CÁC “TAI NẠN” VĂN CHƯƠNG ĐƯƠNG ĐẠI (1)

Văn Việt: Trong lịch sử Việt Nam, không hiếm những “tai nạn văn chương” lớn nhỏ, từ bài thơ “phản nghịch” của con trai cả đại thần Nguyễn Văn Thành thời Gia Long khiến cha con tác giả mất mạng đến vụ mới nhất là “luận văn thạc sĩ Nhã Thuyên” với hậu quả “nhẹ” hơn nhiều (tác giả bị tước bằng, đuổi việc; người hướng dẫn bị cho về hưu). Hồ sơ “Các tai nạn văn chương đương đại” của Văn Việt xin hệ thống lại những vụ tiêu biểu trong khoảng 60 năm lại đây, mở đầu là vụ tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” những năm đầu thập kỷ 1990, rồi đi ngược thời gian đến sau vụ “Nhân văn-Giai phẩm” (hồ sơ vụ án lịch sử này đã được nhiều công trình tổng kết nên xin phép không nhắc lại nữa). Lịch sử không nên và không thể bị quên. Những ai cố tình quên hoặc bất chấp các bài học lịch sử thì không thể làm được việc gì tử tế trong hiện tại, còn những việc không tử tế thì dù mưu gian kế hiểm hay tàn trắng bạo trợn cũng sẽ thất bại, đặc biệt trong lĩnh vực văn chương nghệ thuật, các sản phẩm tinh thần cao cấp của con người.

“NỖI BUỒN CHIẾN TRANH” HAY NỖI BUỒN PHÊ BÌNH VĂN HỌC (1)

BAONINHTiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh, công bố năm 1990 dưới nhan đề Thân phận tình yêu (Nxb. Hội Nhà Văn, Hà Nội, 1990), được dư luận trong các giới văn học và phê bình đánh giá cao, được tặng Giải thưởng Văn học năm 1991 của Hội nhà văn VN. Sau khi xuất hiện bản dịch tiếng Anh (The Sorrow of War, translators: Phan Thanh Hảo and Frank Palmos) và được tặng giải thưởng cho tiểu thuyết nước ngoài của báo Anh Independent (1994), thì trên báo chí trong nước xuất hiện một đợt phê phán khá nặng nề đối với tác phẩm này. Hậu quả trực tiếp là suốt một thời gian dài khoảng 10 năm sau đó, tác phẩm này của Bảo Ninh không được cấp giấy phép tái bản trong nước. Chỉ từ 2006, tình trạng kể trên mới chấm dứt.

Dưới đây, chúng tôi giới thiệu lại một phần các bài báo trong đợt phê phán kể trên. Văn bản rút từ tập tài liệu “Đời sống văn nghệ thời đầu đổi mới” do hai nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân và Nguyễn Thị Bình cùng một số sinh viên, nghiên cứu sinh thực hiện cuối năm 2006.

CÁC BÀI:

– Trần Duy Châu: Từ đâu đến nỗi buồn chiến tranh? // Tạp chí Cộng sản, Hanoi, s. số 10 (tháng 10-1994)

– Phạm Chí Dũng: Suy nghĩ về cái tang tóc của “Nỗi buồn chiến tranh” // Công an Tp.HCM. (11/8/1995)

– Nguyễn Quang Sáng: Trả lời phỏng vấn của báo “Công an Tp.HCM.” về quyển “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh // Công an Tp.HCM. (13/9/1995)

– Nguyễn Khải: Trả lời phỏng vấn của báo “Công an Tp.HCM.” về quyển “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh // Công an Tp.HCM. (20/9/1995)

– Vũ Tú Nam: Trả lời phỏng vấn của báo “Công an Tp.HCM.” về quyển “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh // Công an Tp.HCM. (27/9/1995)

– Nguyễn Thị Ngọc Tú, Vũ Quần Phương: Trả lời phỏng vấn của báo “Công an Tp.HCM.” về quyển “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh // Công an Tp.HCM. (04/10/1995)

– Nguyễn Đình Ước, Huỳnh Khái Vinh: Trả lời phỏng vấn của báo “Công an Tp.HCM.” về quyển “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh // Công an Tp.HCM.(11/10/1995)

– Vũ Hạnh: Khi các vị giám khảo xét lại lá phiếu của mình // Công an Tp.HCM. (18/10/1995)

– Thanh Lê: Thấm đòn qua “Nỗi buồn chiến tranh”// Công an Tp.HCM. (18/10/1995)

– Linh Hòa: Thảo luận về “Nỗi buồn chiến tranh” // Công an Tp.HCM. (01/11/1995)

– Nguyễn Đình Thi: Tôi mong anh em tỉnh táo hơn, có trách nhiệm hơn về những điều mình viết, mình suy nghĩ…(trả lời phỏng vấn của báo “Công an Tp.HCM.) // Công an Tp.HCM. (29/11/1995)

1. TỪ ĐÂU ĐẾN NỖI BUỒN CHIẾN TRANH?

TRẦN DUY CHÂU

Tiểu thuyết Thân phận tình yêu (Nỗi buồn chiến tranh) của Bảo Ninh được Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam 1991-1992 đã gây phản ứng khác nhau của bạn đọc và một số nhà phê bình. Tạp chí Cộng sản đã nhận được ý kiến của một số bạn đọc và trên một số bài cũng đã đề cập đến vấn đề này. Gần đây Nỗi buồn chiến tranh được một số tờ báo nước Anh trao giải thưởng trên cơ sở bản dịch tiếng Anh của một dịch giả người Anh, dường như có ý muốn xóa nhòa ranh giới giữa chiến tranh cứu nước và chiến tranh xâm lược. Trong dịp này, chúng tôi lại nhận được ý kiến của bạn đọc phản ứng đối với giải thưởng trên. Dưới đây, chúng tôi trích đăng ý kiến của một bạn đọc.- T.C.C.S.

Không thể nào thực hiện được bằng những tư tưởng, những suy luận sáng sủa rõ ràng, Bảo Ninh phải cầu viện đến sự rối rắm, mơ hồ, hỗn độn của cái gọi là “trực giác” “vô thức” để tạo nên một hình ảnh đảo ngược của hiện thực, chuyển đổi các giá trị, biến trắng thành đen, thay khúc ca khải hoàn của toàn dân tộc thành tiếng hát bi thương của bài ai điếu của những kẻ lạc loài. Người viết (cũng như nhân vật) phải biến mình thành một kẻ mộng du lang thang chập chờn với cái tâm trí huyền thuật (mentalité magique) của người mơ mộng, đúng hơn là của kẻ mắc bệnh tâm thần, nghĩa là những người được “miễn truy cứu trách nhiệm” trước tòa án lương tâm thời đại, được miễn trừ sự phán xét của lý trí lành mạnh, tỉnh táo của bạn đọc xa gần. Vì vậy, theo tôi, cái siêu nhiên, cái hoang đường trong Nỗi buồn chiến tranh chỉ là thuần túy kỹ thuật – một sự khéo tay nếu có – nó không hề mang lại một ý nghĩa nào có giá trị trên bình diện triết học, cũng như trên bình diện thẩm mỹ.

Tác giả cuốn hút người đọc vào không khí hư hư thật thật bằng những lối biểu hiện quanh co, lối diễn đạt nghịch lý (nếu đúng chỗ cũng tạo nên sự thú vị nhất thời cho người đọc) nhưng rõ ràng Bảo Ninh đã không thành công trong việc quấn chặt lấy người đọc (Đây không chỉ là cảm tưởng của người viết bài này; những người quan tâm đến vấn đề thử làm một cuộc điều tra xã hội học xem sao!). Mỗi lần muốn cùng đi với tác giả, hòa nhập vào nhân vật để tìm thử cái lý của nó, tôi – người đọc – lại cứ thoát ra, như một phản xạ tự nhiên, khỏi sự huyễn hoặc, để ngắm, để nhìn, như nhìn vào một cỗ máy được dàn dựng – có lẽ cũng khéo tay, nhưng thiếu hẳn một cái gì đó. Cái thiếu hẫng ấy gọi là “linh hồn của văn học” theo nghĩa người đọc không tìm thấy trong tác phẩm nghệ thuật những điều giúp con người giữ được hình ảnh lý tưởng mà nó có về con người, được thừa kế từ nền văn hóa của dân tộc và của cả nhân loại.

Tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh còn được mang một tên khác khi mới ra đời: Thân phận của tình yêu. Cả hai tên sách đều đúng, và nếu đặt bên nhau, người đọc sẽ nắm được ngay ý đồ của tác giả hình thành từ lúc tác phẩm còn trong thời kỳ thai nghén. Bảo Ninh đã trừu xuất tất cả ra khỏi hoàn cảnh lịch sử cụ thể để trình diễn cuộc “xung đột vĩnh hằng” giữa con người (tình yêu) và cái con người đã tạo ra (chiến tranh), tức là phản ánh tình trạng con người đánh rơi mất bản thân mình, nói theo ngôn ngữ triết học. Thêm nữa, trong Nỗi buồn chiến tranh, dụng ý trực tiếp của tác giả còn là muốn vẽ nên huyền thoại về tình yêu để đối lập với một sức mạnh xã hội mù quáng làm cho con người mất hết “nhân hình và nhân dạng”. Tình yêu ở đây – trong quan hệ của Kiên và Phương, một thiếu nữ có “một dạng thánh nhân và tiên nữ”, có một “vẻ đẹp lạc thời và lạc loài” – là sự gần gũi tuyệt đối của “hai chữ tự do”. Họ là những con người không tin vào bất cứ giá trị nào ngoài tình yêu của họ, họ luôn cảm thấy ngột ngạt khi đặt mình vào một tổ chức hay một quan hệ xã hội nào. Họ là “những kẻ xa lạ” trên mảnh đất đã sinh ra và nuôi dưỡng họ. Do đó học không tìm thấy chỗ đứng trong cuộc sống chung của dân tộc. Tình yêu trở thành nơi ẩn náu duy nhất của họ để phản ứng lại cái mà họ xem là phàm tục… Kết cục tình yêu ấy đã bị chiến tranh vùi dập.

Đúng là trong đấu tranh chống lại cái gọi là số phận, tình yêu thường chiếm một vị trí quan trọng, thể hiện những khát vọng của con người, để làm cho “con người trở thành người hơn trong thế giới con người”.

Vậy thì, thử hỏi chiến đấu vì phẩm giá con người gắn liền với phẩm giá dân tộc có làm cho con người trở nên người hơn không?! Với Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh muốn gây sự phẫn nộ, muốn gieo sự khiếp đảm cho người đọc. Nhưng tác giả cũng nhận thức được là mình sẽ gặp không nhiều may mắn. Từ trong bề dày lịch sử, người Việt Nam rất nhạy cảm trước những lợi ích sống còn của dân tộc, luôn đủ thông minh và tỉnh táo để phân biệt đâu là “đại nghĩa”, đâu là “hung tàn”, đâu là “chí nhân” và đâu là “cường bạo”. Do đó ở đây một mặt cần phải “viết sao cho xao xuyến nỗi lòng, nỗi dạ, xúc động nổi trái tim con người như thể viết về tình yêu…” (tr.59), mặt khác cần phải có “ảo thuật” trong viết và lách bằng cách luôn luôn công khai phơi bày sự tự mâu thuẫn; không phải là thứ “mâu thuẫn thống nhất” nằm trong sự vật, cũng chẳng phải là những phản đề va chạm nhau trong tư duy biện chứng để tìm ra chân lý, mà là sự mâu thuẫn của những luồng suy nghĩ không những khác nhau mà còn đối địch nhau nhằm đặt lại vấn đề cơ bản trong tinh thần hoài nghi hàm chứa sự phủ định đối với những giá trị đã được xác lập, đối với cả con đường đi lên của đất nước hiện nay và mai sau.

Trong Nỗi buồn chiến tranh, không phải là “cái thật” được chiếc đũa thần của nghệ thuật “làm cho thật hơn”, mà ngược lại “ảo thuật và kỹ thuật” đã làm nó biến dạng, biến chất “như thể ấy là một cuộc chiến tranh chưa từng được biết tới” (tr.53). Chỉ có một cái thật – thật một cách trần trụi và không che giấu: “sự vỡ mộng đau đớn với đời”, đưa đến sự hằn học và cái “cao ngạo” của người viết. Chính những xung lực này đã tạo nên Nỗi buồn chiến tranh và dệt nên bắc tranh phản hiện thực. Cứ nhìn vào hình ảnh của “cuộc chống Mỹ cứu nước” được vẽ nên trong tác phẩm: “Chân trời chết chóc mở ra mênh mang, vô tận những nấm mồ bộ đội mọc lên nhấp nhô tựa sóng cồn, “bên bếp lửa” đàn ghi ta bập bùng, quân lính thời 74 hát, lời ca khốc liệt làm ớn lạnh những đêm trường, “ôi chiến trận: không bến không bờ – ngày mai hay hôm nay, hôm nay hay ngày mai, nói đi số mệnh ơi, bao giờ tôi sẽ…” (tr.17). Hoặc “Hết trận thắng này đến trận thắng khác, nhưng dường như chiến tranh vẫn hun hút, mịt mù, tuyệt vọng vô phương” (tr.16). Và đây, những nét khắc họa về hình ảnh người lính mang “tính chất nghĩa quân nông dân”, “thích hợp tuyệt đối với cảnh địa ngục chiến hào”. Nào là “đồng đội của anh(Kiên) mỗi người một kiểu say sưa mơ màng trong khói hồng ma”; nào là “cùng với thời kỳ bài bạc và hút xách ấy là thời kỳ mà khắp trung đoàn đầy rẫy những lời đồn đại, những sấm truyền và những điều tiên tri”; nào là “nạn đào ngũ lan rộng khắp trung đoàn, chẳng khác gì những cơn ói mửa làm ruỗng nhiều trung đội, không thể chắn giữ ngăn bắt nổi” (tr.24).

Những người lính “mang tính chất nghĩa quân nông dân” ấy chỉ bị nhồi nhét một thứ: “liên miên chính trị, chính trị sáng, chính trị tối, tối lại cũng chính trị. Ta thắng địch thua, miền Bắc được mùa, thế giới chia làm ba phe rõ rệt” (tr.10), để biến họ thành những máy giết người và bị người giết!

Cái chết bao trùm, cái chết khắp nơi, nó biến cuộc đời thành số phận. Khi luôn luôn phải đối diện với cái chết như cuộc đời những người lính trận; mà không thấy rõ cái lý của sự hy sinh chắp cánh cho họ, thì con người chỉ là trò chơi trong bàn tay số mệnh nghiệt ngã, ý thức hiện hữu trước hết gắn liền với ý thức về hư vô, và cuộc đời trở thành vô nghĩa và phi lý! Nhưng những người lính chống Mỹ hay đúng hơn là tuyệt đại bộ phận trong họ lại không phải thế! Cả nhân loại tiến bộ qua hình ảnh của chính họ đã nhìn thấy “cái giới hạn của sức mạnh kỹ thuật khi đương đầu với Con Người” (La-cu-tua, dẫn lại Trần Văn Giàu trong Vĩ đại một con ngườiVăn nghệ, số 37).

Nhân đây, xin bày tỏ một suy nghĩ của người viết: Bằng sự bôi nhọ sự nghiệp chống Mỹ của nhân dân ta, Bảo Ninh không chỉ xúc phạm đến những người đang sống, đang tiếp tục đi theo con đường lớn mà cuộc chiến tranh cách mạng đã tạo nên một “đột phá khẩu”, “một cái đã sống” để đi lên và đi xa. Tác giả Nỗi buồn chiến tranh còn muốn giết chết hẳn những người đã vĩnh viễn nằm xuống để cho “dân tộc quyết sinh”. Lần thứ nhất, những cái chết của họ là sự hy sinh cao cả – những người có lương tri cần phải biết ơn, không chỉ bằng tượng đồng bia đá, mà cả suy nghĩ, hành động, xử thế hàng ngày. Còn lần sau? Đó là sự khai tử của một ngòi bút quá nhẫn tâm đã coi họ là vật hy sinh mù quáng cho những cuồng vọng của con người. Và hãy nhìn vào những gia đình liệt sĩ, những thương binh, bệnh binh… họ sẽ như thế nào khi mất đi những giá trị làm vật chống đỡ cho cuộc đời bất hạnh của họ? Chẳng lẽ đó không phải là chủ nghĩa nhân đạo, là vấn đề của con người?

Cũng xin nói thêm “Khi đề cập đến con người phải nghĩ rằng con người không chỉ là tổng số những cái nó tự tạo cho nó, mà còn là cái nó đang suy nghĩ, đang hy vọng, còn là cái đang biến đổi nó, tách nó ra khỏi hoàn cảnh và quá trình phát triển của nó. Không như thế thì không bao giờ hiểu đúng con người và nói đúng những vấn đề của con người…

w Nguồn: Tạp chí Cộng sản, Hà Nội, số 10 (tháng 10-1994)

2. SUY NGHĨ VỀ CÁI TANG TÓC
CỦA NỖI BUỒN CHIẾN TRANH

PHẠM CHÍ DŨNG

Đúng ra, một cuốn sách văn học phải là một tác phẩm nghệ thuật, một cái gì đó mang tính chân lý, lạc quan trong cuộc sống. Tuy nhiên, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh lại dường như đi ngược lại chân lý trên.

Thấm thoắt đã 20 năm trôi qua kể từ ngày miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất trọn vẹn. Và chúng ta vừa kỷ niệm hai thập kỷ của một niềm vui khôn xiết nhưng phải trả bằng vô vàn máu xương của những người đã vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường, trong cuộc chiến đấu hào hùng của dân tộc ta chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng. Đúng, hẳn chưa một ai, nếu còn lý trí, lại có thể quên đi điều đó.

Nhưng ngay từ những trang đầu của Nỗi buồn chiến tranh, lý trí đã có thể bắt đầu bị tha hóa. Đi suốt chiều dài cuốn tiểu thuyết là chiều dài không gian và thời gian của cuộc chiến tranh diễn ra vào năm 1969, 1972, 1974, thời hòa bình vào năm 1976, rồi lại dội về ký ức của những năm máu lửa. Hơn bất kỳ cuốn tiểu thuyết nào trước đây, cái năm tang tóc và mùi tang tóc ngùn ngụt bốc ra từ Nỗi buồn chiến tranh. Cái tang tóc đó không phải nằm trong những xác người thối rữa, mà kinh khủng hơn lại chính từ những người sống, những người “thoát khỏi cuộc chiến tranh”. Sự dằn vặt, tranh chấp triền miên giữa cái sống và cái chết, giữa cái nhân tính và phi nhân tính trong nhân vật chính – một người có rất nhiều mâu thuẫn. Tại sao lại có nhiều mâu thuẫn như vậy? Tại sao tác giả lại khẳng định rằng sở dĩ con người thoát khỏi cuộc chiến tranh, bởi họ biết buồn về chiến tranh? Như vậy Kiên – một chiến sĩ giải phóng quân, chiến đấu cho cái gì, hay chỉ cho một thứ chủ nghĩa anh hùng cá nhân và suy tôn cá nhân? Chính sự mâu thuẫn về mặt triết học giữa cái chung và cái riêng của nhân vật đó đã dẫn anh ta đến việc nhìn nhận xã hội như một cái ổ của sự u ám, bế tắc, nơi diễn ra cảnh hỗn loạn tinh thần, đầy rẫy những kẻ điên khùng, gái điếm, ăn mày, vô số những con người hung dữ, sẵn sàng xé xác nhau vì một câu chửi thề. Và sau hết, nhân vật chính cho rằng đó là kết quả tất yếu của chiến tranh, một cuộc chiến tranh vô nghĩa. Và nếu như tác giả căm giận cái “cuộc chiến tranh vô nghĩa” đó bao nhiêu, thì tôi lại thất vọng bấy nhiêu vì bi kịch giả tạo của tác giả khi phản ánh cuộc chiến tranh ấy, thông qua nhân vật Kiên.

Anh ta, một người đã chứng kiến “tất cả những đau thương đổ vỡ” của cuộc chiến tranh, đã hành động như thế nào? Dưới làn mưa đạn khi đối mặt với kẻ thù, anh ta cứ lừng lững tiến lên. Khi anh ta giết chết kẻ thù một cách tàn nhẫn, thì đồng đội anh ta cũng giết không thương tiếc một kẻ đào ngũ. Ở đây, những cái chết đều như nhau, và tác giả đã đồng hóa thẳng thừng những chiến sĩ cộng sản và bọn thám báo ngụy, không một sự phân biệt về nhân cách, để tất cả đều dẫn đến cái chung nhất là sự chết chóc. Chỉ có duy nhất, tác giả đã “thành công” khi mô tả Kiên như một kẻ đào ngũ về mặt tinh thần, như một người hùng giữa hằng hà sa số thứ nhơ nhớp bẩn thỉu. Cuối cùng, người hùng ấy cũng không tìm thấy lối ra trong cuộc sống. Trở về nhà sau chiến tranh, anh ta lại tiếp tục rơi vào trạng thái bình thản đến điên loạn, với những bực bội trong người không thể viết ra được, những mảnh tình chớp nhoáng với một cô gái ăn sương, một người tình cũ có mệnh danh là “đĩ thập thành”, một người đàn bà câm… Tôi bật cười, té ra cái “hùng” của con người ấy lại được kết thúc bằng những hành vi theo kiểu “bản năng gốc” như vậy. Có đáng học hỏi chăng? Có và không, thực chất là một bài học khốn khổ cho những kẻ lạc lối trong cuộc đời, những kẻ “nô lệ của tình dục”, biết “núm vú đàn bà còn hơn cả một chú bé con” mà chúng ta vẫn đôi khi gặp phải.

Với cái logic như thế, tác giả đã dùng nhân vật chính để phản chiếu cái thế giới “Các chiến sĩ giải phóng quân ăn nhậu ngay bên cạnh xác đàn bà lõa lồ vào ngày 30-4-1975 ở sân bay Tân Sơn Nhất”. Trong số các trung đoàn đã đánh chiếm sân bay, ai sẽ là người đứng ra làm chứng cho Bảo Ninh về những hành động đó? Nếu không có bằng chứng gì, chẳng lẽ tác giả có cái quyền “hư cấu” đến mức như vậy sao? Cũng với cái logic như thế, tác giả đã nói với kẻ ăn mày: “Ăn mày mà lập trường gang thép gớm chưa! Mẹ kiếp, cái dân An Nam nhà mình chỉ giỏi chống ngoại xâm chứ đến ăn xin cũng chả biết đường. Ê, hạ lập trường xuống, thì cho”. Đến đây, tôi giật mình tự hỏi: mỗi dân tộc đều có phẩm giá, mỗi con người đều có lòng tự trọng tối thiểu, vậy có còn đạo lý hay không khi tác giả cố ý dẫm nát phẩm giá và lòng tự trọng đó xuống bùn đen? Đâu là cái nhân tâm của người cầm bút?

Thêm vào đó, trong cái thế giới nội tâm của nhân vật chính, rừng rú luôn tồn tại ma quái, xã hội luôn đầy rẫy những hình ảnh siêu linh. Thật khó hiểu là với cái mớ bòng bong vàng thau lẫn lộn như thế, anh ta có thể sống sót được đến hết cuộc chiến tranh và thậm chí một phần thời hòa bình, và cũng thật dễ hiểu, vì trong xã hội đã và đang có những kẻ như vậy, cam chịu làm kiếp “con sâu cái kiến” để bào mòn cuộc đời trong ký ức cặn bã của mình.

Cuối cùng, tác giả kết luận “Nghĩa vụ của một con người trước trời đất là sống chứ không phải là hy sinh nó, là nếm trải sự đời một cách đủ ngành ngọn chứ không phải là chối bỏ… Không phải ta khuyên con trọng mạng sống hơn cả, nhưng mong con hãy cảnh giác với tất cả những sự thúc giục con người lấy cái chết để chứng tỏ một cái gì đấy” (tr.61) và “Chao ôi! Chiến tranh là một cõi không nhà, không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không đàn ông, đàn bà, là thế giới thảm sầu vô cảm và tuyệt tự khủng khiếp nhất của dòng giống con người” (tr.32).

Tôi hiểu, điều tác giả muốn thể hiện ở đây là một quân đội cộng sản lộn xộn, vô kỷ luật, nằm trong một xã hội đầy bất công và nhung nhúc những kẻ tha phương khốn nạn theo kiểu Chí Phèo, một bản năng tình dục theo thuyết hiện sinh vương vấn chút mùi vị vô luân, một cái chết từ từ không tưởng của tất cả những kẻ nào sống bế tắc. Thật tồi bại, đó là một cái nhìn hoàn toàn sai lệch về cuộc chiến tranh của tác giả! Đối với những chiến sĩ cộng sản đã kinh qua cuộc chiến tranh, đó là cách nhìn bệnh hoạn của những kẻ bệnh hoạn.

Tôi đã đi theo tác giả từ trang đầu đến trang cuối của cuốn sách, nặng nề, bi đát, chán ngán, đủ cả. Nhưng sau tất cả, tôi phải quay về với hiện thực mà nói với tác giả bằng bài thơ tôi đã được đọc ở đâu đó:

Cuộc chiến tranh thần thánh

Đồng đội tôi nằm đâu

Trái đắng các anh nhận

Trái ngọt dành đời sau

Cuộc chiến tranh thần thánh

Trái ngọt hẳn ngọt môi

Ai nhận phần trái ngọt

Có nhớ đồng đội tôi?

Tất cả là như vậy, cuộc chiến tranh của dân tộc Việt Nam chống đế quốc Mỹ và những tàn dư của chúng, là chân lý! Chân lý đó, không ai có quyền phủ nhận, trước biết bao xương máu của hàng triệu con người đã phải nằm xuống để chúng ta có cái nhìn cuộc đời như ngày hôm nay. Chính nghĩa của cuộc chiến tranh đó, như tôi đã nói, chỉ có những kẻ mất trí mới không thấy được, chỉ có những kẻ hèn nhát mới trốn chui trốn nhủi trước số phận.

Được biết Nỗi buồn chiến tranh đã nhận giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, tôi vô cùng kinh ngạc. Chẳng lẽ người ta đang quên đi cái gốc gác của mình sao? Chỉ có điều cần nhắc lại, nguyên nhân chính của sự tan vỡ Liên Xô là sự xét lại, và ngay lúc này đây sự xét lại đó vẫn luôn ngấm ngầm ẩn trong cái “diễn biến hòa bình” của người phương Tây.

w Nguồn: Công an thành phố Hồ Chí Minh, Tp. HCM (11-8-1995)

3. PHỎNG VẤN NHÀ BÁO NGUYỄN QUANG SÁNG VỀ QUYỂN NỖI BUỒN CHIẾN TRANH CỦA BẢO NINH

NGUYỄN QUANG SÁNG

Cuốn tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh sau khi được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam đã gây ra nhiều cuộc tranh cãi trong giới văn học. Nhiều bài viết phê phán tác phẩm này đã in trên các báo và dư âm của nó vẫn còn trong dư luận không chỉ riêng với văn học mà đã trở thành nỗi quan tâm trong dư luận quần chúng.

Tại sao tác phẩm bị nhiều tai tiếng ấy lại được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải, bối cảnh “lịch sử” lúc ấy như thế nào và suy nghĩ của các thành viên Ban Giám khảo ra sao? Bức xúc trước vấn đề của bạn đọc quan tâm, vừa qua báo Công an thành phố đã có cuộc trao đổi với nhà văn Nguyễn Quang Sáng, Tổng thư ký Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh và là một thành viên của cuộc bỏ phiếu trao giải cho tác phẩm nói trên.

Sau đây là bài trả lời của nhà văn Nguyễn Quang Sáng, với tựa nhỏ là “Lời báo trước của một bạn đọc”.

Lời báo trước của một bạn đọc

Nhắc đến tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của anh Bảo Ninh, tôi xin trích một đoạn trong Dự thảo báo cáo của Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam trong Đại hội Nhà văn lần thứ V trong vấn đề này, như sau:

“… Hội đã thực hiện đều đặn việc trao giải thưởng hàng năm. Nhìn chung, các tác phẩm được giải đều lành mạnh, được bạn đọc quan tâm. Tuy nhiên, thời gian đã và đang sàng lọc có giá trị. Một vài cuốn sách đã gây nên những ý kiến khen chê rất trái ngược nhau. Đáng chú ý nhất là tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Khi thảo luận để xét trao giải, Ban chung khảo và Ban Chấp hành Hội đều có một số ý kiến thấy cuốn sách có những mặt mạnh cần biểu dương, khuyến khích; nhưng ngược lại, có những nhược điểm quan trọng.

Trong phiếu giám định cuốn sách của Bảo Ninh, có hai ủy viên Ban chung khảo thiên về khen ngợi.

Một số ủy viên chung khảo khác chấp nhận những mặt được, nhưng có sự đánh giá khác không giống hai ý kiến trên:

“… Chủ đề có chiều sâu. Nhưng cái nhìn hiện thực có nét chủ quan, không đúng hẳn với hiện thực lịch sử. Tác giả muốn đứng cao hơn cả hai phe trong cuộc chiến đó. Nhưng tác giả chưa đủ điều kiện để giữ được thăng bằng”.

“… Cách nhìn nhận lại quá khứ chiến tranh và cả cách nhìn hiện tại có những biểu hiện chủ quan thiên lệch đến nặng nề tối tăm mà độc giả thông thường kể cả những người đã trải qua cuộc chiến đấu khốc liệt như trong truyện khó có thể chấp nhận và coi đó là chân lý lịch sử”.

“… Có những điều khiến người đọc phân vân: Địch và ta vào cuộc chiến phải có cái khác nhau cơ bản chứ. Toàn truyện thiên về các mặt tiêu cực bi kịch. Có cái gì đó hơi quá khích, quá liều lượng. Có thể là do tâm trạng nặng nề ảnh hưởng vào cách nhìn”.

“… Nhưng không ai nghi ngờ tác giả muốn tạc tượng đài cả thế hệ bạn bè mình đã hy sinh, nhưng chỉ quá một tý nữa thì tác giả sẽ phản lại đồng đội mình, tả họ như là hy sinh vô ích”.

“Sau đó Ban Chấp hành có trao đổi bàn bạc, giao cho báo Văn nghệ tổ chức lấy ý kiến về cuốn sách. Đến nay, đa số trong Ban Chấp hành thấy việc tổ chức thảo luận khi ấy chưa thật kỹ, chưa qua thử thách của dư luận, việc trao giải cho Thân phận của tình yêu (Nỗi buồn chiến tranh) năm 1991 là thiếu chín chắn, nặng về khuyến khích một cây bút trẻ đã trải qua chiến đấu, mà coi nhẹ tính định hướng của giải thưởng.

Sự mơ hồ và u ám trong cách nhìn của Bảo Ninh khi miêu tả cuộc kháng chiến chống Mỹ đã bị một số người thiếu thiện ý ở nước ngoài lợi dụng, nhằm xóa ranh giới giữa chiến tranh chính nghĩa và phi nghĩa; thêm nữa, chính tác giả cuốn sách khi trả lời nước ngoài phỏng vấn cũng bộc lộ những quan điểm sai trái. Bạn đọc trong nước phê phán cuốn sách này càng ngày càng nhiều. Đó là sự nhắc nhở chính đáng của dư luận, là bài học kinh nghiệm của chúng ta…”.

Thái độ của Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa IV đối với quyển sách Nỗi buồn chiến tranh của anh Bảo Ninh là nghiêm túc và khá đầy đủ.

Nếu hỏi trách nhiệm của riêng tôi và suy nghĩ của cá nhân tôi đối với quyển sách Nỗi buồn chiến tranh, thì tôi là người chịu trách nhiệm chung với Ban Chấp hành.

Giải thưởng Văn học của Hội Nhà văn Việt Nam 1991, tôi không có chân trong Ban Giám khảo, nhưng với tư cách là thành viên của Ban Chấp hành, tôi có quyền bỏ một lá phiếu chấp nhận hoặc phủ nhận giải thưởng.

Tôi nhận ra mặt mạnh cũng như mặt yếu của tác phẩm, và bỏ phiếu thuận với ý nghĩ đây là một cây bút trẻ xuất thân từ một người lính cầm súng, học viên Trường viết văn Nguyễn Du, với tác phẩm đầu tay đã viết với tâm huyết của mình. Lá phiếu của tôi là phiếu khuyến khích một cây bút trẻ trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ. Tôi nghĩ rằng, đối với người hiểu biết văn học không ai có thể coi đây là một tác phẩm tiêu biểu của nền văn học Việt Nam, lại càng không thể coi đây là một tác phẩm tiêu biểu về cuộc chiến tranh đánh Mỹ của nhân dân ta.

Nhưng cái điều không ngờ nó lại đến. Không ngờ những người trong nước cũng như nước ngoài thiếu thiện chí đã khoét sâu cái mặt nhược của tác phẩm để thực hiện ý đồ chính trị của mình.

Tôi có một người bạn lớn hơn tôi vài tuổi, vừa sành ăn, vừa sành đọc. Lần nào đọc của tôi, anh cũng có lời khen và lời chê. Bao nhiêu năm qua tôi thấy anh chưa chê sai lần nào. Nhân đọc Nỗi buồn chiến tranh, anh bảo tôi:

” …Đọc vô đầu, tôi thấy đây là kiểu mở đề theo kiểu Số phận một con người của “Solokhov”, vừa đọc tôi vừa nhớ “Romac” và nhớ quyển Tấc đất của một nhà văn Nga viết về chiến tranh. Nhưng đọc được, có đoạn cảm động, nhưng buồn quá. Ngay cái tên sách cũng đã nói rõ cái ý của người viết. Chiến tranh, dứt khoát không thể là niềm vui, nhưng không chỉ có nỗi buồn. Cuộc chiến tranh của một dân tộc chống xâm lăng là “khúc ca bi hùng”. Ở đây chỉ có bi mà không có hùng, chỉ có phân nửa sự thật thôi. Phân nửa sự thật thì không phải là sự thật, dễ bị xuyên tạc. Các ông trao giải cho tác phẩm này, trước sau gì các ông cũng bị “ăn đòn”.

Qua lời kiểm điểm của Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam về giải thưởng Nỗi buồn chiến tranh trong báo cáo đọc trước Đại hội, tôi thấy lời báo trước của anh là đúng, tôi là một trong những người bị “ăn đòn” của nhân dân.

w Nguồn: Công an thành phố Hồ Chí Minh, Tp.HCM (13-9-1995)

 

 

4. TRẢ LỜI PHỎNG VẤN VỀ CUỐN
NỖI BUỒN CHIẾN TRANH CỦA BẢO NINH

NGUYỄN KHẢI

Nhà văn Nguyễn Khải là một cây bút rất cẩn trọng, ông có nhiều tác phẩm gây được tiếng vang và để lại ấn tượng trong lòng người đọc. Trong “bối cảnh lịch sử” của giai đoạn tặng giải thưởng cho cuốn Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, nhà văn Nguyễn Khải cũng là một thành viên trong Ban Giám khảo. Vừa qua, báo Công an thành phố đã phỏng vấn ông về vấn đề này, và sau đây là nội dung cuộc phỏng vấn…

P.V. – Thưa anh, là một thành viên trong Ban Giám khảo, anh có suy nghĩ như thế nào khi bỏ phiếu trao giải cho cuốn Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Sau khi có dư luận phản ứng, anh nhìn vấn đề này như thế nào?

NGUYỄN KHẢI – Tôi là người đã bỏ phiếu ủng hộ ba cuốn tiểu thuyết: Nỗi buồn chiến tranh, Mảnh đất lắm người nhiều ma Bến không chồng vào giải thưởng hàng năm của Hội Nhà văn. Lần đầu được đọc ba cuốn sách đó, tôi rất mừng vì những mảng hiện thực khá gai góc đã được miêu tả kỹ lưỡng và tài hoa, và cả những tìm tòi rất đáng ghi nhận trong nghệ thuật viết tiểu thuyết. Chúng tôi cũng có bàn nhiều tới mặt yếu kém của từng tác phẩm, nhất là cuốn Nỗi buồn chiến tranh vì cách nhìn chiến tranh của tác giả còn phiến diện và cái không khí ngột ngạt, u ám bàng bạc trong nhiều chương sách. Riêng tôi thì nghĩ đây là tác phẩm đầu tay của một tác giả còn trẻ. Nếu được khuyến khích thì anh ta sẽ nhanh chóng khắc phục được cách nhìn chủ quan, hạn hẹn của tác phẩm đầu. Tôi nói thế nhưng có mấy anh trong Ban chung khảo vẫn rất phân vân. Khi bỏ phiếu, riêng cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh không được toàn thể số phiếu. Sau khi giải thưởng được công bố, sự phản ứng của dư luận bạn đọc là tức thì, vượt khỏi cách nghĩ ban đầu của tôi. Nhiều bạn bè trong quân đội đã gặp tôi để bày tỏ sự phản đối việc trao giải của Hội Nhà văn cho Nỗi buồn chiến tranh. Các anh ấy nói với Bảo Ninh thì chẳng có gì để nói nhiều. Sự từng trải của anh ta ở chiến trường là thế, tâm sự của anh ta là thế thì cũng chỉ viết được đến thế, không thể đòi hỏi hơn. Nhưng Hội Nhà văn lại tuyên dương một cuốn sách viết về chiến tranh với một tâm trạng và cách nhìn của một người bi quan thì thật hết sức lạ lùng. Các anh ấy có quyền hỏi chúng tôi: Vậy chúng tôi là những người như thế nào? Chúng tôi muốn gì? Nghe xong mà tôi ớn lạnh cả người. Tôi chỉ còn biết tự rút ra một kết luận: phàm đã đọc và đánh giá một tác phẩm văn học không nên chỉ căn cứ vào những cảm hứng ban đầu thuần túy văn chương của mình, mà còn phải biết nghĩ đến tác động của nó về mặt xã hội và chính trị tới đông đảo bạn đọc không chỉ ở trong nước mà còn cả ở ngoài nước. Không phải mình muốn bày vẽ ra thế, mà sự đời nó buộc mình không thể không nghĩ rộng ra như thế.

P.V. – Vừa qua đã có những cuộc tranh luận trên lãnh vực văn học mà một số tác phẩm đã tạo sự tranh cãi giữa các nhà phê bình văn học với nhau hoặc với chính tác giả của tác phẩm bị phê phán. Qua đó anh nghĩ gì về tình hình văn học hiện nay?

NGUYỄN KHẢI: Theo tôi, tình hình sáng tác văn học hiện nay là rất đáng lạc quan. Các thể loại văn học: tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký, phóng sự và phê bình văn học đều có sức sống mới với nhiều cách viết khác nhau. Tác phẩm thật hay thì còn hiếm, nhưng đọc được, đọc thích thì nhiều. Ngay những bài báo của hôm nay đọc cũng rất thích. Dân trí phát triển thì những cây bút chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp cũng phải tự nâng mình lên. Tất nhiên cũng như các mặt hoạt động khác của một xã hội đang phát triển, có nhiều cái hay xuất hiện thì cũng không thiếu cái dở xen lẫn vào. Cuộc đấu tranh giữa cái tốt và cái xấu, cái đúng và cái sai, cái hay và cái dở là mãi mãi. Nó chính là sự sống của một nền văn học. Nó có ý nghĩa rất tích cực nếu các cuộc tranh luận ấy đều nhắm tới mục tiêu là đoàn kết đội ngũ, mong muốn giúp nhau gạt bỏ mọi trở ngại để cùng tiến lên cho kịp với bước đi của xã hội, của bạn đọc.

Trong số bạn bè quen biết nhau đã lâu năm, có nhiều anh rất mẫn cảm về cái đẹp, cái mới trong nghệ thuật, lại có những anh đặc biệt sắc bén về chính trị, thường có những nhận định chính xác trước mọi diễn biến phức tạp của thời cuộc. Nếu họ biết cách nói với nhau và chịu khó nghe nhau thì mọi sự sẽ tốt đẹp biết mấy. Tôi vốn là người không được chín chắn về chính trị nên rất thích kết bạn với những anh từng trải hơn để mở rộng sự hiểu biết của mình. Chả có gì phải ngượng ngùng, phải tự ái cái chuyện đó cả. Có mấy ai được hoàn toàn đâu. Mình biết nghe và chịu nghe, dẫu những lời được nghe không phải bao giờ cũng dễ chịu, thì dễ vứt bỏ được những hành lý thừa. Đời nhiều việc, việc nào cũng khó, buộc chặt những thứ không cần thiết vào người làm sao mà đi nhanh, đi xa được. Huống chi tuổi cũng đã lớn rồi.

Tôi thiển nghĩ, người có lẽ phải từ xưa tới nay luôn luôn là người có tấm lòng khoan dung, nhân hậu. Vì bản thân lẽ phải không cần tranh thua hơn với ai, cũng không cần căm ghét hoặc loại bỏ ai, tự nó đã có đủ sức mạnh để thuyết phục, đoàn kết mọi người cùng làm việc trong niềm vui, trong niềm tin cho sự nghiệp đổi mới trong văn học.

P.V. – Thưa anh, với một dư luận chung rất quan tâm đến vấn đề văn học như hiện nay, cũng có nghĩa là dự báo cho tương lai. Vậy theo anh, có thể hy vọng một sự phục hưng về văn hóa dân tộc trong tương lai không?

NGUYỄN KHẢI: Thời này đối với chúng ta là thời phục hưng dân tộc. Quang cảnh đất nước bừng sáng ở mọi nơi, tất nhiên có nơi sáng nhiều, có nơi còn sáng ít nhưng tất cả đã đổi thay, nhanh chóng đến kinh ngạc. Không phải mọi việc đều đã tốt nhưng mọi sự tốt đẹp đều đã bắt đầu. Trong tình hình đó nếu ta hy vọng một sự phục hưng về văn hóa dân tộc cũng không có gì là quá đáng. Nên tôi rất tin vào sự phát triển mới của văn học Việt Nam vừa rất dân tộc vừa rất hiện đại, vừa là chính mình, vừa là một phần của nhân loại. Nếu không là chính mình thì cũng mong ai trọng mình. Mà mình đâu có tầm thường. Dân tộc Việt Nam, tính cách Việt Nam, tâm hồn Việt Nam đã là một đề tài được bàn luận, được nghiên cứu, được viết trong nhiều cuốn sách của bạn bè khắp năm châu. Còn chúng ta, là người Việt Nam, người trong cuộc lại chưa đóng góp được bao nhiêu trong sự giải đáp nhiều câu hỏi của bạn bè. Tôi đã hỏi chuyện nhiều anh hùng trong chiến tranh và trong lao động. Việc làm của họ gần như một kỳ tích, một huyền thoại nhưng họ lại bảo là chả có gì và chỉ kể lại một cách bình thường về những sự “chả có gì” của họ. Khi tôi viết xong đưa các anh ấy đọc, họ có vẻ ngạc nhiên và khen: “Nhà văn viết có khác”. Suốt một đời sống với cái hàng ngày, lo lắng buồn vui với bao nhiêu chuyện vặt vãnh hàng ngày nên đã quên mất tầm nhìn bao quát của con đại bàng bay lượn trên tầng cao. Phải sống với cái hàng ngày, đó là điều tất nhiên, không thế thì sống làm sao? Nhưng cũng lại phải biết tự tách mình ra để ngẫm nghĩ, để nhìn lại chính mình và đồng loại, nghĩ về hôm nay và cội nguồn sâu xa của nó thì rồi sẽ có lúc nhận được cái ánh sáng kỳ diệu của sự kết tinh, là phần hồn của những hình tượng nghệ thuật độc đáo có sức quyến rũ lâu dài.

P.V. – Xin cám ơn nhà văn Nguyễn Khải.

P.V. thực hiện

w Nguồn: Công an thành phố Hồ Chí Minh, Tp.HCM (20-9-1995)

5. TRẢ LỜI PHỎNG VẤN CỦA BÁO CÔNG AN THÀNH PHỐ
VỀ CUỐN NỖI BUỒN CHIẾN TRANH CỦA BẢO NINH

VŨ TÚ NAM

Nhà văn Vũ Tú Nam, nguyên Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam khóa IV, là thành viên của Ban chung khảo trao giải thưởng cho cuốn Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Vừa qua, báo Công an thành phố đã phỏng vấn ông về bối cảnh lịch sử để đi đến quyết định trao giải thưởng này và phần trách nhiệm của riêng ông khi bỏ lá phiếu “thuận” cho một cuốn sách đã gây nhiều cuộc tranh cãi và nhận nhiều điều phê phán của dư luận trong thời gian qua.

Bằng cái nhìn thẳng thắn vào sự kiện, với cái tâm của một ngòi bút và trách nhiệm của một thành viên trong Ban chung khảo, nhà văn Vũ Tú Nam đã trả lời nghiêm túc qua cuộc trao đổi với báo Công an thành phố như sau:

P.V. Thưa anh, là Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam khóa IV, anh đã suy nghĩ như thế nào khi bỏ phiếu trao giải cho cuốn Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh? Sau khi có dư luận phản ứng, anh nhìn vấn đề này như thế nào?

VŨ TÚ NAM Tôi hoàn toàn nhất trí với sự đánh giá về cuốn Nỗi buồn chiến tranh và việc tự phê bình của tập thể Ban Chấp hành Hội Nhà văn khóa IV trong Báo cáo trước Đại hội lần thứ V mà anh Nguyễn Quang Sáng đã nêu lên trên quý Báo, số 478, ra ngày 13-9-1995. Tôi xin phép không nhắc lại ở đây.

Về phần cá nhân, khi bỏ phiếu trong Ban chung khảo, tôi đã thiên về khuyến khích một cây bút trẻ có năng khiếu văn học, đã trải qua chiến đấu thực sự. Tôi cũng đã rất phân vân về những mặt yếu kém của cuốn sách, như: Sự mơ hồ của tác giả giữa chiến tranh chính nghĩa và phi nghĩa, cái nhìn u ám nặng nề, chỉ thấy sự mất mát riêng tư mà không thấy chiến thắng lớn lao do đóng góp của toàn dân. Tôi không cho rằng khi viết, tác giả có ý đồ xấu về chính trị, nhưng sự mơ hồ và cái nhìn u ám của anh đã khiến cuốn sách phản ánh méo mó cuộc chiến đấu thiêng liêng của dân tộc.

Trong cuộc họp Ban Chấp hành để xét giải thưởng, vì còn rất phân vân trước những đánh giá khác nhau, tôi đã nêu lên ý kiến Ban Chấp hành có nên bác bỏ quyết định của Ban chung khảo về cuốn Nỗi buồn chiến tranh không. Nhưng rồi giải thưởng vẫn được thông qua, và tôi cũng vẫn bỏ phiếu thuận. Trách nhiệm thuộc về toàn thể Ban Chấp hành, nhưng tôi là người chịu trách nhiệm trước nhất. Sự phê phán của công luận sau đó là chính đáng. Tuy nhiên, tôi phải nói rằng các đồng chí trong Ban chung khảo và Ban Chấp hành – tuy sự đánh giá của mỗi người về cuốn sách của Bảo Ninh có khác nhau – nhưng các đồng chí đều là những người có thiện chí, muốn đóng góp cho văn học phát triển.

Việc một số người nước ngoài thiếu thiện ý, cố tình xuyên tạc khi dịch và bình luận về cuốn Nỗi buồn chiến tranh rất cần được phê phán để phân rõ trắng đen.

Sau khi cuốn Nỗi buồn chiến tranh ra đời, anh Bảo Ninh viết tiếp những gì, trả lời phỏng vấn báo nước ngoài, hay dở, đúng sai ra sao, cá nhân anh ấy chịu trách nhiệm. Con đường thử thách trước cây bút ấy còn dài lắm.

P.V. Vừa qua đã có những cuộc tranh luận trên lĩnh vực văn học, xin anh cho biết ý kiến của mình. Anh nghĩ gì về tình hình văn học nước ta hiện nay?

V.T.N. Các cuộc tranh luận đều có những điều bổ ích, nhưng nên trung thực, nhằm mục đích đoàn kết đội ngũ, tạo môi trường lành mạnh cho văn học phát triển. Chủ nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc, ở lĩnh vực nào cũng gây ra những hậu quả tai hại.

Tôi lạc quan về tình hình văn học nước ta, nhiều nhà văn đang lặng lẽ viết và viết, không ồn ào, không phô trương, cố gắng nói những điều tâm huyết. Các anh các chị đã đóng góp nhiều trong những năm đổi mới, và sẽ tiếp tục có những tác phẩm có chất lượng trong những năm cuối thế kỷ này.

P.V. Xin cám ơn nhà văn Vũ Tú Nam.

P.V. thực hiện

Nguồn: Công an thành phố Hồ Chí Minh, Tp.HCM, (27-9-1995)

Comments are closed.