VỀ MỘT SỐ ĐOẠN DỊCH THƠ TRONG BÀI “THỂ THƠ MỞ RỘNG”

Phu Chữ

Tôi đọc bài “Thể thơ mở rộng” của tác giả Ngu Yên trên Da Màu được Văn Việt đăng lại ngày 25/10/2014. Cảm ơn tác giả đã cung cấp nhiều tư liệu mới về các thể thơ đương đại, chủ yếu trong nền thơ Mỹ.

Tuy nhiên, tôi có băn khoăn về cách dịch một số đoạn thơ tiếng Anh trong bài viết của Ngu Yên. Trộm nghĩ, Thơ là nghệ thuật ngôn từ, một chữ, một từ đều được tác giả chọn lọc (dù là trong vô thức, tiềm thức), người dịch thơ phải “thôi, sao” rất kỹ trong ngôn ngữ đích. Nên xin mạn phép trao đổi cùng tác giả và các bạn, mong được sự góp ý.

1/ Một đoạn ví dụ trong bài thơ From của William Carlos William:

Of asphodel, that greeny flower, 
like a buttercup 
upon its branching stem- 
save that it’s green and wooden– 
I come, my sweet, 
to sing to you. 
We lived long together 
a life filled, 
if you will, 
with flowers. So that 
I was cheered 
when I came first to know 
that there were flowers also 
in hell

Chậu lan Nhật Quang,  hoa xanh xanh kia, 
như hoa Mao Lương 
nở trên cuống nhỏ – 
giữ lấy xanh tươi và chất gỗ – 
Em yêu, anh đến đây, 
để hát ru em. 
Chúng ta sẽ sống bên nhau 
một đời tràn ngập, 
nếu em ưa thích, 
đầy bông hoa. Để anh 
được vui mừng 
khi lần đầu được biết 
cũng có hoa nở 
dưới địa ngục.

Theo hiểu biết về tiếng Anh của tôi, thì “save” trong câu thơ phải hiểu là liên từ save = “trừ ra” chứ không phải động từ save = giữ lấy, “Save that it’s” = “trừ mỗi việc là…”: Toàn ý câu thơ là: hoa asphodel giống như hoa buttercup trên cuống nhánh của nó – trừ mỗi việc là nó màu xanh và thân gỗ…

clip_image002

Cây hoa asphodel

image

Hoa buttercup

2/ Một bài thơ ngắn khác của ông Complete Destruction.

It was an icy day. 
( Ngày hôm đó trời đông đá ) 
We buried the cat, 
then took her box 
and set fire to it 
in the back yard. 
( Chúng tôi chôn con mèo, bỏ trong thùng giấy, đốt cháy, sau sân nhà.) 
Those fleas that escaped 
earth and fire died by the cold. 
( Những bọ chét bỏ chạy trốn lửa tìm đất sống, chết vì giá băng.)

– “An icy day” dịch là “Một ngày lạnh giá” có lý hơn là “trời đông đá”.

– “Those fleas that escaped earth and fire” dịch là “những con bọ chét chạy trốn đất và lửa” [để tìm một vật chủ khác] thì đúng hơn là “tìm đất sống”.

3/ the HEAD, by way of the EAR, to the SYLLABLE 
the HEART, by way of the BREATH, to the LINE (Charles Olson)

hiểu biết đến từ nghe những âm tiết chữ nghĩa 
cảm nhận đến hơi thở đọc lên dòng thơ

Câu dịch hơi tối nghĩa, tuy dịch giả gắng dịch thoát ý.

Ta thử dịch sát nghĩa xem có dễ cảm nhận hơn không:

CÁI ĐẦU, qua TAI, tìm đến ÂM TIẾT; TRÁI TIM, qua HƠI THỞ, tìm đến DÒNG THƠ.

4/ Và vài câu thơ mở đầu trong tác phẩm Howl của Allen Ginsberg:

I saw the best minds of my generation destroyed by madness, starving hysterical naked, 
dragging themselves through the negro streets at dawn looking for an angry fix, 
angelheaded hipsters burning for the ancient heavenly connection to the starry dynamo in the machinery of night, 
who poverty and tatters and hollow-eyed and high sat up smoking in the supernatural darkness of cold-water flats floating across the tops of cities contemplating jazz, 
who bared their brains to Heaven under the El and saw Mohammedan angels staggering on tenement roofs illuminated,

(Tôi chứng kiến những trí tuệ tuyệt hảo (1) của thế hệ tôi (2) bị hủy hoại bởi điên cuồng, phẫn nộ nghèo đói chết trần trụi, 
họ thất thiểu qua đường phố da đen cho tới bình minh tìm trác táng xoa dịu lòng giận dữ, (3) 
nhóm hip-py tâm tưởng cao siêu  nôn nao hướng thượng tìm siêu nhiên nguyên thủy (4) trong cơ trời ban đêm lấp láy đầy sao, 
những kẻ nghèo hèn rách rưới mắt thất thần đang hút  say lờ ngờ ngồi chồm hỗm khật khù hưởng thụ nhạc Jazz trong bóng tối huyền ảo khi làn mưa lạnh trải dài qua phố xá, 
Những kẻ lột trần trí não nhìn thiên đường từ dưới cầu xe điện treo (5) và nhìn thấy thiên thần của Mo-ha-mét lảo đảo trên nóc chung cư chiếu sáng,)

– Dịch giả cũng muốn dịch thoát ý, nhưng có lẽ “thoát” quá: vì “fix” = liều ma túy; “looking for a fix” = tìm một liều ma túy; hình dung từ “angry” (angry fix) chỉ để nhấn mạnh tính chất cái “liều ma túy” mà thôi (có khi chính cái liều ma túy ấy lại gây nên giận dữ chứ không phải ngược lại, “xoa dịu”).

– Dịch giả dùng “cơ trời” để dịch “the machinery of night” (nghĩa đen: “cỗ máy đêm”) cũng “thoát” quá, vì “cơ trời” trong tiếng Việt = “thiên cơ”, mang nghĩa hoàn toàn khác (“thiên cơ bất khả lậu” = cơ trời không thể lộ)

– Bóng tối ở đây là bóng tối của các căn hộ nước lạnh “darkness of cold-water flats” (căn hộ nghèo, không có nước nóng).

– “Floating across the top of cities” là: “những kẻ nghèo hèn rách rưới” bập bềnh trôi trên đỉnh thành phố (hiệu ứng say ma túy) chứ không phải “mưa lạnh trải dài qua phố xá”

5/ Pocket Theatre của Charles Simic

Những ngón tay giấu trong túi áo bành tô. Những ngón tay ló ra khỏi găng tay da đen. Gặm móng tay dài. Một tuồng có tên “Đám Trộm Trong Chợ”, tuồng khác “Đêm Trong Bảo Tàng Viện Bình Dân”. Những ngón tay khi cởi trần giống như những kẻ tắm truồng gợi cảm hoặc giống những cành cây giả tạo trong xưởng máy tồi tàn. Không có ai được xem tuồng hát: Bạn bỏ tay bạn vào túi quần người khác trên đường phố rồi chờ xem phản ứng.

Fingers in an overcoat pocket. Fingers sticking out of a black leather glove. The nails chewed raw. One play is called “Thieves’ Market,” another “Night in a Dime Museum.” The fingers when they strip are like bewitching nude bathers or the fake wooden limbs in a cripple factory. No one ever sees the play: you put your hand in somebody else’s pocket on the street and feel the action.

– “The nails chewed raw” = “những móng tay bị gặm thô (nham nhở)” đúng hơn là “gặm móng tay dài”

– Thieve’s Market = “Chợ của lũ trộm cắp” đúng hơn là “Đám trộm trong chợ”.

6/ I Love You by Dani Elle

Tôi Yêu Em 
Thơ: Dani Elle

Chúng ta gặp nhau ngày ấy chưa quen 
Một ngày còn mãi mơ hồ nhè nhẹ… 
Anh vẫn mãi hoang mang 
Tự hỏi trong mơ hồ kia, khi ta tình cờ gặp mặt.

We met on a strange day 
A day that remains a slight haze… 
I’m still quite amazed 
I was wandering in a daze, when I stumbled upon your face.

Xin dịch sát nghĩa thử xem có gì khác:

Chúng ta gặp nhau một ngày lạ lùng… Anh vẫn còn kinh ngạc. Anh đang đi vơ vẩn trong trạng thái mê mụ [vì ma túy/rượu?] thì tình cờ trông thấy [đâm xầm vào] gương mặt em.

7/ Disappointments by Vivian Gilbert Zabel

Every life has a room 
where memories are stored: 
A box of special laughter there. 
But back in the shadows 
Lurk a trunk locked tight, 
Not to be opened and searched. 
There hide disappointments 
Which darken every heart.

Thất Vọng 
Thơ: Vivian Gilbert Zabel

Mỗi cuộc sống đều có một căn phòng 
nơi trí nhớ cất giữ: 
Một hộp chứa kỷ niệm đặc biệt, chỗ này, 
Chỗ kia, kệ sắp tiếng cười chung vui. 
Rồi trong sâu đầy bóng tối 
Giấu một chiếc rương khóa chặt, 
Không có ý cho mở ra kiếm tìm. 
Cất giữ những thất vọng 
làm thâm u mỗi con tim.

Lại xin dịch sát nghĩa một câu:

“A box of special laughter there” = Một cái hộp ở đằng đó chứa đựng tiếng cười đặc biệt.

Chưa hiểu vì sao dịch giả lại chuyển thành: Một hộp chứa kỷ niệm đặc biệt, chỗ này, 
Chỗ kia, kệ sắp tiếng cười chung vui .

Một lần nữa, xin cảm ơn tác giả/dịch giả Ngu Yên và các bạn lắng nghe và nếu có thể thì xin trao đổi lại, tất cả cho Thơ và vì Thơ!

Comments are closed.