Chuyển hóa dân chủ: Đối thoại với các nhà lãnh đạo thế giới (kỳ 15)

Biên tập: Sergio BitarAbraham F. Lowenthal, Viện Quốc tế Hỗ trợ Bầu cử và Dân chủ (IDEA), Stockholm

Dịch: Phạm Nguyên Trường

Tiểu sử Aleksander Kwaśniewski, Tổng thống Ba Lan giai đoạn 1995–2005

Aleksander Kwaśniewski, một chính trị gia chuyên nghiệp, thăng tiến trong Đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan (Đảng Cộng sản) tới chức bộ trưởng trong chính phủ Cộng sản cuối cùng của Ba Lan. Ông là nhân tố chính trong quá trình chuyển hóa từ chế độ độc tài Cộng sản sang nền quản trị dân chủ và kinh tế thị trường và đã dẫn dắt những người Cộng sản cải cách đến thành công trong cuộc bầu cử, đã làm tổng thống hai nhiệm kì, trong chế độ tổng thống nắm nửa quyền.

Năm 1976, ông trở thành người lãnh đạo tổ chức sinh viên Cộng sản ở Gdansk và sau đó là biên tập viên của hai tờ tạp chí sinh viên toàn quốc gia do Đảng lãnh đạo. Trong những năm cuối cùng của chế độ Cộng sản, từ năm 1985 đến năm 1990, Kwaśniewski là Bộ trưởng Bộ thanh thiếu niên và thể thao, và từ cuối năm 1988 đến năm 1989, là người đứng đầu Ủy ban Chính trị – Xã hội của chính phủ. Năm 1989, ông là đồng chủ tịch, cùng với Tadeusz Mazowiecki, nhóm Bàn tròn giải quyết những vấn đề của công đoàn.

Năm 1990, khi Đảng Cộng sản tan rã, Kwaśniewski là người đồng sáng lập và là chủ tịch tổ chức thừa kế của đảng này, gọi là Đảng Dân chủ Xã hội, và nhóm nghị sĩ liên minh trong nghị viện, gọi là SLD. Dưới sự lãnh đạo của ông, SLD đã hoạt động hiệu quả trong cuộc bầu cử hoàn toàn tự do năm 1991 và thu được thắng lợi trong cuộc bầu cử nghi viện năm 1993; sau đó, Kwaśniewski trở thành người lãnh đạo liên minh cầm quyền. Chiến thắng trong cuộc bầu cử này và việc đánh bại Lech Wałęsa trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1995 là do dân chúng không hài lòng với “liệu pháp sốc” của Ba Lan và Kwaśniewski nhắc đi nhắc lại rằng phải có ban lãnh đạo chính trị hiệu quả, không bám vào hệ tư tưởng nào, chỉ tập trung vào quá trình chuyển đổi kinh tế.

Khi là tổng thống, Kwaśniewski có thể – bằng cách chú tâm vào chính phủ hiệu quả – thu hẹp khoảng cách giữa cánh tả và cánh hữu trong nhiệm kỳ đầu tiên của mình, cả trong giai đoạn khi SLD là liên minh cầm quyền, cũng như sau khi phái hữu đánh bại SLD vào năm 1997. Cũng trong năm 1997, ông được nghị viện đồng ý và nhân dân chấp thuận thông qua bản hiến pháp mới – quyền lực của tổng thống bị giới hạn – thay thế cho “bản hiến pháp nhỏ” được thông qua sau giai đoạn chuyển hóa. Ông tiếp tục chuyển nền kinh tế sang chủ nghĩa tư bản, đưa Ba Lan vào NATO và EU, và được bầu lại làm tổng thống vào năm 2000. Năm 2001, Kwaśniewski giúp SLD nắm lại quyền lực trong nghị viện bằng cách liên minh với Đảng Nông dân Ba Lan, nhưng SLD đã bị tan rã vào năm 2006.

Khi làm tổng thống cũng như sau này, Kwaśniewski luôn luôn thúc đẩy sự hợp tác giữa các nước Trung Âu và Đông Âu và khuyến khích quá trình dân chủ hóa trong khu vực rộng lớn hơn. Năm 2004, ông còn lãnh đạo những cố gắng hòa giải, dẫn đến chấm dứt cuộc Cách mạng Cam ở Ukraine, và lãnh đạo nhóm quan sát viên tại những phiên tòa xét xử các nhân vật chính trị Ucraine bị buộc tội vi phạm nhân quyền. Ông cũng tham gia giảng dạy ở nhiều trường đại học.

Phỏng vấn Tổng thống Aleksander Kwaśniewski

Ba Lan được mô tả là một trong những trường hợp chuyển đổi thành công nhất – từ bộ máy nhà nước nặng tính đàn áp và nền kinh tế do nhà nước kiểm soát không hiệu quả sang nền kinh tế thị trường và hệ thống chính trị dân chủ. Tại sao Ba Lan lại tương đối thành công như thế?

Tôi đồng ý rằng Ba Lan là một ví dụ về thành công. Ngay cả trong cuộc khủng hoảng kinh tế gần đây nhất, Ba Lan vẫn tăng trưởng về kinh tế và tiếp tục giữ được ổn định chính trị và có quan hệ tốt với tất cả các lân bang. Vấn đề lân bang rất quan trọng, vì hầu như không ai nhận ra rằng trong nhiều năm qua, Ba Lan đã không dịch chuyển đường biên giới của mình, trong khi tất cả các lân bang với chúng tôi đều có thay đổi. Chúng tôi từng có ba lân bang; bây giờ chúng tôi có bảy. Chúng tôi đã tìm cách thiết lập quan hệ tốt đẹp với tất cả các nước đó. Trong 20 năm qua, Ba Lan là nước xuất khẩu sự ổn định trong khu vực.

Tại sao có thể tiến hành được quá trình chuyển hóa kéo dài sang dân chủ? Nói về tính tích cực chính trị của người dân, những thay đổi trong nội bộ Đảng Cộng Sản và những nỗ lực ban đầu nhằm cải cách hệ thống cũ, so với các nước khác trong khu vực, Ba Lan chắc chắn là được chuẩn bị tốt hơn để tiến hành thay đổi. Ngoài ra, Ba Lan có nhiều mối liên kết với phương Tây hơn các nước khác trong khu vực, thông qua cộng đồng người Ba Lan ở nước ngoài và thông qua những cuộc tiếp xúc của người dân với, ví dụ, các suất học bổng quốc tế dành cho người Ba Lan, giúp những người mà sau này có vai trò quan trọng trong các cuộc cải cách.

Ở Ba Lan còn có một yếu tố khuyến khích đối thoại và giảm nhẹ hành động cực đoan nữa: Giáo hội Công giáo. Vì hầu như tất cả giai đoạn sau Thế chiến II, Ba Lan thường xuyên rơi vào tình trạng khủng hoảng chính trị, cứ 10 năm lại có một cuộc khủng hoảng; lần đầu tiên vào năm 1956, lần thứ hai vào năm 1970, tiếp theo là năm 1976. Những cuộc khủng hoảng này làm cho Đảng Cộng sản bị thiệt hại nặng. Rồi năm 1980-1981, phong trào Đoàn kết bước lên vũ đài.

Nói chung, sau mỗi cuộc khủng hoảng, chế độ Cộng sản Ba Lan lại thay đổi theo hướng tốt hơn. Năm 1956, chủ nghĩa Stalin cáo chung và con đường của dân tộc Ba Lan – do Władysław Gomułka [nhà lãnh đạo Cộng sản và trên thực tế là nhà lãnh đạo Ba Lan trong các giai đoạn 1945-48, 1956-70] dẫn dắt – được đem ra áp dụng. Người ta có thể chỉ trích ông vì nhiều việc, nhưng những nỗ lực của ông đã giúp Ba Lan giành được một ít quyền tự chủ từ tay Liên Xô. Năm 1970, Gomułka mất chức, và trong những năm 1970, Edward Gierek [lãnh đạo Đảng Cộng sản giai đoạn 1970-1980] đã tiến hành tự do hóa một phần hệ thống chính trị và mở cửa nhiều hơn sang phương Tây. Gierek đã tiến hành hiện đại hóa Ba Lan. Tất nhiên, người ta có thể chỉ trích ông vì những khoản tiền mà ông đã vay, nhưng mặt khác, đây là giai đoạn Ba Lan làm một cú nhảy theo hướng hiện đại hóa. Chúng ta có thể kể những chuyện tiếu lâm về giai đoạn này, nhưng năm nay là năm kỉ niệm lần thứ 40 ngày Ba Lan sản xuất được chiếc xe Fiat mini đầu tiên, đấy cũng là chiếc xe đặc trưng của Ba Lan. Nó cũng là chiếc xe đầu tiên của tôi. Đây là một bước tiến lớn vì nhờ nó, Ba Lan đã trở thành xã hội của những người lái xe.

Năm 1980 đánh dấu kết thúc giai đoạn Gierek và sự ra đời của phong trào Đoàn kết – chưa có tiền lệ trong khối Xô Viết. Đó là bằng chứng cuối cùng, nói rằng điều xã hội mong muốn không phải là “dân chủ hoá” mà là chế độ dân chủ, và rằng, các biện pháp nửa với là chưa đủ. Khẩu hiệu được đảng nhắc đi nhắc lại trong những năm đó – “chủ nghĩa xã hội – có; biến chất – không” – đã không còn được chấp nhận nữa.

Huy động xã hội

Ông có thể giải thích sự khác nhau giữa cái mà ông gọi là “dân chủ hóa” và “dân chủ hoàn toàn”?

Dân chủ hóa có nghĩa là chúng ta vẫn chỉ mới có dân chủ nửa vời, gần với dân chủ, nhưng vẫn không phải là dân chủ. Ở Ba Lan, chúng tôi có hệ thống được mô tả như là chế độ dân chủ: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa”. Lúc đó có câu chuyện tiếu lâm nổi tiếng: “Sự khác nhau giữa dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa là gì? Thì cũng như sự khác nhau giữa ghế và ghế điện thôi”. Một từ mà thay đổi bản chất của ý tưởng. Và trong các năm 1980-1981, Công đoàn Đoàn kết là thách thức chính đối với hệ thống, vì sự vùng lên của thế hệ mới, của thế hệ có học hơn, của người dân các thành phố lớn, thậm chí là của giai cấp công nhân, có nghĩa là những người chống Cộng không phải là những nhà khoa bảng; họ không phải là giáo sư trong các học viện hay các nhà bất đồng chính kiến. Không, những người chống Cộng và chống các chương trình của đảng Cộng sản chủ yếu là người lao động – và làm suy yếu các luận điệu của Đảng Cộng sản. Đảng này coi mình là đại diện của giai cấp công nhân. Vì vậy, giai đoạn 1980-1981 là rất quan trọng.

Tất nhiên, cuộc cách mạng của phong trào Đoàn kết liên quan rất nhiều tới việc bầu Đức Giáo hàng John Paul II, năm 1978. Chuyến thăm Ba Lan đầu tiên của Đức Giáo hoàng, năm 1979, đã góp phần giúp đỡ phong trào khổng lồ này. Hàng triệu người đã tham gia các buổi thánh lễ và các cuộc gặp gỡ với Ngài. Tất cả những buổi lễ và buổi gặp mặt đều không phải do chính phủ hay các tổ chức chính quyền mà do nhân dân – thông qua việc tự tổ chức, một cách tự nguyện – tiến hành. Lần đầu tiên trong thời Cộng sản, cuối cùng nhân dân đã nhận thức được rằng họ có thể tự mình làm một cái gì đó, một cái gì đó vĩ đại, tương tự như sự kiện có cả triệu người tham gia.

Năm 1980, tình hình thay đổi rất nhiều. Đa số người thuộc Công đoàn Đoàn kết không nói về thay đổi hệ thống, vì vẫn còn quá nhiều rủi ro. Brezhnev [Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Của Liên Xô, giai đoạn 1964-1982] vẫn còn trụ vững trong Điện Kremlin. Nhưng đó là cuộc đấu tranh vì phẩm giá, đó là cuộc đấu tranh vì tự do, đó là cuộc đấu tranh vì dân chủ chứ không chỉ đòi dân chủ hóa. Không phải là những giải pháp nửa vời. Người dân đòi những giải pháp thực sự. Và họ đã làm như vậy đúng vào lúc nền kinh tế rơi vào khủng hoảng sâu sắc.

Làm suy yếu hệ thống độc tài

Đảng Cộng sản Ba Lan phản ứng như thế nào trước những yêu cầu của nhiều người đòi mở cửa dân chủ và tiến bộ kinh tế, trong khi vẫn phải chịu những ràng buộc do Liên Xô áp đặt?

Hai yếu tố có tính quyết định đối với sự sụp đổ của chế độ Cộng sản, theo nghĩa chính trị và xã hội. Thứ nhất, những sự kiện năm 1968 ở Prague, Tiệp Khắc, và cuộc xâm lược sau đó của Liên Xô nhằm đối phó với những cuộc cải cách do Đảng Cộng sản Cộng hòa Czech đề xuất. Đó là khởi đầu của quá trình suy thoái về ý thức hệ, vì nếu trong khi các nhà lãnh đạo cộng sản nói về cải cách, nhưng người ta phải sử dụng quân đội nhằm ngăn chặn họ, thì có nghĩa là về mặt ý thức hệ, hệ thống này bị trục trặc rồi. Yếu tố thứ hai, có tính quyết định đối với sự sụp đổ của chế độ Cộng sản là Công đoàn Đoàn kết, một phong trào với 10 triệu thành viên, đa số là công nhân Ba Lan, tuyên chiến với hệ thống đó.

Năm 1981, câu trả lời của [Wojciech] Jaruzelski, Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Ba Lan lúc bấy giờ [1981-1989], là thiết quân luật. Thiết quân luật là một trong những quyết định kịch tính nhất trong lịch sử Ba Lan. Hiện nay, nếu bạn hỏi nhân dân Ba Lan, họ nghĩ gì về quyết định đó, ý kiến sẽ rất chia rẽ: 50% khẳng định cần, vì tình hình cực kì nguy hiểm và rất có khả năng là Liên Xô sẽ tràn sang, còn 50% thì tin rằng không cần và Jaruzelski đã không khảo sát tất cả các khả năng khác nhằm tìm giải pháp. Nếu bạn hỏi tôi, tôi khẳng định rằng, nỗi sợ Liên Xô xâm lược là rất, rất mạnh. Hoàn toàn có khả năng là nếu tình hình ở Ba Lan tiếp tục diễn ra theo hướng này, thì tháng sau, quân Liên Xô, hay quân của Hiệp ước Warsaw, sẽ quyết định can thiệp. Tất nhiên, đây sẽ là một cuộc “xâm lăng” đặc biệt, vì lúc đó đã có 200.000 quân Liên Xô đã đóng trên đất Ba Lan rồi. Không cần phải đưa quân từ Vladivostok đến Warsaw. Chỉ cần sử dụng những binh sĩ đóng ở Rembertow, cách trung tâm thành phố 20 km là đủ.

Vì vậy, những năm 1980 là giai đoạn đầy những vấn đề to lớn đối Jaruzelski và Công đoàn Đoàn kết. Lần đầu tiên xã hội bị chia rẽ đến cùng cực như vậy. Sau khi áp đặt thiết quân luật, đa số người Ba Lan tỏ ra thất vọng, chán nản và thụ động. Tư thế của Đảng Cộng sản, của chính phủ, khá yếu. Mặc dù có một số cải cách, nền kinh tế trở nên xấu đi. Ba Lan gặp rắc rối với tất cả các đối tác phương Tây: không có tiền, không còn niềm tin, không còn các mối quan hệ bình thường. Tình hình Liên Xô cũng đang xấu đi, vì vậy nước này không thể nào giúp được Ba Lan.

Thiết lập cơ sở cho đối thoại và đàm phán

Tình hình khá gay go và Jaruzelski ngày càng hiểu rõ rằng ông cần một bước đột phá thực sự. Ông cần đối thoại với phe đối lập, và dĩ nhiên, đầu tiên ông đề nghị Giáo hội khởi động cuộc đối thoại này, vì, đối với Jaruzelski hồi đầu những năm 1980, Giáo hội Công giáo Ba Lan là đại diện của xã hội. Theo tôi, ông đánh giá quá cao vai trò và địa vị của Giáo hội. Tôi có cảm giác rằng Jaruzelski, vốn có những mối liên hệ tốt với Giáo hội, tin chắc rằng chỉ cần làm việc với Giáo hội là sẽ tìm được giải pháp. Nhưng không đủ, vì có nhiều nhóm đối lập chính trị không liên quan tới Giáo hội.

Những thay đổi diễn ra ở Liên Xô – cùng với perestroika mà Gorbachev khởi động vào năm 1986 – là yếu tố quan trọng khác. Dĩ nhiên là, cho đến năm 1986, ở tất cả các nước Cộng sản khó mà nghĩ đến cuộc đối thoại cởi mở hơn với phe đối lập. Sau năm 1986, Gorbachev đã bật đèn xanh cho Jaruzelski. Ông nói, “OK, nếu đồng chí muốn tiến hành thêm một số cuộc cải cách, tất nhiên là phải tôn trọng tư tưởng và giá trị của chủ nghĩa xã hội..v.v..thì cứ việc”. Gorbachev không phải là người cấp tiến ngay từ đầu. Ông biết là cần phải làm cái gì đó, nhưng ông gặp khó khăn trong việc giải thích nhu cầu của perestroika và những thay đổi khác. Cuối những năm 1980, Jaruzelski hoàn toàn tin tưởng rằng chỉ có thể giải quyết các vấn đề của Ba Lan bằng đối thoại. Thời gian không ủng hộ ông, vì cuộc bầu cử tiếp theo ở Ba Lan sẽ được tổ chức vào năm 1989. Dĩ nhiên, đây không phải là cuộc bầu cử dân chủ bình thường, vì tất cả các ứng cử viên đều phải được Đảng Cộng sản chuẩn thuận. Vấn đề thực sự là số người tham gia. Tỉ lệ cử tri đi bầu cử chứng tỏ mức độ ủng hộ đảng. Trong nhiều trường hợp, các con số được công bố là bịa đặt. Nhưng các nhà lãnh đạo biết rất rõ kết quả thực sự của cuộc bầu cử. Trong đảng, người ta biết rõ rằng trong cuộc bầu cử sắp tới, tỉ lệ cử tri đi bầu không thể cao hơn 30% hay 40%. Tỉ lệ đi bầu thấp sẽ là tín hiệu mạnh mẽ chứng tỏ rằng hệ thống không được chấp nhận và người dân đang chờ thay đổi.

Sự hội tụ của những yếu tố này – kinh tế, xã hội bị chia rẽ, cuộc bầu cử sắp tới – làm cho Jaruzelski quyết tâm khởi động cuộc thảo luận với phe đối lập. Những cuộc thảo luận cực kì thận trọng đầu tiên được khởi động vào năm 1988, và chúng tôi chính thức bắt đầu Hội nghị Bàn tròn vào năm 1989, từ tháng 2 đến tháng 4. Sau đó, hệ thống thay đổi.

Lí giải sự thành công của quá trình chuyển hóa của Ba Lan

Trở lại câu hỏi chính – nguồn gốc của thành công của chúng tôi – thứ nhất, tôi nghĩ rằng Ba Lan đã được chuẩn bị cho cải cách tốt hơn các nước khác. Những cuộc khủng hoảng “thường xuyên” ở Ba Lan đã làm thay đổi hệ thống Cộng sản, làm cho nó, về khía cạnh nào đó, trở thành tự do hơn những nước khác trong khối Đông Âu. Ở Ba Lan, chúng tôi đã có phe đối lập rất mạnh và phong trào đối lập truyền thống đã tồn tại trong thời gian khá dài. Năm 1956, chúng tôi đã có một số nhà bất đồng chính kiến ​​ngay trong Đảng Cộng sản, và sau đó, năm 1976, chúng tôi có những tổ chức đối lập khá mạnh, ví dụ, Ủy ban Bảo vệ Công nhân (Komitet Obrony Robotnikow) với Jacek Kuroń [một nhà lãnh đạo nổi bật của phe đối lập dân chủ] và những người khác. Gierek là người theo tư tưởng tự do đến mức có thể khoan dung những nhóm này, và cuối những năm 1970, các nhóm này đã hoạt động khá tích cực. Và tất nhiên chúng tôi có phe đối lập lớn, đầy sức mạnh với Lech Wałęsa, lãnh đạo Công đoàn Đoàn kết, và nhiều người khác tham gia. Vì vậy, trong những năm 1980, Ba Lan đã thực sự chia bị chia làm hai phe, nhưng phe không cộng sản trong xã hội được tổ chức khá tốt, đặc biệt là phong trào Đoàn kết, thậm chí một số nhóm nhỏ khác cũng thế. Những phong trào này thiết lập được cơ sở hạ tầng về mặt tổ chức khá tốt, các tổ chức chính trị thay thế được công nhận, các nhà lãnh đạo phe đối lập có uy tín và đã có nhiều năm thảo luận về những biện pháp lãnh đạo Ba Lan để tiến hành những thay đổi tiếp theo.

Yếu tố quan trọng tiếp theo là có những người được chuẩn bị để lãnh đạo và tiến hành thay đổi. Họ đã được giáo dục rất kĩ ở Ba Lan, họ học được một số kinh nghiệm từ phương Tây, và tất cả những người này đều gần 40 hoặc trên 40 tuổi một chút, đấy là tuổi tốt nhất để nắm vai trò chính trị và bắt đầu những cuộc cải cách như thế. Nhiều người học ở nước ngoài, đặc biệt là ở phương Tây. Và khi có cơ hội, họ sẵn sàng đề xuất các cuộc cải cách. Leszek Balcerowicz [Phó Thủ tướng và Bộ trưởng Tài chính giai đoạn 1989-1991 và 1997-2000, kiến ​​trúc sư của “liệu pháp sốc” trong cải cách kinh tế, gọi là kế hoạch Balcerowicz] là ví dụ điển hình. Ông đã từng học ở Đại học St. John’s, Mỹ. Marek Belka [Thủ tướng giai đoạn 2004-2005, Bộ trưởng Tài chính năm 1997, và các năm 2001-2002], hiện là Thống đốc Ngân hàng Trung ương, cũng từng học tập ở Mỹ.

Ngoài ra, chính phủ Cộng sản cuối cùng, chính phủ Mieczysław Rakowski – tổng biên tập nổi tiếng của tờ Polityka (Chính trị), một tờ báo Ba Lan tốt, và là Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản [1989-90] – là Thủ tướng trước giai đoạn chuyển hóa [1988-1989]. Chính phủ của ông này, tôi cũng là một thành viên, đưa ra rất nhiều cải cách và luật mới, rất quan trọng, giúp rất nhiều cho nền kinh tế Ba Lan. Quan trọng nhất trong những bộ luật này là Bill of Wilczek. Mieczyslaw Wilczek là Bộ trưởng Công nghiệp, và ý tưởng của ông là tạo ra môi trường tốt cho các doanh nhân. Theo tôi, tất cả những điều Wilczek đề xuất cách đây 25 năm tốt hơn hẳn so với những thứ chính phủ hiện nay đề nghị. Cho nên, chúng tôi đã có môi trường tốt hơn cho doanh nghiệp về thuế, về bộ máy quản lí hành chính … so với các nước Cộng sản khác. Tất nhiên, cần phải nói rằng, lúc đó kinh tế Ba Lan đã lâm vào bi kịch. Nhưng, mặc dù vậy, chúng tôi đủ can đảm và quyết tâm tiến hành những cuộc cải cách đó.

Thiết lập nền tảng cho đối thoại và đàm phán

Cách thức mà các tác nhân chủ chốt tiếp cận với các cuộc đàm phán, ví dụ, Hội nghị Bàn tròn, phụ thuộc nhiều vào tương quan lực lượng của họ với nhau. Ở một số nước, người ta có chính phủ mạnh và phe đối lập yếu, hay ngược lại. Ông giải thích rằng Jaruzelski chủ động, nhưng các ông còn có phe đối lập chính, Công đoàn Đoàn kết. Cuộc thảo luận giữa những người cứng rắn và những nhà cải cách diễn ra như thế nào?

Có thể có chính phủ mạnh và phe đối lập yếu hay chính phủ yếu và phe đối lập mạnh. Tình hình tốt nhất, đã xảy ra ở Ba Lan, là hai bên đối tác đều yếu hơn, chứ không phải là những đối tác mạnh hơn. Trước Hội nghị Bàn tròn, cả hai đối tác chính đều cực kì yếu. Đảng Cộng sản yếu và không có kế hoạch làm việc hoặc phương thức quản lí nền kinh tế thiếu hiệu quả. Đối với đa số dân chúng và thậm chí đối với nhiều đảng viên Cộng sản, rõ ràng là cần phải tiến hành một số cải cách chính trị cực kì sâu rộng. Công đoàn Đoàn kết cũng khá yếu. Không còn là Đoàn kết trong những năm 1980-1981, với 10 triệu thành viên nữa. Đấy là Công đoàn Đoàn kết sau 10 năm: rất mệt mỏi và không được lòng dân như trước nữa. Tôi nghĩ rằng sự thành công của Hội nghị Bàn tròn ở Ba Lan là vì cả hai bên đều không quá mạnh, nhưng cả hai bên đều tin tưởng sâu sắc và cảm thấy có trách nhiệm rằng, đấy là lúc phải làm một cái gì đó quan trọng cho tương lai, vì tình hình không thể tiếp tục như thế được nữa. Đấy là yếu tố khá quan trọng. Theo tôi, nếu một bên mạnh và bên kia yếu, thì không thể có thỏa hiệp. Ví dụ, có thể thấy sự kiện này trong cuộc xung đột Israel – Palestine hiện nay.

Đảng Cộng sản ở Ba Lan có hai triệu đảng viên, với nhiều xu hướng ở bên trong, nhưng có hai nhóm chính. Một nhóm các “nhà cải cách”, những người nhận thức được rằng cần phải thay đổi và nếu không có những thay đổi thực sự sâu sắc thì chúng tôi sẽ không có cơ hội. Tất nhiên, trong số những người cải cách, có một số người cải cách thận trọng hơn, có những người khác cải cách năng nổ hơn, và những người can đảm hơn. Lãnh đạo nhóm này là Jaruzelski; nếu Jaruzelski không tin vào nhu cầu cải cách, thì sẽ không có gì xảy ra hết. Các nhà lãnh đạo các đảng Cộng sản khác trong khu vực – Erich Honecker [Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Xã hội Chủ nghĩa Thống nhất Đức 1971-1989] và Gustav Husak [Chủ tịch Tiệp Khắc 1975-1989] không bao giờ chấp nhận cải cách – chỉ có Janos Kadar [Tổng bí thư Đảng Công nhân Xã hội chủ nghĩa Hungary, 1956-1988] chấp nhận mà thôi. Jaruzelski hiểu rằng, đầu những năm 1980, cần thiết quân luật, nhưng sau thiết quân luật, ông thấy rằng chỉ có lựa chọn: đối thoại. Không thể nào cứng rắn hơn, mạnh mẽ hơn, hay đàn áp hơn được nữa. Đối với ông, chỉ có một con đường tiến lên là trở thành nhà lãnh đạo có tinh thần tự do hơn, chứ không phải là áp chế hơn. Tất nhiên, có những đảng viên chống lại những cuộc cải cách này, họ nói cải cách hàm chứa những rủi ro cực kì to lớn. Luận cứ chính của họ là nếu tiếp tục những cuộc cải cách này thì Đảng Cộng sản sẽ mất quyền. Bây giờ chúng ta có thể nói rằng họ nói đúng. Xét về tương lai của đảng, các nhà cải cách đã sai. Khi chúng tôi bắt đầu cải cách – Gorbachev với perestroika, Jaruzelski ở Ba Lan – hóa ra, đấy là khởi đầu của sự cáo chung của đảng.

Tạo đồng thuận cho thay đổi

Nửa sau thập kỉ 1980, Jaruzelski quyết định theo đuổi Hội nghị Bàn tròn và cải cách. Gorbachev đã khuyến khích và ủng hộ ông, đấy là sự kiện quan trọng đối với Jaruzelski. Lúc đó tình hình khá căng thẳng. Trong một cuộc họp của Ban chấp hành Trung ương, khi cuộc tranh luận đến hồi kịch tích, những người cứng rắn bắt đầu tấn công Jaruzelski về Hội nghị Bàn tròn, họ nói rằng làm thế là sai và nó sẽ phá hủy đảng. Đây là lần duy nhất trong sự nghiệp chính trị lâu dài của mình, Jaruzelski quyết định sử dụng biện pháp hăm dọa. Ông nói rằng đã chứng kiến nhiều đồng đội của mình chống lại cuộc đối thoại, vì vậy, ông sẵn sàng từ chức, và họ có thể bầu Bí thư thứ nhất mới. Một số chiến hữu gần gũi nhất của ông nói rằng họ cũng sẽ từ chức. Tất nhiên, lúc đó Bộ chính trị quyết định sẽ làm theo quyết định của Ban chấp hành trung ương. Kết quả cuộc bỏ phiếu là Jaruzelski nên ở lại, và cùng với nó là chấp nhận chính sách ủng hộ cải cách của đảng. Trong các đảng Cộng sản, những tình huống kịch tính như vậy, với lời đe dọa từ chức và nổi loạn, đơn giản là không xảy ra được. Đề nghị từ chức là tín hiệu rất quan trọng về quyết tâm của Jaruzelski và nhóm cộng sự của ông nhằm thực hiện những cuộc cải cách đó.

Lúc đó tôi đã 31 hay 32 tuổi; tôi là bộ trưởng trẻ nhất trong chính phủ Ba Lan, vì tôi được đề cử làm Bộ trưởng Thanh niên và Thể thao khi tôi mới có 31 tuổi. Tôi còn trẻ và có trình độ học vấn khá tốt, tôi đã đi khắp thế giới. Năm 1976, tôi đã là sinh viên ở Mỹ trong ba tháng. Vì vậy, tôi dễ dàng hiểu và so sánh chế độ Cộng sản và Liên Xô với phương Tây, với các nước phát triển là như thế nào. Và những điều trông thấy thật đáng thất vọng, còn tình hình thì cực kì chán nản. Tôi còn đến Tây Đức học nữa. Lúc đó, thật là khủng khiếp khi so sánh Ba Lan với Tây Đức. Không có gì để so sánh, Ba Lan quá lạc hậu.

Đối với thế hệ của tôi, rõ ràng là Ba Lan cần phải thay đổi, chúng tôi cần hiện đại hóa. Chúng tôi muốn trở thành một phần của thế giới đã phát triển hơn. Vấn đề là làm như thế nào. Đi như thế nào? Tôi và những đồng nghiệp của mình trong trường đại học có hai hoặc ba quan điểm tổng quát. Thứ nhất, quan điểm của tôi, là chúng ta phải làm mọi việc có thể nhằm ủng hộ cải cách, để thay đổi hệ thống càng nhiều càng tốt, nhưng đồng thời chấp nhận tình hình là chúng tôi có Hiệp ước Warsaw, có Liên Xô, tất cả những hạn chế này là kết quả của Thế chiến II, và đấy là những sự kiện không thể thay đổi được. Một số đồng nghiệp thuộc phe đối lập (và cuối những năm 1970, phe đối lập hoạt động khá tích cực) cho rằng hệ thống này không thể cải cách được. Họ nghĩ rằng cần đấu tranh chống lại hệ thống này, thậm chí nếu chúng ta phải trả giá rất cao.

Quan điểm thứ ba, của nhiều đồng nghiệp của tôi, là chiến lược của cả hai bên đều sẽ không có tác dụng. Chúng tôi không sẵn sàng thay đổi và cải cách hệ thống từ bên trong. Chúng tôi không sẵn sàng trả giá cao để trở thành những nhà cách mạng mới hay bị bỏ tù như những người bất đồng chính kiến. Lựa chọn duy nhất là ra đi. Đầu những năm 1980, nhiều đồng nghiệp của tôi đã rời Ba Lan và làn sóng người di cư Ba Lan, đặc biệt là sau thiết quân luật, là khá lớn. Nhiều người Ba Lan vẫn còn ở Mỹ, Australia, Nam Phi, và ở nhiều nước châu Âu.

Tôi là đảng viên Cộng sản và là bộ trưởng trong chính phủ, và đối với tôi, tất cả những hiện tượng trong những năm cuối thập kỉ 1980, trước khi có Hội nghị Bàn tròn, là rất đáng chú ý – đây là cơ hội để làm cái gì đó gần với suy nghĩ của tôi. Tôi đã tham gia vào tất cả các quá trình này ngay từ đầu, vì một trong những quyết định đầu tiên của Rakowski nhằm thay đổi tình hình và tiến hành một số cải cách chính trị là thảo luận với Giáo hội và phe đối lập Luật về các hiệp hội. Cuối những năm 1980, Luật mới này cho phép tổ chức những hiệp hội khác nhau nằm ngoài sự kiểm soát của nhà nước. Đây là một bước tiến lớn.

Tôi lãnh đạo cuộc đối thoại với Giáo hội. Tôi nhớ đã gặp một số giám mục và các cố vấn của họ. Một trong những cố vấn của các giám mục là Jan Olszewski [thủ tướng giai đoạn 1991-1992]. Họ rất ngạc nhiên vì đội của chúng tôi trẻ quá. Phản ứng đầu tiên của những người đối thoại với chúng tôi là khá tiêu cực, vì họ tin rằng Rakowski đang đùa, rằng ông không nghiêm túc khi cử những bộ trưởng trẻ như thế tham gia thảo luận Luật về Lập hội. Đối với thế hệ của tôi, đấy là cơ hội tuyệt vời; đối với chúng tôi, việc cái đảng cũ của chúng tôi không thể hoạt động trong kỉ nguyên mới không phải là vấn đề lớn.

Quy trình và cơ chế đàm phán

Tướng Jaruzelski và nhóm của ông ta đã hiểu được tình hình khi lao vào những cuộc Hội nghị Bàn tròn?

Jaruzelski cử Bộ trưởng nội vụ, Czesław Kiszczak [1981-90], lãnh đạo các cuộc Hội nghị Bàn tròn. Đó là ý tưởng rất hay, Bộ trưởng nội vụ là người bị phe đối lập căm ghét nhất, là người lãnh đạo của chính phủ trong các cuộc hội nghị, bởi vì phe đối lập coi ông là người có thể quyết định. Ông là người gần gũi nhất với Jaruzelski, và ông cũng là người đàn áp chính, bây giờ lại là người chịu trách nhiệm về dân chủ và tự do hoá. Vì vậy, từ quan điểm chính trị và tâm lí, theo tôi, là quyết định rất chính xác. Florian Siwicki, Bộ trưởng quốc phòng; Thủ tướng Rakowski; ba ủy viên Bộ Chính trị (Stanislaw Ciosek, Wladyslaw Baka, và Janusz Reykowski); và tôi cũng tham gia vào đội của ông.

Tôi chưa bao giờ là ủy viên Bộ Chính trị; tôi chỉ là thành viên của chính phủ, là bộ trưởng trong chính phủ Rakowski, nhưng tôi là một trong những đồng chủ tịch của ba nhóm trong Hội nghị Bàn tròn. Cơ cấu chung của Hội nghị Bàn tròn là tất cả các đại biểu ngồi xung quanh một cái bàn tròn; những cuộc họp này có hai chủ tịch, Kiszczak và Wałęsa. Chúng tôi có ba ủy ban để xem xét tất cả các tài liệu và quyết định. Tôi là đồng chủ tịch với Mazowiecki, và chúng tôi thảo luận về công đoàn và làm sao hợp thức hoá Công đoàn Đoàn kết. Reykowski, ủy viên Bộ Chính trị và Giáo sư Bronisław Geremek là đồng chủ tịch ủy ban chính trị. Nhóm thứ ba bàn về kinh tế; [Wladyslaw] Baka, ủy viên Bộ Chính trị, và Giáo sư Witold Trzeciakowski, thuộc phe đối lập, là đồng chủ tịch.

Vì vậy, Jaruzelski làm việc với đội này và ông có vai trò quyết định. Theo tôi, có mấy điểm trong tư duy của Jaruzelski. Thứ nhất, sau thiết quân luật, điều cực kì quan trọng là phải tìm cho ra giải pháp mới, vì tổ chức một cái gì đó tương tự như những thứ đã từng tồn tại sẽ là thảm hoạ; tình hình đã hoàn toàn khác rồi. Tôi nghĩ, ý tưởng về dân chủ hóa và tự do hóa gần gũi với tâm hồn Jaruzelski. Tôi không chắc là Jaruzelski suy nghĩ về chế độ dân chủ đầy đủ. Tôi nghĩ, ông nghĩ nhiều hơn về dân chủ hóa. Nhưng tôi rất kính trọng quyết tâm của ông, vì tôi đã thấy điều đó. Ông là một trong rất ít các chính trị gia bắt đầu sự nghiệp của mình với thiết quân luật và chấm dứt sự nghiệp với đối thoại và sự chuyển hóa một cách hòa bình hệ thống chính trị. Thường thì nhiều vị thủ tướng hay tổng thống được bầu lên theo lối dân chủ nhưng lại kết thúc sự nghiệp bằng áp đặt tình trạng thiết quân hay đàn áp cực kì khốc liệt. Tôi nghĩ, trong số những nhà độc tài hay gần như độc tài, ông thực sự là người rất đặc biệt.

Chiến lược của Đảng Cộng sản khi tham gia Hội nghị Bàn tròn là gi?

Ý tưởng rất đơn giản: Mời phe đối lập và đề nghị họ chia sẻ quyền lực và trách nhiệm. Ý tưởng ban đầu, và tất nhiên, chúng tôi đã sai, và quá trình chuyển hóa sẽ kéo dài ít nhất bốn năm. Và cuộc bầu cử, theo hiến pháp, sẽ diễn ra vào năm 1989. Cuộc bầu cử năm 1989 không thực sự dân chủ. Ý tưởng là dành 35% số ghế trong nghị viện cho phe đối lập trong cuộc bầu cử tự do, 65% số ghế dành cho Đảng Cộng sản và đồng minh của đảng này. Sau đó, sẽ bầu cử tổng thống, và ngay từ đầu (mặc dù chúng tôi không bao giờ chính thức thảo luận vấn đề này), mọi người đều biết rõ rằng ứng cử viên tổng thống trong giai đoạn chuyển hóa sẽ là Jaruzelski. Tôi đưa ra ý tưởng tổ chức Thượng viện, viện thứ hai trong nghị viện. Phe đối lập cực lực phản đối vì họ nói rằng họ có thể chấp nhận một cuộc bầu cử nghị viện không thực sự dân chủ, nhưng họ có thể chấp nhận bao nhiêu cuộc bầu cử như thế? Và tôi đề nghị bầu cử Thượng viện hoàn toàn tự do và đề nghị này đã được chấp nhận. Nó làm cho các nhà lãnh đạo phe đối lập cũng như các đồng nghiệp của tôi ngạc nhiên, nhưng tôi giải thích với họ rằng cái đảng đã cai trị đất nước gần 50 năm, phải sẵn sàng tham gia cuộc bầu cử Thượng viện hoàn toàn tự do. Thậm chí, nếu 100% thượng nghị sĩ đều từ phe đối lập, thì vẫn có một đa số nhỏ bầu Jaruzelski làm tổng thống. Luận cứ của tôi có tính mị dân. Tôi nói, “Nếu đảng này không sẵn sàng làm một thí nghiệm nhỏ như vậy, có nghĩa là nó không phải là đảng chính trị. Lúc đó, cần phải thừa nhận rằng đảng của chúng ta không thể thắng bất cứ cái gì. Vậy, làm sao chúng ta có thể nói rằng chúng ta sẵn sàng lãnh đạo đất nước, trong khi chúng ta không quan tâm đến bài tập như thế về bầu cử?” Tất nhiên, tôi không quá bi quan. Tôi tin chắc rằng trong cuộc bầu cử thượng viện, ít nhất 30% hoặc 35% số ghế sẽ nằm trong tay Đảng Cộng sản. Với Jaruzelski làm tổng thống, ngay cả với một thượng viện được bầu lên một cách tự do, chúng tôi vẫn nắm quyền kiểm soát đa số trong nghị viện, và nghị viện sẽ làm việc cho giai đoạn tiếp theo [các cơ quan được bầu một cách tự do sau đó bốn năm].

Mọi thứ đều thay đổi sau cuộc bầu cử tháng 6. Kết quả có lợi cho phe đối lập, đấy là sự kiện không thể nào bỏ qua được. Một lần nữa, Jaruzelski thể hiện là ngưới có trách nhiệm, vì nhiều đảng viên Cộng sản và đặc biệt đảng viên các đảng nằm trong liên minh – trong một số nhóm nhỏ và đặc biệt là những nhóm liên kết với Giáo hội – đã ép ông tuyên bố rằng cuộc bầu cử là bất hợp pháp và không có giá trị. Ông nói không, ông nói rằng cần chấp nhận kết quả, và hơn nữa, chấp nhận rằng đấy là kết quả xấu đối với Đảng Cộng sản, và do đó, cần phải suy nghĩ về những giải pháp mới cho tương lai. Cuộc bầu cử đã làm tăng tốc tiến trình, nhưng, dù sao, nó cũng xảy ra đúng lúc.

Vai trò của nhà lãnh đạo độc tài trong việc thúc đẩy công cuộc chuyển hóa

Không phải lúc nào cũng đòi hỏi một người dân chủ ngay từ đầu đóng vai trò quan trọng trong việc làm cho dân chủ trở thành khả thi. Ông có đồng ý rằng tướng Jaruzelski là một ví dụ tốt cho điều vừa nói?

Hoàn toàn chính xác. Jaruzelski khác hẳn tất cả các nhà lãnh đạo khối Xô Viết, ông là người thông minh, có học vấn, rất có văn hoá, và đàng hoàng. Ông có cách tiếp cận mang tính thực dụng. Ông nhận thức được rằng nếu không đối thoại và thay đổi thì ông sẽ không có cơ hội làm cái gì đó cho nền kinh tế hay đưa quan điểm của phe đối lập vào. Một yếu tố quan trọng khác là Gorbachev, chắc chắn thế, vì Jaruzelski có liên hệ thân tình, gần gũi với Gorbachev. Quan hệ cá nhân giữa họ với nhau cũng rất tốt, và tôi nghĩ rằng đối với Gorbachev, Jaruzelski và Ba Lan có thể là một phòng thí nghiệm cực kì quan trọng để xem một số thí nghiệm có thành công hay không.

Jaruzelski là một người có nhiều thứ trái khoáy. Ông sinh ra trong một gia đình Ba Lan cực kì cao quý. Trước chiến tranh, ông học trong các trường Công giáo, trong đó có trường Marianow ở ngay Warsaw. Ông đã mất cha trong Thế chiến II, cha ông chết ở Liên Xô vì khi Liên Xô xâm chiếm Ba Lan, gia đình ông bị đầy sang Siberia. Những năm chiến tranh, ông sống ở đó. Rồi ông bắt đầu sự nghiệp của mình trong Quân đội Ba Lan, liên kết với chính quyền Cộng sản. Ông được phong tướng, trở thành Bộ trưởng quốc phòng, và cuối cùng là thủ tướng.

Không có ai là người lí tưởng hết; Jaruzelski đã mắc nhiều sai lầm và trong cuộc đời ông cũng có rất nhiều biểu hiện cơ hội chủ nghĩa. Nhưng một điểm rất đặc biệt mà tôi muốn nhấn mạnh: Lòng yêu nước vô bờ bến của ông. Đây là một người có tình cảm sâu nặng đối với nhà nước Ba Lan. Ý thức trách nhiệm đối với tất cả những việc mà ông làm và lòng yêu nước của ông, theo tôi, là vô cùng quan trọng đối với ông và đối với những quyết định của ông, đặc biệt là những quyết định cuối cùng. Năm 1989, ông được bầu làm Tổng thống, bằng một cuộc bỏ phiếu trong nghị viện, ông đã từ chức một năm sau đó. Ông hiểu rất rõ rằng thời của mình đã qua, và ông đã từ chức Tổng thống Ba Lan một cách hòa bình nhất. Việc ông từ chức đã giúp tổ chức cuộc tổng tuyển cử năm 1990, và Wałęsa được bầu làm người kế nhiệm ông. Nếu bạn hỏi những người làm việc với Jaruzelski trong giai đoạn đó, như Mazowiecki, thì mọi người đều nói rằng sự hợp tác của ông là vô cùng trung thành. Ông vẫn còn rất nhiều ảnh hưởng trong Quân đội và trong một số bộ phận của Bộ Nội vụ, nhưng ông không bao giờ sử dụng ảnh hưởng đó nhằm áp đặt ý chí của mình. Ông rất trung thành với vị thủ tướng mới và người kế nhiệm ông, Tổng thống Wałęsa. Và trên thực tế, đó là sự kết thúc sự nghiệp chính trị của ông, vì chỉ sau một năm rưỡi, ông đã từ chức, nhưng nó cho thấy rằng người ta có thể bắt đầu như là một nhà độc tài và kết thúc như là một quan chức nhà nước ủng hộ dân chủ.

Xây dựng những chính đảng mới

Tại sao ông quyết định phải tiến lên, ra khỏi đảng cũ, và tạo ra một đảng mới?

Tôi quyết định tổ chức một đảng mới vì tôi thấy Đảng Cộng sản Ba Lan là đảng của quá khứ. Nó tồn tại trong hệ thống đàn áp, không có các luật lệ dân chủ. Đảng này (và thậm chí, cách suy nghĩ của nó) đã trở thành hoàn toàn vô hiệu và, nói thẳng, không thể chấp nhận được trong kỷ nguyên mới, khi chúng tôi đã có chế độ dân chủ. Một trong những tuyên bố đầu tiên trong văn kiện của chúng tôi về Đảng mới, Đảng Dân chủ Xã hội Ba Lan (SdRP), là chúng tôi muốn có ảnh hưởng chính trị tỉ lệ thuận với số người ủng hộ chúng tôi, rằng chúng tôi tôn trọng các luật lệ của chế độ dân chủ. Nếu chúng tôi được 5% phiếu bầu, thì vai trò của chúng tôi là 5%. Nếu chúng tôi nhận được 55% phiếu bầu thì chúng tôi sẽ nắm được đa số và chúng tôi sẽ chịu trách nhiệm trước đất nước. Liên minh đầu tiên tôi thành lập với Włodzimierz Cimoszewicz [Ứng cử viên tổng thống trong cuộc bầu cử năm 1990 và thủ tướng giai đoạn 1996-1997], là Liên minh Dân chủ Cánh Tả (Sojusz Lewicy Demokratycznej – SLD),. Đảng này trở thành một phần của Liên minh Dân chủ Xã hội Ba Lan (đảng thừa kế hậu Cộng sản duy nhất]. Tôi tự hào rằng trong suốt 23 năm, Đảng này chưa bao giờ gây ra bất kì vấn đề dân chủ nào. Đây là một trong những đảng ủng hộ dân chủ mạnh nhất và trong sạch nhất. Đảng này chấp nhận hoàn toàn tất cả các khía cạnh của chế độ dân chủ.

Ông có hi vọng rằng đây sẽ là một đảng mới khi các cuộc đàm phán bắt đầu?

Không, chính xác là không. Trong quá trình đàm phán, không ai nói về các đảng mới vì quá trình này rất dễ đổ vỡ. Chúng tôi là những thuyết khách giỏi, nhưng chúng tôi không phải là tiên tri. Không ai trong chúng tôi đủ sức tiên đoán rằng Liên Xô sẽ sụp đổ, nước Đức sẽ thống nhất, và Đảng Cộng sản Ba Lan cũng sụp đổ. Thành thật mà nói, thế lại tốt hơn. Nếu trong các cuộc đàm phán đó mà có quá nhiều tưởng tượng, thì không phải quá hay, vì thay đổi như thế có nghĩa là gì?

Ơn Chúa, chúng tôi không thảo luận về việc thống nhất nước Đức. Chúng tôi chỉ thảo luận làm sao thay đổi hệ thống chính trị và kinh tế của Ba Lan. Trong một cuộc thảo luận rất dài và mệt mỏi với phe đối lập, tôi đã nói với họ: “Tôi biết rằng cuộc đấu tranh giành quyền lực là rất phức tạp. Nhưng tại sao từ bỏ quyền lực cũng phức tạp như thế?” Đối với tôi, hoàn toàn rõ ràng là cuộc đối thoại giữa phe đối lập và Đảng Cộng sản có nghĩa là, ít nhất, chúng tôi sẽ chia sẻ quyền lực và trách nhiệm. Phe đối lập đang bước vào chính trường, và đấy là điều quan trọng. Trong cuộc bầu cử tháng 6 năm 1989, Công đoàn Đoàn kết giành chiến thắng một cách ngoạn mục; họ nắm được 99 trong số 100 ghế ở Thượng viện. Đối với tôi, kết quả rõ ràng: Đảng Cộng sản Ba Lan là đảng của quá khứ, không có cơ hội trở thành yếu tố hiệu quả và được tôn trọng ở nước Ba Lan mới và dân chủ.

Cải cách kinh tế

Giai đoạn quyết định cho thành công của chúng tôi là sau cuộc bầu cử năm 1989. Chính phủ mới của Tadeusz Mazowiecki, [thủ tướng không Cộng sản đầu tiên, 1989-1991], nói một cách chính thức là chính phủ liên hiệp vì có đại diện của tất cả các nhóm chính trị có chân trong nghị viện. Nghị viện này – bầu vào năm 1989 – không được bầu một cách hoàn toàn dân chủ, nhưng tiến hành một cách rất tận tụy tất cả những cuộc cải cách. Nó có cách tiếp cận lưỡng đảng đối với tất cả các vấn đề. Bầu không khí tích cực của quá trình chuyển đổi, sự đột khởi của niềm hi vọng, và những kì vọng của nhân dân đã được chính phủ Mazowiecki và Balcerowicz sử dụng nhằm thực hiện “liệu pháp sốc” trong lĩnh vực kinh tế. Liệu pháp sốc có nghĩa là những biện pháp cứng rắn trong kinh tế, người dân mất tiền và nhiều nơi, còn mất cả việc làm. Chúng tôi đóng cửa rất nhiều nhà máy lớn. Tỉ lệ thất nghiệp tăng rất nhanh. Nhưng nếu muốn thực hiện liệu pháp sốc thì cần phải tìm được thời điểm thích hợp. Thời điểm không thích hợp, liệu pháp sốc sẽ không thành công. Ở một số nước, người ta quyết định tiến hành các biện pháp sốc trong vòng từ hai đến ba năm sau khi quay lại với chế độ dân chủ. Nhưng lúc đó thì đã quá trễ, vì nhân dân không còn nhiệt tình và không còn sẵn sàng hi sinh như cũ nữa.

Có những yếu tố xã hội quan trọng. Trong môi trường mới, người Ba Lan thể hiện một cái gì đó khiến chính chúng tôi cũng phải ngạc nhiên: tinh thần kinh doanh mạnh mẽ. Thật không thể tin nổi. Bây giờ Ba Lan có lẽ là một trong những xã hội có xu hướng ủng hộ kinh doanh nhất châu Âu. Chúng tôi có khoảng hai triệu doanh nghiệp vừa và nhỏ, với bảy hoặc tám triệu người làm việc trong những doanh nghiệp này; các công ty này rất năng động, đó là lí do vì sao trong cuộc khủng tài chính gần đây, chúng tôi đã quản lí được tình hình hiệu quả như thế. Nếu có hai hoặc ba công ty lớn và có rắc rối với thương mại, thì chính phủ khó mà quản lí được tình hình. Nếu có hai triệu công ty nhỏ, thì có thể không biết họ đang làm gì, nhưng họ tìm được một số thị trường ngách. Sự vươn lên của các doanh nhân quy mô nhỏ là điều kiện cực kì tích cực đối với Ba Lan.

Phân quyền

Thay đổi quan trọng tiếp theo, góp phần vào thành công của chúng tôi là phân quyền. Một trong những sai lầm chính của nhiều nước hậu Cộng sản là họ có vấn đề về phân quyền. Chúng tôi quyết định thay đổi hệ thống và cho chính quyền địa phương và khu vực nhiều quyền hơn. Chúng tôi tổ chức cuộc bầu cử địa phương hoàn toàn dân chủ đầu tiên vào tháng 5 năm 1990, 11 tháng sau cuộc bầu nghị viện chưa hoàn toàn tự do của Ba Lan. Vì vậy, chúng tôi có thể nói rằng, tháng 5 năm 1990, ở Ba Lan, chúng tôi đã có nhà nước phi tập trung hóa hơn hẳn, với các quận, vùng và tỉnh có nhiều quyền lực mới và nhiều tiền hơn trước.

Quyết định này mang lại hiệu quả như thế nào? Trước hết, các cấp địa phương năng động hơn hẳn, vì những người muốn làm cái gì đó bây giờ có thể làm. Họ có phương tiện và họ có tiền. Thứ hai, nhân dân có thể bầu các nhà lãnh đạo địa phương, những người mà nhân dân trong thành phố hay khu vực đã biết rõ. Họ có các vị thị trưởng, các nhà lãnh đạo các hội đồng của mình..v.v. Phân quyền còn quan trọng, nếu muốn kiểm soát tốt hơn vấn đề tham nhũng. Dĩ nhiên là, ở đâu cũng có tham nhũng. Nhưng phân quyền cơ cấu nhà nước thì dễ kiểm soát tham nhũng hơn. Trước hết, bộ máy quản lí hành chính không phát triển đúng mức. Nếu muốn ban hành quyết định, không cần phải qua nhiều cơ quan và cấp bậc. Quá trình ban hành quyết định sẽ gần gũi với nhân dân và công dân hơn. Nếu cộng đồng địa phương mạnh, người dân có thể theo dõi những việc đang diễn ra trong các cơ quan chức năng ở địa phương. Dễ dàng phát hiện ra rằng thị trưởng của thành phố năm nay đi một chiếc xe rất bình thường, sang năm đã đi chiếc xe đắt tiền. Nói thế thì hơi đơn giản hóa, nhưng có tác dụng minh họa cho cơ chế.

Đồng thuận để thay đổi

Cuối cùng, nói đến lí do thành công của Ba Lan, thì điều quan trọng là trong 20 năm đầu, chúng tôi đã có thể tìm được sự đồng thuận chính trị rộng rãi về những thành tố chiến lược chính của nền chính trị Ba Lan, trong đó có thay đổi dân chủ trong giai đoạn 1989-1991, kế hoạch Balcerowicz, và trở thành thành viên NATO, có tầm quan trọng đối với an ninh của Ba Lan. Chúng tôi đã xây dựng được sự đồng thuận rộng rãi về bản hiến pháp, được thông qua trong cuộc trưng cầu dân ý năm 1997. Cuối cùng, chúng tôi đã thắng trong cuộc trưng cầu dân ý về việc tham gia EU, với 75% số phiếu ủng hộ. Đây có thể là lần cuối cùng chúng tôi có sự đồng thuận rộng rãi và có tính lưỡng đảng như thế.

Cải cách kinh tế

Trong tất cả các công cuộc chuyển hóa, lãnh đạo bao giờ cũng là lực lượng chính trị, và các nhà lãnh đạo quyết định các chính sách kinh tế, trên cơ sở ảnh hưởng của chúng đối với quá trình phát triển về chính trị của quá trình chuyển hóa. Mặc dù, ở một số nước, thay đổi về kinh tế được tiến hành từng bước nhằm tránh những phản ứng của dân chúng, ở Ba Lan, các ông áp dụng liệu pháp sốc. Tại sao các ông chọn cách làm như thế?

Chọn thời điểm có lẽ là yếu tố quan trọng nhất, và quan trọng là phải nhắc lại rằng không có một câu trả lời duy nhất cho tất cả các tình huống, cho tất cả các nước. Sẽ là tuyệt vời nếu có hai hoặc ba cách làm, tương tự như những toa thuốc mà bạn thấy trong các hiệu thuốc, để gửi tới Cuba, Myanmar và những nước khác, nhưng không thể làm như thế được. Song, nếu bạn muốn phân tích trường hợp Ba Lan, điều quan trọng cần nhớ là tình hình kinh tế của chúng tôi quá xấu, quá bi thảm, tình hình đó đã mở rộng không gian cho những quyết định đầy rủi ro. Chúng tôi bị lạm phát phi mã và những khoản nợ nước ngoài khổng lồ. Cải cách quyết liệt là con đường dẫn tới tình trạng tốt đẹp hơn. Nhưng tôi nghĩ, chúng tôi đã gặp may vì chính phủ quyết định phải làm cái gì đó với nền kinh tế. Họ tìm thấy đúng người và đúng một nhóm, nhóm khá lớn, cộng tác với Balcerowicz, và họ là những người được chuẩn bị về mặt tri thức và nghề nghiệp để làm việc đó. Đôi khi cần phải thực hiện ca phẫu thuật quyết liệt, nhưng nếu không có bác sĩ tốt, thì có thể dẫn đến bi kịch. Ở Ba Lan, chúng tôi đã tìm được “những bác sĩ” tốt, những chuyên gia đầy quyết tâm. Trong những tháng đầu của chế độ dân chủ mới, tình hình chính trị đầy hiểu biết lẫn nhau. Có đại diện của Đảng Cộng sản cũ trong Nghị viện. Người ta có đầy đủ tinh thần trách nhiệm, hiểu rõ đòi hỏi của tình hình, của tương lai. Kể từ đó, chúng tôi đã có mấy nghị viện được bầu một cách hoàn toàn dân chủ, nhưng nếu hỏi nhiều người, nghị viện nào là tốt nhất, câu trả lời sẽ là nghị viện giai đoạn 1989-1991, nghị viện đầu tiên và không được bầu một cách hoàn toàn dân chủ, vì lúc đó có thái độ hiểu biết và cam kết rất đặc biệt.

Sự kết hợp của những thay đổi lớn trong hệ thống chính trị và những quyết định khá cứng rắn về kinh tế khả thi trong hai năm đầu; nếu làm sau thì hoàn toàn bất khả thi. Cuộc bầu cử Nghị viện hoàn toàn dân chủ đầu tiên được tổ chức năm 1991 mà không có ngưỡng 5% để cho tất cả các đảng, thậm chí có đảng chỉ giành được 1% phiếu bầu, cũng có cơ hội tham gia Nghị viện. Kết quả là, có 23 đảng chính trị khác nhau trong Nghị viện. Bạn có thể tưởng tượng được rằng 23 đảng phái chính trị này sẽ đồng ý ủng hộ chương trình quá đau đớn và quá phức tạp đến mức sẽ làm một số người mất việc và gây ra tình trạng nghèo đói ở một số khu vực? Đáng lẽ là bất khả thi. Vì vậy, thời điểm là quan trọng. Người dân trên đường phố ở Bắc Phi hay những nơi khác hiện đang đấu tranh vì tự do, vì dân chủ, vì nhân phẩm, vì những thứ khác. Tất nhiên, họ không sẵn sàng chấp nhận (hoặc thậm chí là thảo luận) một số vấn đề kinh tế rất phức tạp. Và tất nhiên, khi hệ thống thay đổi và họ nắm được quyền lực, phản ứng đầu tiên sẽ là nhiều đảng chính trị hơn, ít đối thoại hơn, và nhiều xung đột hơn. Rất khó tìm ra cái cửa sổ mở ra cơ hội để tiến hành những cuộc cải cách kinh tế, cần thiết nhưng đầy đau đớn; theo tôi, cải cách kinh tế là thách thức chính trong quá trình chuyển hóa dân chủ, cả về lí thuyết lẫn thực tiễn.

Vậy, làm sao kết hợp hai yếu tố này – hệ thống chính trị mới với sự bùng nổ (đôi khi, rất phi thực tế) của những kì vọng và cách tiếp cận rất thực dụng về kinh tế? Làm sao tạo ra được sự ủng hộ và thông cảm từ những người lãnh đạo chính trị mới, nhiều đảng chính trị mới và dân chúng trên đường phố đối với những cải cách khó khăn này?

Điều tôi biết từ các nước khác trong khu vực này là khi quyết định tiến hành từng bước mà không dùng liệu pháp sốc (và nhiều nhà lãnh đạo đã có sẵn thái độ thù địch với chính sách đó), họ đã tạo ra nhiều vấn đề, vì vẫn cần phải có nhiều quyết định rất đau đớn. Tương tự như phẫu thuật: Có thể chấp nhận thậm chí cuộc phẫu thuật đầy mạo hiểm và khó khăn trong một giai đoạn rất ngắn; nhưng nếu trong năm hay bảy năm, cứ mỗi tháng phẫu thuật một lần, tuy ít đau đớn hơn, nhưng vẫn rất khó chịu, thì sẽ không thể nào chịu nổi. Đó là một phần nhỏ những gì chúng ta thấy ở Hi Lạp hiện nay, ví dụ thế.

Cải cách hiến pháp

Trong hầu hết các cuộc chuyển hóa, xây dựng một hiến pháp mới và một khế ước xã hội mới là cực kì quan trọng. Ở Ba Lan, năm 1989 đã tiến hành một số sửa đổi hiến pháp năm 1989 và năm 1992, có những thay đổi khác trong bản Hiến pháp Nhỏ. Trong nhiệm kỳ tổng thống của mình, Wałęsa đã không thể thông qua cuộc cải cách lớn về hiến pháp, nhưng ông đã làm được vào năm 1997. Quá trình nào tạo điều kiện cho Ba Lan đạt được thỏa thuận nhằm thông qua bản hiến pháp mới?

Thông qua một bản hiến pháp mới là cực kì quan trọng và rất khó khăn. Thẳng thắn mà nói, Ba Lan rất gần với tình hình Chile [nước này không có đồng thuận chính trị để thay bản hiến pháp thời Pinochet]. Chúng tôi có bản hiến pháp thời Cộng sản với ngày càng nhiều sửa đổi hơn, vì rất khó tổ chức đa số hai phần ba, theo hiến pháp, trong Nghị viện. Xây dựng sự ủng hộ trong cuộc trưng cầu dân ý dễ hơn nhiều. Ở Ba Lan, lí do để chiến đấu cho một bản hiến pháp mới là rất rõ ràng, vì bản hiến pháp cũ có từ những năm 1950; nó đã được gửi đến Moscow và được Stalin xét duyệt. Cho nên, đối với nhiều người ở Ba Lan, hoàn toàn tự nhiên và cần thay đổi cái được coi là bản hiến pháp của Stalin. Thay đổi hiến pháp có ý nghĩa chính trị quan trọng, nhưng cũng cần phải thay đổi vì chính nội dung của bản hiến pháp.

Chủ tịch tiền nhiệm của tôi trong Uỷ ban Hiến pháp của Nghị viện là Giáo sư Geremek, một người rất thông minh và được nhiều người kính trọng. Ông đã không thành công vì khó hoàn tất công việc này trong Nghị viện giai đoạn 1991-1993; quá nhiều đảng phái chính trị với nhiều quan điểm khác nhau. Đối với cuộc bầu cử năm 1993, chúng tôi quyết định chấp nhận ngưỡng 5%, các đảng phải vượt qua ngưỡng này thì mới có chân trong Nghị viện. Với ngưỡng này và vì sự tan rã của lực lượng cánh hữu, không có đảng cực hữu nào được bầu vào Nghị viện. SLD cùng với đối tác trong liên minh của chúng tôi, Đảng Nông dân Ba Lan (PSL), nắm được đa số trong Sejm. Và tôi [đứng đầu SLD] được bầu làm người lãnh đạo Ủy ban Hiến pháp. Thế là, tôi mời ngay đảng ủng hộ bản hiến pháp thuộc phe đối lập, đảng của Mazowiecki và Geremek, gọi là Liên đoàn Tự do (Freedom Union), tham gia phe đa số ủng hộ bản hiến pháp này và chúng tôi bắt đầu làm việc cùng nhau.

Khi Nghị viện xem xét dự thảo luật ngay trước khi kết thúc nhiệm kì, các dự luật này có thể bị chuyển sang phiên họp mới vì Nghị viện mới không có nghĩa vụ thảo luận các dự luật từ Nghị viện trước. Hiến pháp cũng thế. Chúng tôi có năm hay sáu dự án rất hữu ích, một số do các đảng bảo thủ chuẩn bị, những đảng này không có chân trong Nghị viện mới. Nhưng tôi quyết định là sẽ làm việc với tất cả các dự án này.

Ý tưởng là thảo luận và tranh luận tất cả các dự án và tất cả các đề xuất. Tất nhiên, mất rất nhiều thời gian, nhưng chúng tôi kiểm soát chương trình nghị sự, vì chúng tôi là phe đa số. Chúng tôi bắt đầu nói chuyện với Giáo hội Công giáo, đấy là tác nhân rất quan trọng. Chúng tôi đã tổ chức cuộc đối thoại hữu ích với Giáo Hội và cuối cùng, chuẩn bị bản dự thảo hiến pháp. Năm 1995, tôi được bầu làm tổng thống. Năm 1997, chúng tôi đưa bản dự thảo Hiến pháp này cho nhân dân bỏ phiếu trong cuộc trưng cầu dân ý và đã được thông qua. Chuyện này chưa bao giờ xảy ra ở Ba Lan. Tôi nghĩ rằng nếu chúng tôi không làm vào thời điểm đó, giai đoạn từ năm 1993 đến năm 1997, thì sẽ rất khó khăn cho việc chuẩn bị Hiến pháp vì các Nghị viện được bầu lên sau đó không có được đa số hiến định.

Hệ thống chính quyền

Dường như Ba Lan là nước duy nhất ở Đông Âu có hệ thống “bán tổng thống” (tổng thống nắm một nửa quyền lực). Trong chính phủ của ông, khi Jerzy Buzek làm thủ tướng [1997-2001], nó là một dạng “cộng sinh”, vì tổng thống và thủ tướng từ các đảng chính trị hay các liên minh khác nhau. Ông quan niệm thế nào về hệ thống bán tổng thống? Hiện nay ông có hài lòng với hệ thống này hay không?

Có, hoàn toàn thỏa mãn. Tại sao lại là hệ thống bán tổng thống? Đó là câu chuyện dài, nhưng để cho ngắn gọn, chúng tôi có hai khả năng. Lựa chọn đầu tiên là tổ chức hệ thống nội các đại nghị, nhưng có những luận cứ đầy thuyết phục phản bác cách làm này, đặc biệt là, nó sẽ không ổn định, vì sự thiếu gắn bó của hệ thống đảng phái ở Ba Lan. Làm sao có thể trao tất cả quyền hành cho Nghị viện và các đảng phái, nếu trong Nghị viện được bầu theo lối dân chủ đầu tiên đã có tới 23 đảng? Cứ sáu tháng, chúng tôi lại có một cuộc khủng hoảng chính trị và chúng tôi đã nhiều lần thay thủ tướng. Hệ thống đó sẽ hoàn toàn không chịu trách nhiệm gì.

Vậy, tại sao ở Ba Lan, chúng tôi không quyết định tổ chức hệ thống tổng thống? Trước hết, chúng tôi sợ, khi nắm được lịch sử của chúng tôi và lịch sử của các lân bang của chúng tôi, của hệ thống tổng thống tập quyền mạnh mẽ, và, thẳng thắn mà nói, chúng tôi có tấm gương rất tiêu cực về giai đoạn ông Wałęsa làm tổng thống. Bởi vì chất lượng của nhiệm kỳ tổng thống của ông là quá tệ, chúng tôi cảm thấy rằng cho tổng thống nhiều đặc quyền hơn, nhiều quyền lực hơn, thì sẽ nguy hiểm.

Với kinh nghiệm của chúng tôi trong những năm đó ở Ba Lan, từ năm 1993 đến 1995, chúng tôi quyết định đề xuất hệ thống bán tổng thống. Hoàn toàn không phải là chưa có tiền lệ; hệ thống này đang hiện diện ở Pháp và Phần Lan, ví dụ thế. Theo tôi, hệ thống này ổn, tôi chắc chắn rằng đó là hệ thống tốt nhất mà chúng tôi có thể đề xuất cho Ba Lan. Tôi sẽ rất thận trọng khi bàn về thay đổi nó. Tôi đã làm việc bốn năm trong tình trạng “cộng sinh” với Buzek, khá hiệu quả và dễ quản lí. Đôi khi, thực sự, tôi có ấn tượng rằng làm việc với một nội các không phải từ đảng phái của mình thì dễ hơn là làm việc với chính phủ của đảng mình.

Trong mấy năm gần đây, chúng tôi đã có một số vụ xung đột thực sự, trong đó có vụ xung đột giữa Lech Kaczyński [Tổng thống giai đoạn 2005-2010] và Donald Tusk [Thủ tướng giai đoạn 2007-2014]. Đây không phải là vấn đề hiến định. Đó là xung đột chính trị giữa hai cá nhân. Kinh nghiệm của tôi là nếu có những người tốt, những người có trách nhiệm ở những vị trí cao nhất của quốc gia, thì ngay cả bản hiến pháp không hoàn hảo cũng sẽ hoạt động được. Nhưng nếu có hiến pháp tốt nhất, mà những người xấu lại giữ những chức vụ này, thì nó cũng sẽ không hoạt động. Chất lượng của hiến pháp là cực kì quan trọng, nhưng chưa đủ. Quan hệ tốt đẹp giữa những người chịu trách nhiệm về đất nước là cực kì quan trọng. Nếu họ muốn đánh nhau, thì bản hiến pháp tốt nhất cũng chẳng giúp gì được, vì họ sẽ sử dụng hiến pháp theo cách của họ.

Tôi nghĩ rằng hệ thống bán tổng thống ở Ba Lan là hoàn toàn chính xác. Nó tạo ra đối trọng và cân bằng hơn so với một số hệ thống tổng thống hay đại nghị. Khi chúng tôi có chính phủ mạnh, nắm đa số trong Nghị viện, thì sẽ tốt hơn nếu Tổng thống không nhất thiết phải là người cùng một đảng. Đôi khi cần yếu tố cân bằng này để ngăn chặn những ý tưởng sai lầm do chính phủ đề xuất, chính phủ trong hệ thống của chúng tôi có khá nhiều quyền lực. Trong hệ thống bán tổng thống của chúng tôi, vai trò của chính phủ và thủ tướng đều khá mạnh. Ví dụ, thủ tướng không thể bị bãi nhiệm một cách đơn giản bằng một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm. Trước khi hạ bệ chính phủ, các đối thủ của thủ tướng phải tổ chức bầu chọn ứng cử viên của họ, đây không phải là việc dễ. Ngân sách hoàn toàn thuộc trách nhiệm của chính phủ và đa số trong Nghị viện; tổng thống không chịu trách nhiệm về vấn đề này. Tổng thống có thể phủ quyết dự luật, nhưng quyền phủ quyết đó có thể bị bác bởi đa số là ba phần năm nghị viên. Có thể thay đổi một số điều của hiến pháp, và có lẽ nên thay đổi một số điều, nhưng, nói chung, bản hiến pháp này là rất hiệu quả. Nó ổn định tình hình chính trị và nhà nước Ban Lan.

Thông điệp của tôi tới nhiều thành viên mới của Nghị viện là, nếu họ muốn thay đổi một số điều khoản của hiến pháp, họ nên xem xét xem thay đổi hay đấu tranh cho sự liên tục và ổn định thì tốt hơn. Nói cho cùng, sự ổn định của hiến pháp là giá trị tự thân. Ví dụ, ở Ukraine, hầu như cứ ba hay bốn tháng người ta lại thay hiến pháp một lần. Đấy là mảnh giấy, không phải là một bản hiến pháp. Quan trọng là nhân dân tôn trọng hiến pháp, là có một nền văn hoá hiến định như ở Hoa Kỳ. Chỉ có thể tạo ra một nền văn hoá như vậy, nếu biết tự kiềm chế, không phải năm nào hay nhiệm kì nào cũng thay đổi nó.

Comments are closed.