước một người bình tĩnh nhìn thế giới.

Tôi giương cao lá cờ Haydn – nó biểu thị:

“Chúng ta không đầu hàng. Nhưng muốn hòa bình.”

Âm nhạc như ngôi nhà kính trên sườn đồi

nơi những viên đá bay lăn lóc.

Và những viên đá bắn qua

nhưng ô kính hằng nguyên vẹn.

* Allegro: (âm nhạc) nhịp nhanh; khúc alêgrô; chương alêgrô.

** Franz Joseph Haydn (1732–1809, người Áo) là một nhà soạn nhạc xuất chúng của nền âm nhạc cổ điển. Ông được mệnh danh là “cha đẻ của giao hưởng và tứ tấu dây”. Ông cũng có nhiều đóng góp cho thể loại tam tấu piano và hình thức sonata.

Dịch từ bản Anh ngữ bài thơ “Allegro” – nguyên tác tiếng Thụy Điển “Allegro”, trích trong tập “Den halvfärdiga himlen” (1962) – của nhà thơ Tomas Tranströmer.

KHOẢNG TRỜI MỞ VÀ ĐÓNG

Một người đàn ông hiểu biết thế giới bằng công việc của mình như chiếc găng tay.

Anh nghỉ ngơi vào giữa trưa và đặt chiếc găng tay lên kệ.

Ở đó, chúng đột nhiên lớn lên, lan rộng

nhuộm tối cả ngôi nhà từ bên trong.

Ngôi nhà tối tăm giữa gió xuân.

“Ân xá”, tiếng vang lên trong cỏ: “ân xá”.

Một cậu bé chạy với sợi dây vô hình xiên thẳng

lên trời

nơi giấc mơ hoang dã về tương lai cậu bay như cánh diều

lớn hơn cả ngoại ô.

Xa hơn về phía bắc, bạn có thể nhìn thấy màu xanh vô tận từ độ cao

thảm rừng lá kim

nơi mây che bóng

đứng yên.

Không, đang bay về phía trước.

Dịch từ bản Anh ngữ bài thơ “Open and Closed Spaces” – nguyên tác tiếng Thụy Điển “Öppna och slutna rum”, trích trong tập thơ “Klanger och spår” (1966) – của Tomas Tranströmer.

ÁP LỰC

Tiếng gầm động cơ bầu trời xanh thật chói tai.

Chúng tôi có mặt ở đây trên công trường rung chuyển

nơi độ sâu của biển có thể bất ngờ lộ diện –

vỏ sò và điện thoại rít lên.

Bạn chỉ có thời gian nhìn thấy vẻ đẹp vội vã từ bên cạnh,

Những cánh đồng nặng hạt, đầy màu sắc hòa trong một dòng suối vàng.

Bóng tối bất an trong đầu tôi hiện lên ở đó.

Chúng muốn len lỏi vào hạt và biến thành vàng.

Bóng tối buông xuống. Tôi đi ngủ lúc nửa đêm

Chiếc thuyền nhỏ hạ thủy từ tàu lớn.

Bạn đơn độc trên mặt nước.

Thân tàu tối đen của xã hội trôi dạt càng lúc càng xa.

Dịch từ bản Anh ngữ bài thơ “Under Pressure” – nguyên tác tiếng Thụy Điển “Under tryck”, trong tập “Klanger och spår” (1966) – của nhà thơ Tomas Tranströmer.

CHIM DẠ OANH Ở BADELUNDA

Vào nửa đêm xanh biếc chim dạ oanh ở biên giới bắc. Những chiếc lá treo lơ lửng như bị thôi miên, những chiếc ô tô tai điếc lao về phía dãy đèn neon. Giọng chim dạ oanh cất lên chẳng hề xao nhãng, nó xuyên thấu như tiếng gà trống gáy, đẹp đẽ và không phù phiếm. Tôi ở trong tù và nó đã đến thăm tôi. Tôi bị bệnh và nó đã đến thăm tôi. Lúc đó tôi không để ý, giờ thì khác. Thời gian chảy xuống từ mặt trời, mặt trăng và chảy vào tất cả những chiếc đồng hồ tích tắc biết ơn. Nhưng ở đây không có thời gian. Chỉ có tiếng hót chim dạ oanh, những nốt nhạc thô ráp mài sắc lưỡi hái sáng lấp lánh bầu trời đêm tối.

Dịch từ bản Anh ngữ bài thơ “The Nightingale in Badelunda” – nguyên tác tiếng Thụy Điển “Näktergalen i Badelunda”, trích trong tập thơ “För levande och döda” (1989) – của Tomas Tranströmer.


Meditation – tranh của Odilon Redon

Comments are closed.