Từ “Sinh hoạt văn nghệ” đến “Văn nghệ quân đội” (kỳ 1)

Lại Nguyên Ân

Trở ngược về thời đầu để tìm nguồn xuất phát của lực lượng văn nghệ trong Quân đội nhân dân Việt Nam, có lẽ, một thời điểm đáng ghi nhận là Hội nghị văn nghệ bộ đội lần thứ nhất họp tại Việt Bắc từ 9/4/ đến 14/4/1949, tuy rằng các lực lượng văn nghệ của bộ đội đã hình thành từ trước đó ít lâu.

Trang tường thuật của Nguyễn Huy Tưởng đã hình dung Hội nghị ấy như là điểm hẹn của 2 lớp người văn nghệ đi kháng chiến:

“Đã lâu, đám văn nghệ Việt Nam chưa xuất hiện một nhân tài mới. Những người văn nghệ ‘cũ’ reo trong lòng một ý mong chờ thành khẩn: Phải chăng ở đây ta sẽ có thêm nhiều bạn cùng đi? Tóc hoa râm của Thế Lữ, Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Tuân, vóc ‘hạc’ của Thanh Tịnh, vẻ mặt bùi ngùi của bà Vân Đài, thầm lặng của chị Anh Thơ, dáng quắc thước của lão tướng Nguyễn Công Hoan, cái vị trí khó xử của nhà văn trẻ Nguyễn Đình Thi sớm mang một bộ râu chuyên nghiệp, đôi mắt hau háu của Xuân Diệu mới ăn mừng ‘Thơ thơ’ vừa được mười niên, những cái đó thảy đều nặng nề suy nghĩ. Và chung quanh, cả một làn sóng thanh niên sống giữa dòng thế kỷ da xạm phong sương, mắt đã từng nhìn vào mắt giặc, tay đã từng nhuốm máu giặc, từ những nơi đang vang tiếng súng về đây, lòng rộn ràng muốn nói rất nhiều. Đây đại biểu của 15 với An Bá Đảm ‘chiến’, Minh Tiệp gầy… Đây Sơn La dè dặt với Hoài Niệm, Thăng Hiên; sông Lô lầm lỳ với Hồng Vũ, vui vẻ với Minh Tuấn; Liên khu I phức tạp và không rõ nét, có Đào Hồng Cẩm pha trò hề, chính trị viên Tư Vân ‘hắc’ và nhiều văn nghệ sĩ công tác trong bộ đội: họa sĩ Quang Phòng, họa sĩ Quang cao nhất hội nghị, nhạc sĩ Văn Chung, Nguyễn Đức Toàn và mẹ chiến sĩ: nữ sĩ Vân Đài… Vượt qua những chặng gian nan của đường số 6, số 5 lên hội nghị, Quang Dũng, Huyền Kiêu đại biểu cho Liên khu 3, Phạm Văn Chừng, Trọng Loan, Vũ Cao đại biểu cho Liên khu 4; đạo quân chủ lực 308 gửi tới những chàng trai tích cực hoạt bát và đông đảo: Hữu Mai, Minh Bắc, Quốc Chung, Văn Hồng, Đinh Tùng, trong bộ biên tập báo Quân tiên phong: Chính Hữu, Lương Ngọc Trác, Đỗ Trí, Trần Hoàn, Lê Hợi, những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng, điều hòa được cái quấy và cái ‘tế nhị’ của thủ đô. Vô hình chung, Hội nghị là nơi hẹn của hai lớp người.” [1]

Hội nghị nói trên do Thiếu tướng Văn Tiến Dũng, cục trưởng cục chính trị, và ông cục phó cục chính trị Lý Ban chủ tọa; chủ tịch đoàn gồm 3 ông: Thâm Tâm, Trần Độ, Chính Hữu. Sau lời khai mạc của Thiếu tướng Văn Tiến Dũng, ông Trần Độ đọc báo cáo, cho biết vấn đề phát triển văn nghệ bộ đội được đặt ra từ sau chiến thắng Việt Bắc. “Một đội quân cách mạng cần phải có văn nghệ”, – ông Độ kêu gọi sự giúp đỡ của anh em văn nghệ bên ngoài và mong rằng trong bộ đội sẽ mọc lên những Ehrenbourg, Simonov… Trong hội nghị có những ý kiến không tán thành sự phân biệt văn nghệ ‘trong’ và ‘ngoài’ bộ đội; tuy vậy, trên thực tế, những lực lượng văn nghệ trong bộ đội đã hình thành. Ông cục phó cục chính trị Lý Ban nêu kinh nghiệm ‘văn nghệ chiến tranh’ Liên Xô và Tàu, phân biệt rõ người công tác văn nghệ với văn nghệ sĩ; ông đề nghị các văn nghệ sĩ đàn anh tương thân tương trợ những đàn em văn nghệ, “cốt sao tạo nên được những công trình văn nghệ kích động được sĩ khí, ghi chép được thời đại đặng lưu lại cho con cháu hoặc trình bày với người ngoại quốc. Chúng ta, – ông nói – không thể giở sổ quân chính ra mà làm cho thiên hạ tin được sự nghiệp anh hùng của dân tộc”; “Bộ đội và nhân dân là những người sáng tạo ra lịch sử; văn nghệ sĩ là những người ghi chép lịch sử”.[2]

Mục đích phát triển lực lượng văn nghệ bộ đội, như vậy đã được lượng định rõ rệt.

Trong số những binh chủng văn nghệ bộ đội, thành phần báo chí văn học hình thành ban đầu là ở các đơn vị, gắn với những chuyên trang nhất định của các tờ báo các đơn vị. Ở quy mô toàn quân thì đến một lúc nào đó, có thể là ngay trong năm 1949, đã xuất hiện tờ tập san Sinh hoạt văn nghệ, nhưng những số đầu tiên, thậm chí cả một giai đoạn hoạt động đầu tiên của tập san này, hiện còn chưa tìm lại được. Chứng cứ sự hoạt động thời kỳ đầu của tờ này còn thấy rõ qua lời phi lộ ở số đầu tiên bộ sưu tập Sinh hoạt văn nghệ hiện còn giữ được: “Bắt đầu từ số này, Sinh hoạt văn nghệ lại tiếp tục ra”. Số Sinh hoạt văn nghệ có lời phi lộ này ra vào tháng 1/1953. “Tiếp tục ra” tức là trước đó đã có hoạt động, đã có những ấn phẩm cùng loại được in ra, mặc dù hiện chưa tìm lại được.

*

Bộ sưu tập hiện còn của tờ Sinh hoạt văn nghệ cho thấy trong thời gian từ đầu năm 1953 đến cuối năm 1954, tập san này hoạt động như một loại sách ra tương đối đều kỳ của Nhà xuất bản Quân đội nhân dân.

Mỗi cuốn Sinh hoạt văn nghệ thời kỳ này mang trên bìa ngoài (bìa 1) đến 3 tên gọi: tên riêng từng cuốn như mọi cuốn sách khác (ví dụ: Giáp Văn Khương diệt địch trong đồn Pú Chạng), tên gọi loại sách (ví dụ: Loại sách chiến thắng Tây Bắc), tên gọi ‘tập san’ với kỳ hạn xác định (ví dụ: Sinh hoạt văn nghệ tháng 1/1953).

Mỗi cuốn Sinh hoạt văn nghệ (khổ 12×9 cm) gồm chừng từ 24 trang trở lên, nội dung chủ yếu là đăng sáng tác văn thơ, văn xuôi ngắn, có khi là những mẩu chuyện, có khi là ghi chép, lại cũng có kịch nói, bản nhạc, về sau có cả tiểu thuyết trích đoạn, ít nhiều văn xuôi dịch, chủ yếu dịch truyện chiến đấu của chí nguyện quân Trung Quốc ở Triều Tiên, chuyện tội ác địa chủ đối với nông dân Trung Quốc, v.v…; đôi khi cũng có đăng ý kiến phê bình, ý kiến hướng dẫn công tác văn nghệ ở đơn vị, hướng dẫn sử dụng các cuốn Sinh hoạt văn nghệ vào các buổi sinh hoạt văn nghệ ở đại đội, v.v… Tôi sẽ dừng lại tương đối kỹ ở nội dung các số Sinh hoạt văn nghệ này, hiện nay đã là tài liệu hiếm, khá nhiều nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu chưa từng biết.

Năm 1953 có 5 số liền (ra trong các tháng 1, 2 và 3/1953) cùng nằm trong “Loại sách chiến thắng Tây Bắc”, đăng những trang văn ghi chép trong chiến dịch Tây Bắc như Người chiến sĩ vào đồn giặc phải nhanh như sóc mạnh như hổ (Giáp Văn Khương kể, Tú Nam ghi), Trả thù cho Cù Chính Lan (chiến sĩ Trần Văn Thoa kể, Vũ Cao ghi), Cụ Hồ tốt quá, bộ đội tốt quá (Trần Độ), Tôi tuy già nhưng cũng cố học theo tinh thần bộ đội (Trần Dần); Quyết tâm thì đánh thắng (Tô Đình Khản kể, Chính Hữu ghi), Ngày đêm không nghỉ, quyết tâm thi hành mệnh lệnh, chặn địch diệt địch đến cùng (trung đội trưởng Phi Hùng kể, Tú Nam ghi), Đuổi địch qua cầu Tài Vài (Hồ Phương), Chị Tâm người phụ nữ vinh quang (Hoàng Trang); Vượt sông Đà, diệt tiểu đoàn Ma-rốc thứ 3 (Trần Độ), Không ai hàng giặc (Trần Dần), Tôi dự trận đầu (Hoàng Văn Thảo); những sáng tác thơ ca: Quyết tâm (Lê Nguyên), Ca dao (Nguyễn Văn Huấn, A1 B92; Dần A2), Kế hoạch Lo-Rên của Đờ Li-na-rét (thơ đả kích, Lê Kim), Tiến vào thị xã Sơn La (Mác Xung Kích), Giã gạo giúp dân (Chuyện, tổ LT ban CT), Diệt địch gọn gàng (thơ của Tổ 2. A1, B8), Đi lên diệt đồn (chuyện kể bằng ca dao của Đinh Văn Cư, B3, C127); toàn bộ số ra giữa tháng 3/1953 giành đăng kịch Ơn bộ đội cụ Hồ (kịch một hồi, Hoàng Tích Linh); toàn bộ số ra đầu tháng 3/1953 là tập bài hátTiến quân vào Tây Bắc gồm các bài: Quân đội nhân dân (sáng tác của tập thể chiến sĩ), Vào Tây Bắc (nhạc và lời Nguyễn Thành), Giết hết giặc Pháp (nhạc và 2 lời tiếng Việt và tiếng Thái, cuả Nguyễn Đình Phúc), Chúng ta phải đánh thắng (nhạc và lời Đinh Ngọc Liên), Vượt sông Đà tiến vào Tây Bắc (nhạc và lời Tử Phác), Em bé Mường La (nhạc và lời Trần Ngọc Xương), Đồng bằng chiến thắng (nhạc và lời Nguyễn Hiếu).

4 số Sinh hoạt văn nghệ các tháng 6, 7, 8 và 9/1953 cùng nằm trong “Loại sách Phát động quần chúng”, gồm những sáng tác văn thơ, ca dao, dịch thuật, phục vụ các đợt phát động giảm tô và cải cách ruộng đất đang diễn ra, như: Địa chủ giết hại gia đình tôi (Nguyễn Thị Chiên kể, Vũ Cao ghi), Gia đình tôi 15 người chết vì địa chủ (Nguyễn Văn Sinh kể, Côn Sơn ghi), Trong ngục tối (Tiễn, 281, xã đội 29),Tôi đã rõ đời tôi khổ vì ai (Hệ, C 137), Cuộc đời khổ cực (ca dao của X.), Nông dân vất vả trăm chiều (ca dao, Võ Nghi), Duyên máu (truyện ngắn Lưu Bạch Vũ, Trung Quốc, Ngô Tất Tố dịch), Chúng nó đội lốt Chúa, ác hơn quỷ dữ (chiến sĩ Tặng kể, Khải ghi), Chúng nó phải đền tội (Nguyễn Khắc Nhạc kể, Nam Hùng ghi), Thư gửi em (thơ, Giang, đoàn 15), Nhờ ơn Đảng (thơ, tổ 8, A.3, B.3, C.250), Hoan nghênh chính sách (thơ, Biên, B.2, C.250), Phấn khởi (thơ, Thiện, B.2, C.250); bên cạnh đó là một số bài về kinh nghiệm hoạt động văn nghệ: Vài ý kiến về cách sử dụng chuyện ở đại đội (T.P.), Viết chuyện thế nào cho nổi bật lên được? (Trần Dần), Kinh nghiệm làm kịch (Đoàn Dương Tử viết theo tài liệu của Lê Kim, C. 505, Trần Dần và đội kịch ‘Thúng thóc’), C 336 viết chuyện (Lê Nguyên), C. 243 làm kịch (Vũ Cao);

Từ số ra đầu tháng 10/1953, Sinh hoạt văn nghệ định mở ra một “Loại sách chiến đấu”, nhưng chỉ thực hiện được ở duy nhất số này; theo lệ thường, số này còn có tên sách là Đội dao nhọn; thiên truyện dịch này (không ghi tên tác giả Trung Quốc, chỉ ghi tên dịch giả là Lê Văn Giai, cán bộ tuyên huấn trường lục quân VN) kể về một đại đội chí nguyện quân Trung Quốc chiến đấu trên chiến trường Triều Tiên.

Số ra nửa cuối tháng 10/1953 hoàn toàn là văn nghị luận, với tên sách là Mấy kinh nghiệm công tác văn nghệ, gồm những bài chính: Cuộc họp mặt văn nghệ (SHVN), Đẩy mạnh hơn nữa phong trào văn nghệ quân đội (Lê Quang Đạo), Kinh nghiệm vận động thi chuyện và kịch ở đoàn X. (Hoàng Trang, Từ Bích Hoàng), Văn nghệ đại đội (Vũ Cao), Mấy khó khăn hiện thời trong hoạt động văn nghệ ở đại đội tôi (M.T.).

Hai số cuối cùng của năm 1953 đều ra mắt trong tháng 11.

Số ra đầu tháng 11/1953 mang tên Làm tròn nhiệm vụ, gồm cả văn, thơ, nhạc, tự phê bình, kinh nghiệm: Làm tròn nhiệm vụ (truyện, Kiều Văn Phi), Bà cụ trên đỉnh núi (truyện, Nguyễn Hoàn), Một chiều sau chiến đấu (thơ Lý Anh, Trung Quốc, Gắng Thắng dịch), Vượt đèo (văn, Đinh Tiến), Lúa vàng lúa đỏ (thơ, Hữu Mai), Sửa đường chống bom (Hồ kể, Chân Xuân ghi), Chiến đấu vì giai cấp (nhạc của chiến sĩ Lê Văn Liệu, Trần Ngọc Xương ghi), Mấy nhận xét đầu tiên về cuộc vận động dân ca, chèo ở đại đội X. (Xuân Trường), Tôi thiếu quan điểm lao động (Trần Ngọc Xương, tổ nhạc, văn công đoàn QĐ), Vài kinh nghiệm nghiên cứu biểu diễn (Trọng Hùng, tổ kịch, văn công đoàn QĐ).

Số ra cuối tháng 11/1953 mang tên Diệt chúng nó để trả thù, cũng gồm đủ mấy thể tài như trên: Diệt chúng nó để trả thù (truyện Vũ Cao), Lòng dân Tây Bắc biết ơn cụ Hồ (thơ, Mạc Phi), Lấy thân mình làm giá súng (trích truyện ‘Thượng Cam lĩnh’, Lục Trụ Quốc, TQ., Thọ Hồng và Từ Bích Hoàng dịch), Quyết tâm diệt giặc (nhạc cảnh, sáng tác tập thể của đoàn văn công QĐ), Kinh nghiệm xây dựng vở kịch ‘Thúng thóc’ (Trần Độ), Mấy ý kiến về kịch chiến đấu (Hoàng Tích Linh).

Tính ra trong năm 1953 Sinh hoạt văn nghệ ra được 13 số.

Trong năm 1954, tập san này chỉ ra được 11 số.

Số đầu năm, ra tháng 1/1954 có tên sách là Liên tục chiến đấu, gồm các tác phẩm văn: Liên tục chiến đấu (Hiểu và Bằng), Phá xe tăng (Hoàng Nguyễn) (tr. 8-11), Bắn máy bay (Phan Huỳnh), Lên đường (trích nhật ký Trần Dần), Quyết tâm (Bùi Kha kể, Xuân Thiêm ghi), Cụ Hồ thương dân như con (Xuân Dật); thơ: Xem ảnh báo Liên Xô (Phạm Thanh Tâm), Lúa phát động thắng lợi (Hồ Phương), Bố con đi giết giặc (Tú Nam); kịch: Giơ tay lên con (Hoài Giao); Bình ca dao (Giang Tấn); An Cơ Ngọc, diễn viên [Triều Tiên] có công trạng (H. S. dịch).

5 số liền, ra các tháng 3, 4, 5, 6, 7/1954 đều nằm trong “Loại sách Chiến thắng Điện Biên Phủ”.

Số ra tháng 3/1954 có tên sách là Trên đồi 75, gồm: Trên đồi 75 (truyện, Trần Đoàn), Đi qua nhà mẹ (thơ, Trần Cẩn), Ba viên đạn (truyện, Điền Kim Thái, TQ., Long P.H.L. dịch), Cao Duy Khoan, trung đội trưởng súng máy cao xạ (văn, Lôi Bôn, TQ., Long P.H.L. dịch), Điện Biên Phủ hay là Điện Âm phủ (thơ đả kích, Lê Kim), Tổ xạ kích pháo (ký, Trương Công Lê), Tránh lạc quan tếu (ca dao, Thanh Tịnh), Mấy ý kiến về viết truyện chiến đấu (Tú Nam), Góp kinh nghiệm: Kể truyện là một cách sử dụng phổ biến sách báo văn nghệ rất tốt (Giang Tấn, Thiết, Then).

Số ra tháng 4/1954 có tên sách là Mở đường thắng lợi, gồm: Tiếng hát công binh mở đường thắng lợi (trích bút ký, Trần Cư), Gánh gạo sớm mai (thơ, Hoàng Thắng), Người chiến sĩ súng máy dũng cảm trên đồi 674 (ký, Lê Nguyên), Đánh xâm lược Mỹ (thơ đả kích, tổ 3, C.2, 27), Chiến sĩ công binh anh dũng của quân tình nguyện Trung Quốc (Lý Thanh Liêm, Tân Hoa xã, Long P.H.L. dịch), ‘Vì thắng lợi, hãy dẵm lên người tôi mà qua!’ (Lý Lê, Tân Hoa xã, Long P.H.L. dịch), Ơn Đảng ơn Bác (thơ, Xuân Thiêm), Chúng ta cũng 13 người (ký, Vũ Như), Đại hội liên hoan văn công 1954 (SHVN).

Số ra tháng 5/1954 có tên sách là Chiến đấu đến giọt máu cuối cùng, gồm: Chiến đấu đến giọt máu cuối cùng (ký của Trần, viết về gương Phan Đình Giót), Ngày đêm trong chiến hào (ký, Nguyễn Đình Thi), Công binh trên mặt trận Điện Biên làm lại đèo (ký, Chính Yên), Nhật ký tổ văn công hỏa tuyến (Nhuận, Xương, Tiến), Trong cuộc vận động liên hoan văn công toàn quốc, các chiến sĩ phải làm gì? (Hoàng Cầm).

Số ra tháng 6/1954 có tên sách là Vạch mặt Pháp-Mỹ, là một tập thơ trào phúng của các cây bút bộ đội: Giới thiệu thơ trào phúng trong chiến dịch Điện Biên Phủ (SHVN), Vác mặt cường quốc (Bút Nhọn), Tàu bay Mỹ rụng (Thanh Bình), Cưỡi lên đầu quan Ba không bị phạt (Trúc Lâm), Cứ bên trái mà chạy (Phác Văn), Tây mua giấy thông hành ta (Mai Hanh), Tây buôn (Lê Kim), Lính Tây cay chữ ‘tù’ (Mai Hanh), Hàng kiểu Na-va (Lê Kim), Tây bí đặc (Thanh Bình), Gậy Mỹ phang đầu Pháp (Lê Kim), Đờ Cát-tơ-ri, con thú bị săn (Bút Nhọn), ‘Chiến hạm trên rừng’ (Ph. S.), Hổ bay hay chuột chết (Bút Nhọn), Từ bi nhỉ (Bút Nhọn), Ngày 8 tháng 5 của ai? (Bút Nhọn); và mấy bài luận khác: Góp ý kiến, kinh nghiệm: Có nên gây thành một phong trào kể truyện ở đơn vị không? (Từ Bích Hoàng), Góp ý kiến xây dựng cho báo ‘Sinh hoạt văn nghệ’ (Xuân Thiêm, Tống Trọng, T.D., Định Cường).

Số ra tháng 7/1954 có tên sách là Hòn đá, gồm: Giới thiệu kịch ‘Hòn đá’ (SHVN), Hòn đá (kịch chèo, Đỗ Nhuận, Mạnh Thắng), ‘Dù tôi bị thương nặng thêm cũng được, tranh thủ thời gian cho xe đi’ (nhật ký, Thế), Đồng chí công binh trẻ tuổi (L.K. thuật, Quang Tế ghi), Pháo đi chiếm lĩnh trận địa (nhật ký, Diễm), Trước giờ chiến đấu (ký, Lê Khôi), Trận đầu (X., trích ‘Nhật ký chiến đấu’), Chiến sĩ bắn phi cơ (ký, Trọng Phiên), Tình phối hợp (ký, K.H.), Chúc các anh bộ binh diệt nhiều đồn cho pháo chúng tôi thêm đạn nổ vào đầu giặc (nhật ký, Phạm Thanh Tâm); và một số bài nghị luận: Chuyện kinh nghiệm: Tờ báo liếp (Xuân Cang), Chung quanh vấn đề vận động vốn cũ dân tộc (trích một số báo cáo), Đẩy mạnh phê bình, tự phê bình trong văn nghệ quân đội (tòa soạn SHVN), Vấn đề sáng tạo nhân vật trong ‘Thượng Cam Lĩnh’ (Bằng Kiến Nam, TQ., Từ Bích Hoàng dịch).

Sinh hoạt văn nghệ số ra tháng 8/1954 hoàn toàn là văn nghị luận với tên sách: Đại hội văn công toàn quốc: Hướng về đại đội, phục vụ chiến sĩ, gồm: Thư của ông Trường Chinh gửi Đại hội; Đại hội liên hoan văn công toàn quân lần thứ nhất, 21/6/1954 (tường thuật, Vũ Cao), Vinh quang của người làm công tác văn nghệ (bài ký tên Võ Hồng Cương, Anh Chấn chấp bút), Vận động liên hoan dân tộc ở một đại đội thí điểm (Nguyễn Đức Toàn), Vài ý kiến về vấn đề vận động phong trào văn nghệ bộ đội (Trúc Lâm), Điểm qua các tiết mục biểu diễn ở đại hội (Tử Phác), Trước nhiệm vụ mới của văn nghệ bộ đội (Tử Phác), Hồ Chủ tịch săn sóc văn công (Hoàng Cầm), Công tác tuyên truyền, thông tin, báo chí văn nghệ trước tình hình nhiệm vụ mới (Tổng cục chính trị).

Sinh hoạt văn nghệ số ra đầu tháng 9/1954 có tên sách là Luyện chắc tay súng, gồm: Luyện chắc tay súng (kịch ngắn 1 hồi, Hoàng Tích Linh), Nhân dân Lào anh dũng: đội P.M. (ký, Vũ Như), Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, bộ đội lấp chiến hào cho dân về cày cấy (ký, Nguyễn Anh Trâm), Chiến sĩ Điện Biên Phủ: Tổ thông tin anh dũng (ký, Trần Huy Mẫn), Giới thiệu hoạt động văn nghệ của GPQ TQ: Tổ chức ‘dạ hội quê hương’ thế nào? (Tiết Oa Dương Tử Đào, TQ., Nguyễn Văn Huân dịch), Đại hội liên hoan văn công toàn quân đón tiếp đ/c Vương Lực: Học tập kinh nghiệm Trung Quốc (Tử Phác).

Sinh hoạt văn nghệ số ra giữa tháng 9/1954 có tên sách là Nằm quân y, gồm: Nằm quân y (trích tiểu thuyết ‘Người người lớp lớp’, Trần Dần), Người nữ văn công trên hỏa tuyến (trích tiểu thuyết Người người lớp lớp’, Trần Dần), Không xa rời hàng ngũ (ký, Nguyễn Kim Ngọc), Không khi nào chết (thơ, Huy Vũ), Đợi con về (thơ, Phác Văn), Hòa bình (thơ, Văn), Tổ quốc ta tươi đẹp (thơ, Xuân Thủ), Niềm vui đình chiến (thơ, Chu Mai Niệm), Kinh nghiệm ĐHVCTQ: Việc học tập và áp dụng vốn cũ dân tộc còn mắc nhiều sai lầm (SHVN), Cuộc vận động liên hoan văn nghệ dân tộc đang tiến hành sôi nổi trong toàn quân (Tử Phác).

Sinh hoạt văn nghệ số ra tháng 11/1954 có tên sách là Trở về quê cũ , gồm: Trở về quê cũ (kịch hát, Tử Phác), Ngày cuối cùng của chiến tranh (thơ, Tú Nam), Lá cờ (thơ, Tú Nam), Hai chị em bé Việt (truyện ngắn, Từ Bích Hoàng), Góp ý, kinh nghiệm: Có nên gây thành một phong trào kể chuyện ở đơn vị không? (An Bá Đảm), Đẩy mạnh phê bình văn nghệ: Mấy ý kiến về cuốn truyện ‘Giành lấy tương lai’ của Tú Nam (trích thư bạn đọc Trịnh Văn Hải, tình nguyện quân ở Lào).

Sinh hoạt văn nghệ số ra tháng 12/1954 có tên sách là Trở về, gồm: Trở về (truyện, Từ Bích Hoàng), Gọi chồng (truyện tiễu phỉ ở Tây Bắc, Chu Điền), Nhân dân Lào anh dũng: Chị không ưng chúng nó (ký, Vũ Như), Chiến thắng Điện Biên Phủ: Những ngày kéo pháo (ký, Nguyễn Ngọc Giám), Đi lên, anh em (thơ, Tú Nam), Về Sơn (thơ, Minh Đạo), Tiếng hát chăn trâu (thơ, Kinh Kha), Nhìn thẳng (thơ, Nguyễn Thi), Noi gương Bác không ngủ (thơ, Văn Hồng), Em ơi, vì tổ quốc (thơ, Xuân Miễn), Tuổi trẻ (thơ, Tú Nam), Đẩy mạnh phê bình văn nghệ (trích thư bạn đọc): Nhận xét về bài thơ ‘Bố con đi đánh giặc’ của Tú Nam (Phan Ngọc, C.34, D. 548), Vài ý kiến về cuốn chuyện ‘Phan Đình Giót’ của Phác Văn (Huy Phương), Ý kiến các bạn: Cần tiến tới một cuộc họp mặt các anh chị em sáng tác văn thơ trong quân đội (trích thư gửi về phòng văn nghệ quân đội của: Xuân Thiêm, Nguyễn Khải, Phan Huỳnh, Trần Độ, Nguyễn Phúc Nghiệp, An Bá Đảm, Lý Đăng Cao); Bức thư ngỏ… (Từ Bích Hoàng).

Bức thư ngỏ của Từ Bích Hoàng, thay mặt những người bộ đội cầm bút gửi tới những người bộ đội cầm súng lâu nay vẫn là độc giả của mình, cũng là trang cuối cùng của loạt 24 số Sinh hoạt văn nghệ do Nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành trong hai năm 1953-54.

CHÚ THÍCH

(1) Nguyễn Huy Tưởng, Hội nghị văn nghệ bộ đội (tường thuật) // Tạp chí Văn nghệ, [Việt Bắc] s. 11&12 (tháng Tư & tháng Năm 1949), tr. 19. Dẫn theo ‘Sưu tập Văn Nghệ 1948-1954’ tập 2: 1949. Hữu Nhuận sưu tầm, Lại Nguyên Ân biên soạn. Hà Nội: Nxb. Hội nhà văn, 1999, tr. 195.

(2) Như trên

L.N.A

(còn nữa)

Nguồn: FB Lại Nguyên Ân

Comments are closed.