Chuyển hóa dân chủ: Đối thoại với các nhà lãnh đạo thế giới (kỳ 3)

Biên tập: Sergio BitarAbraham F. Lowenthal, Viện Quốc tế Hỗ trợ Bầu cử và Dân chủ (IDEA), Stockholm

Dịch: Phạm Nguyên Trường

Công lý và Hòa Giải

Giai đoạn đầu chính quyền của tôi, năm 1995, tôi có buổi ăn tối ở nhà của bộ trưởng Hải quân với tất cả các bộ trưởng quân sự khác và tướng Alberto Cardoso. Có năm viên tướng và tôi, chúng tôi chuẩn bị nâng cốc chúc mừng chế độ dân chủ. Tôi nói với họ rằng tôi đã bị tù một ngày trong Chiến dịch Bandeirantes (một thành phố của Brazil – ND), đây là chiến dịch bí mật của chế độ độc tài, trong đó những người bị giam giữ đã bị tra tấn. Tôi nói với họ rằng tôi đã nhìn thấy một số người bị tra tấn, và điều đó làm cho tôi nhận thức được rằng nhân quyền không chỉ đơn giản là vấn đề tu từ học. Tôi còn nói với họ rằng tôi sẽ thành lập một ủy ban để thay mặt chính phủ Brazil bồi thường và xin lỗi về những vụ bạo lực do nhà nước gây ra.

Tôi thành lập ủy ban thẩm tra những vụ trừng phạt không qua thủ tục xét xử trong giai đoạn độc tài. Nhiều người đòi hỏi đã nhận được các khoản bồi thường cho tới khi một sĩ quan quân sự tên là Carlos Lamarca được thăng chức – sau khi chết. Ông ta trở thành du kích quân, đã giết một sĩ quan quân đội, rồi sau đó thì bị giết. Gia đình ông ta được trợ cấp, nhưng ủy ban tìm cách phong cho ông ta chức đại tá, thực là hơi qúa. Vì vậy, đại diện của các lực lượng vũ trang trong ủy ban, một vị tướng đã hồi hưu, xin đến nhà tôi để nói chuyện với tôi. Ông nói với tôi rằng ông là thành viên của ủy ban bồi thường, nhưng ý kiến ​​của ông bao giờ cũng bị người ta gạt đi. Ông nói rằng ủy ban có thành kiến, nhưng ông vẫn tiếp tục làm, và rằng trước đó ông đã thành lập ủy ban ủng hộ chiến dịch tranh cử của của tôi trong thành phố quê hương ông. Ông nói với tôi rằng ông rất kính trọng tôi, nhưng ông không thể tiếp tục nếu họ thăng chức cho Lamarca. Tôi nói với ông rằng, khi thành lập ủy ban, tôi đã giao toàn quyền cho họ, và rằng tôi sẽ chấp hành quyết định của ủy ban. Về ý kiến cá nhân, tôi nghĩ việc phong Lamarca lên chức đại tá là quá đáng, nhưng nếu ủy ban thông qua, tôi sẽ thực hiện. Tuy nhiên, việc ông từ chức sẽ gây ra cho tôi những thiệt hại to lớn về chính trị. Vị tướng thân thiện với tôi đến mức đã không từ chức, mặc dù ủy ban thông qua quyết định đề nghị phong chức cho Lamarca.

Trong số các sĩ quan đang tại ngũ chỉ có một người phản đối quyết định của ủy ban, đấy là viên tướng chỉ huy tập đoàn quân Đông Bắc. Chúng tôi lặng lẽ cất chức ông ta; ông ta được chuyển sang lực lượng trù bị mà không có bất kì sự cố lớn nào. Nói cách khác, các sĩ quan quân đội tuân lệnh, và tiếp tục như thế với Lula và bây giờ là với vị tổng thống mới, ông này còn thành lập Ủy ban Sự thật để làm rõ trách nhiệm về những sự kiện đã xảy ra dưới chính quyền quân sự. Quá trình chuyển hóa sang chế độ dân chủ diễn ra chậm chạp, từng bước một và thất thường, nhưng  giờ không còn bị nguy cơ đảo chính quân sự ám ảnh nữa. Trước đó, quân đội thường tổ chức kỉ niệm ngày 1 tháng 4 (họ gọi là cách mạng, còn chúng tôi gọi là đảo chính); nhưng đến giai đoạn tôi cầm quyền thì chấm dứt hẳn. Quân đội thôi không nói về vai trò của nó trong việc “phục hồi dân chủ” nữa; trong giai đoạn tôi nắm quyền, không ai nói như vậy, cũng không còn những buổi lễ kỉ niệm sự kiện đó nữa.

Các quan chức dân sự kiểm soát lực lượng vũ trang

Quá trình chuyển hóa của Brazil diễn ra trong mấy năm, và phải mất mấy chục năm mới hình thành được mối quan hệ giữa lực lượng vũ trang và chính phủ dân sự. Ở Ai Cập hiện đại, thật khó mà chấp nhận rằng phải mất 25 năm mới giải quyết được vấn đề quân đội. Ở Brazil, có thể đẩy nhanh hơn được không? Nếu làm như thế thì tiến trình này có gặp nguy hiểm hay không?

Cần nhấn mạnh là ở Brazil phe đối lập chưa bao giờ đánh bại được lực lượng vũ trang. Có sự chuyển hóa trong nội bộ, trong lòng chế độ và ở bên ngoài chế độ, ngoài xã hội. Ở Argentina và Uruguay, có sự phân hóa trong quân đội. Ở Chile, các lực lượng vũ trang cũng không bị đánh bại. Pinochet cầm quyền trong tám năm. Ở đây, quá trình cũng diễn ra một cách từ từ; không có vụ đổ vỡ nào. Dấu hiệu đầu tiên của sự đổ vỡ là Hội đồng Lập hiến hoạt động trong những năm 1987-1988, bởi vì cho đến lúc đó, quá trình chuyển hóa thực chất là đã diễn ra trong khuôn khổ luật pháp của chế độ độc tài, mặc dù là độc tài, do áp lực của phe đối lập, đã không còn khắt khe như trước nữa.

Một điểm vẫn chưa được giải quyết: Ân xá cho cả hai bên. Luật Ân xá đã được quốc hội thông qua năm 1979, nhưng lúc đó vẫn là chế độ quân sự, không có quyền bầu cử, không có đầy đủ các quyền tự do. Hiện nay, người ta đang tranh cãi việc ân xá tất cả mọi người – cả những người chịu trách nhiệm về những vụ tra tấn lẫn những kẻ đã từng tra tấn. Cách đây khoảng hai năm, Tòa án tối cao quyết định rằng ân xá nghĩa là ân xá tất cả những người đó. Cùng với việc thành lập Ủy ban Sự thật, vấn đề lại một lần nữa được hâm nóng lên. Để làm cho giới quân nhân bình tĩnh trở lại, người ta quyết định rằng Ủy ban sẽ làm rõ các sự kiện, và không trừng phạt những người chịu trách nhiệm.

Có bao giờ xuất hiện nỗi lo sợ về sự can thiệp của quân đội, làm đảo lộn quá trình? Vai trò của tổ chức xã hội trong việc ngăn chặn sự can thiệp của giới quân nhân?

Ngay sau khi được bầu làm tổng thống, một trong những bước đầu tiên mà Tancredo Neves làm là bổ nhiệm bộ trưởng Lục quân, một vị tướng có nhiều khả năng sẽ bảo vệ và che chở chúng tôi, trước phản ứng có thể xảy ra của giới quân nhân. Tôi đã nhắc đến ông ta, tướng Leonidas Pires Goncalves. Ông không phải là người theo phe cứng rắn, mà là một quân nhân chuyên nghiệp điển hình, và sau khi Tancredo từ trần, đã trấn an được Sarney rằng, không thể nào có chuyện quay lại chế độ độc tài được nữa. Người đứng đầu cơ quan thông tin, đây cũng là chức vụ quan trọng, cũng là một người công bằng. Từ lúc đó trở đi, khi Hội đồng Lập hiến đã bắt đầu thảo luận, chúng tôi không còn nghĩ rằng sẽ xảy ra bất cứ sự thụt lùi nào; quốc hội hành động như thể đã được (và thực ra là được) tự do hoàn toàn vậy.

Quân đội không bao giờ chấp nhận hệ tư tưởng độc tài, họ luôn luôn nói rằng sẽ chỉ nắm quyền trong một thời gian ngắn, để đảm bảo cho chế độ dân chủ trong tương lai mà thôi. Đấy cũng là cái khó khăn của họ. Nắm quyền tạo ra cho lực lượng vũ trang, như một thiết chế, nhiều vấn đề. Geisel tìm cách giành lại quyền kiểm soát các mảng liên quan nhiều nhất đến tra tấn, tức là những mảng có nhiều quyền lực trong giai đoạn đàn áp tàn bạo nhất. Ông đã thành công trong tái lập hệ thống cấp bậc trong giới quân nhân. Tuy nhiên, sự kháng cự nội bộ đối với quá trình mở cửa vẫn không chấm dứt. Trong những năm 1980-1981, phái cực hữu đã tiến hành mấy cuộc tấn công với sự tham gia trực tiếp của một số quân nhân.

Sarney có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo rằng sẽ không có thụt lùi, vì ông là người theo phái tự do nhưng bảo thủ và đã từng phục vụ chế độ quân sự. Bỗng nhiên, ông bắt đầu công khai gặp gỡ những người đại diện cánh tả. Ví dụ, ông tiếp họ trong dinh tổng thống. Đó là hành động quan trọng trong việc đưa ra tín hiệu nói rằng việc sử dụng súng đạn đã thuộc về quá khứ. Rồi Bức tường Berlin sụp đổ năm 1989, Chiến tranh Lạnh kết thúc, nhiều sự kiện đến mức khi Lula tranh cử tổng thống với Collor (Fernando Affonso Collor de Mello làm tổng thống Brazil từ năm 1990 đến năm 1992 – ND), phong trào công nhân và các phong trào khác đã phát triển rầm rộ và người ta không còn sợ đảo chính quân sự nữa.

Nhiều cuộc chuyển hóa gặp khó khăn với bộ máy cảnh sát và an ninh do chế độ quân sự để lại. Kinh nghiệm của Brazil trong lĩnh vực này là gì?

Dưới chế độ quân sự, cảnh sát bang nằm dưới quyền kiểm soát trực tiếp của quân đội. Cho nên bang nào cũng có cảnh sát vũ trang – một số đơn vị rất mạnh, ví dụ như Sao Paulo và Minas – nằm trong tay quân đội. Họ vẫn có ảnh hưởng ngay cả sau khi đã có cuộc bầu cử trực tiếp thống đốc, năm 1982. Mãi tới năm 1988, khi có bản hiến pháp mới thì quyền của thống đốc đối với cảnh sát vũ trang trong bang của họ mới được qui định về mặt pháp lí.

Dân chúng có phê phán cảnh sát và kêu gọi đưa những người tham gia đàn áp ra tòa hay không? Giải quyết như thế nào?

Có, tất nhiên rồi. Đó là toàn bộ cuộc tranh cãi về Luật Ân xá. Không có điểu khoản nào trong bộ luật này bị sửa đổi. Nhưng hiện nay, mỗi khi có người nào đó từng tham gia các nhóm đàn áp được bổ nhiệm chức vụ nào đó là lập tức xuất hiện áp lực rất lớn nhắm vào họ. Báo chí và các nhóm bảo vệ nhân quyền rất cảnh giác, vì vậy tất cả các vụ bổ nhiệm hay thăng chức những quan chức đó đều được giám sát chặt chẽ. Các quan chức đó không phải đi tù, nhưng sự nghiệp của họ thì bị ngăn chặn, không nhiều thì ít.

Giới quân sự coi ông là người thế nào – một chính trị gia, vốn là con và cháu của các quân nhân? Điều đó có giúp ông hiểu được động lực?

Vâng, hoàn cảnh gia đình đã giúp tôi hiểu được luật lệ. Tôi rất chú ý tới quân đội. Họ muốn được tăng lương và có trang thiết bị – pháo, máy bay, v.v. Nhưng, tôi không có tiền để làm việc đó, thậm chí là tăng lương hay mua rất nhiều thứ. Họ muốn được người ta chú ý tới mình. Tôi đã tham dự những buổi lễ kỷ niệm quan trọng của quân đội, tôi thường tới những buổi tập trận của Hải quân. Tôi đã vào rừng và qua đêm ở đó để theo dõi việc huấn luyện của Lục quân, và mỗi lần một vị sĩ quan nào đó được phong hàm cấp tướng, tôi thường đi với bà xã. Đó là sự biệt đãi, vì họ cũng mang vợ theo. Tôi thường đọc một bài diễn văn ngắn, cho họ chỉ thị; bằng cách đó, chúng tôi bắt đầu thiết kế chiến lược phòng thủ Brazil, mà trước đó chưa có.

Họ có coi ông là thành viên gia đình quân nhân hay không?

Theo cách nào đó, thì có. Không công khai, nhưng họ thực sự biết rằng trong gia đình tôi có khoảng 10 hay 12 viên tướng, hai hoặc ba trong số đó là bộ trưởng các lực lượng vũ trang. Có truyền thống, nhưng gia đình tôi cũng rất tiến bộ, từ ông nội tôi đến cha tôi. Từ sau cuộc chiến tranh với Paraguay, quân đội đã phản đối chế độ nô lệ và tham gia vào chiến dịch bài trừ chế độ này. Họ cảm thấy mình là những “người cha của quê hương”, những người chịu trách nhiệm đối với đất nước. Giới quân nhân luôn luôn tránh xa việc kinh doanh; nhà nước có, thị trường thì không. Cha tôi còn là luật sư, chứ không chỉ là quân nhân.

Ruth, vợ tôi, người Sao Paulo – và cũng là người rất không thích giới quân nhân – được mời tới học viện quân sự để giảng bài. Cô rất mừng vì nhận ra rằng đã có rất nhiều thay đổi, rằng lực lượng vũ trang đã hiện đại hóa. Cũng đã có nhiều thay đổi về mặt kỹ thuật, đặc biệt là Hải quân: Họ gửi nhiều người đi Mỹ học tập. Các bà vợ và con của các sĩ quan nghiên cứu trong các trường đại học. Quan hệ với vợ con đã làm thay đổi một cách từ từ tâm lí của các sĩ quan. Hiện nay tôi không tin là có một bộ phận quân đội còn giữ tư duy độc tài về chính trị, hay những lời tuyên bố rằng họ đứng trên phần còn lại của xã hội, chỉ có mình mới là những người bảo vệ quê hương.

Cải cách hiến pháp

Ông lập ra Hội đồng Lập hiến? Đâu là những vấn đề chính trị quan trọng nhất mà ông phải giải quyết? Đã có những thay đổi nào trong hệ thống bầu cử? Những vấn đề gì có thể làm khác đi?

Đã có cuộc thảo luận rộng rãi về việc liệu phải có Hội đồng Lập hiến hay sẽ là quốc hội bình thường với quyền viết lại hiến pháp. Cuối cùng, đó là quốc hội bình thường với quyền chấp bút các điều khoản của hiến pháp. Sự khác biệt khá tinh tế, bởi vì trong cả hai trường hợp, các đại diện đều do dân cử, nhưng quốc hội bình thường thì trao quyền lập hiến cho những người đang nghĩ đến quá trình tái tranh cử của chính mình.

Công thức này đã được quyết định trong thời Sarney cầm quyền và được quốc hội thông qua. Nói cách khác, điều khoản sau đây đã được công bố: Trong kì bầu cử sắp tới (1986), các đại biểu và thượng nghị sĩ được bầu sẽ có nhiệm vụ hiến định là thông qua bản hiến pháp mới bằng đa số đơn giản (50% phiếu cộng 1).

Vấn đề chính trị lớn trong quốc hội lần này là quyền lực của hiến pháp trong việc giải quyết vấn đề liên bang. Điều đáng lo ngại là quân đội đã tập quyền hóa tất cả mọi thứ, trong đó có hệ thống thuế khóa, và họ đã bóp nghẹt chính quyền bang và chính quyền địa phương. Thậm chí trước khi có Hội đồng Lập hiến, dưới thời Figueiredo, các địa phương đã tạo ra được áp lực mạnh mẽ, và một số loại thuế đã được giao cho chính quyền địa phương để họ có thể có thêm thu nhập. Bản hiến pháp mới đặc biệt chú trọng tới quá trình phân cấp thu nhập. Cơ sở thu thuế của chính quyền địa phương và bang tăng lên, và phần thuế mà liên bang chia cho các chính quyền địa phương cũng gia tăng. Một nửa trong số hai khoản thuế chính của liên bang được phân phối lại cho chính quyền bang và địa phương, dựa trên các tiêu chí về dân số và thu nhập. Câu hỏi về biện pháp phân phối thuế khóa là chủ đề chính của cuộc tranh luận trong quốc hội.

Thế rồi vị tổng thống đương nhiệm Sarney lên tiếng, ông nói rằng Brazil sẽ trở nên không thể quản lí được vì hiến pháp mới phân cấp thu nhập, nhưng không giao trách nhiệm tương ứng. Tất cả các khoản an sinh xã hội tiếp tục nằm trong tay chính phủ liên bang, hiện nay đã phình ra do các quyền xã hội được Hội đồng Lập hiến tạo ra. Điều này buộc chúng tôi, trong chính quyền của tôi, tăng các khoản thuế liên bang, tức là những khoản thuế không chia cho chính quyền bang và chính quyền địa phương. Gánh nặng thuế khóa gia tăng.

Hệ thống bầu cử

Hiến pháp còn xác định hệ thống bầu cử. Đại diện thiếu cân đối của các bang trong hạ viện, di sản của chế độ dân chủ giai đoạn 1946 -1964 và được quân đội làm cho sâu sắc thêm, vẫn được giữ nguyên. Sao Paulo chỉ có 70 đại biểu hạ viện; đáng lẽ thành phố này phải có hơn 100 đại biểu, nếu hệ thống tôn trọng nguyên tắc “mỗi người một phiếu”. Hệ thống dành tỉ lệ đại diện quá cao cho các bang lạc hậu nhất, nơi mà xã hội và cử tri có rất ít quyền tự chủ trong quan hệ với chính quyền địa phương.

Tôi tin rằng nếu chúng tôi, chí ít, cứ kiên quyết đòi giảm bớt sự bất cân xứng về đại diện theo tỉ lệ thì chắc chắn là tốt hơn. Nhìn lại, tôi nghĩ tốt nhất là áp dụng hệ thống phiếu bầu theo khu vực bầu cử. Trong Hội đồng Lập hiến, hệ thống dựa trên khu vực bầu cử không được các lực lượng “tiến bộ” đánh giá cao. Họ nghĩ rằng nó sẽ củng cố quyền lực của các ông trùm chính trị ở địa phương. Chúng tôi đã không nhận thức được rằng cùng với việc di cư từ nông thôn vào đô thị, sẽ không còn cơ sở cho suy nghĩ như thế. Nếu phiếu bầu tính theo khu vực và tỉ lệ thuận với dân số, những người sống trong các khu trung tâm đô thị (nơi có hơn một phần ba dân cư và là nơi có nhiều người “tiến bộ” hơn) sẽ có nhiều đại diện hơn về chính trị. Hiện nay, hiến pháp cấm bỏ phiếu theo khu vực. Phiếu bầu phải theo tỉ lệ!

Hệ thống chính phủ

Hệ thống chính phủ cũng đã được thảo luận. Chế độ đại nghị đã được ủy ban thảo luận vấn đề này thông qua, nhưng phiên họp toàn thể của quốc hội đã bác bỏ phương án này. Chúng tôi quyết định rằng trưng cầu dân ý về hệ thống chính phủ sẽ được tổ chức trong vòng 5 năm tới. Năm 1993, PSDB ủng hộ chế độ đại nghị với hệ thống dựa trên khu vực hỗn hợp, tương tự như nước Đức. Nhưng chế độ tổng thống đã thắng khi cử tri đoàn được đề nghị biểu quyết về vấn đề này trong cuộc trưng cầu dân ý.

Trở lại với Hội đồng Lập hiến, chúng tôi đã tạo ra được công cụ mà hệ thống đại nghị của Italy gợi ý – những biện pháp tạm thời thay thế cho các nghị định của chế độ độc tài. Chúng tôi lo ngại về việc cung cấp cho bộ máy hành pháp công cụ hành động và không bị quốc hội ngăn chặn. Biện pháp sẽ có giá trị trong hệ thống đại nghị và được tạo ra với giả định rằng cuối cùng, hệ thống đại nghị sẽ được áp dụng. Nhưng không xảy ra chuyện đó, và các biện pháp tạm thời chấm dứt khi áp dụng hệ thống tổng thống. Điều này làm cho tổng thống có quyền quá lớn trong việc sắp xếp chương trình nghị sự và là một trong những yếu tố làm cho quốc hội yếu đi. Nếu quốc hội nắm những quyền đang có một cách nghiêm túc, thì quốc hội sẽ chủ động hơn hẳn. Trên thực tế, mỗi khi có người mong muốn thảo luận về trách nhiệm giải trình của các vị bộ trưởng thì đều có thảo luận, nhưng hầu hết các nhà lập pháp thích làm theo kiểu tôi ủng hộ anh thì anh ủng hộ tôi hơn là thực hiện vai trò giám sát của mình đối với nhánh hành pháp mà mình phụ trách.

Hiện nay, chế độ đại nghị sẽ rất khó quản lí. Trong hệ thống liên bang với các địa phương có nhiều quyền lực như thế, mà dân cư lại phân tán – với quá nhiều bất bình đẳng và quá nhiều lợi ích cạnh tranh với nhau – tổng thống thực chất là người môi giới quyền lực. Khi quyết định như thế, tổng thống Brazil giống như ông vua, có trách nhiệm duy trì đất nước không bị tan vỡ. Người ta bỏ phiếu cho phương án tổng thống, nó cho ông/bà ta sức mạnh mang tính biểu tượng và quyền lực trên thực tế. Tôi có thể nói rằng tổng thống Brazil có nhiều quyền lực hơn tổng thống Mỹ trong việc thiết lập chương trình nghị sự.

Cơ chế cải cách hiến pháp

Việc giao cho quốc hội quyền soạn thảo hiến pháp diễn ra như thế nào? Ông rút ra được những bài học nào từ kinh nghiệm đó?

Chủ tịch hạ viện, Ulysses Guimaraes, được bầu làm chủ tịch Hội đồng Lập hiến, và ông chỉ định tôi đưa ra những luật lệ xác định cách thức hoạt động của quốc hội. Rất khó thông qua luật lệ, vì các nhà lập pháp cho rằng luật lệ đó sẽ làm giảm quyền lực của họ. Thái độ giữ thế thượng phong của các nghị sĩ như thế làm tôi nhớ lại giai đoạn khi tôi làm giáo sư ở Pháp, năm 1968, khi người ta nói nhiều về “cấm những biện pháp cấm đoán”, đến mức người ta nghĩ là phải bắt đầu từ việc chấm dứt cấm đoán, hoàn toàn tự do. Một bản dự thảo sơ bộ đã bị bác bỏ, bản này được soản thảo bởi một nhóm nhân sĩ dưới quyền lãnh đạo của Afonso Arinos, một luật gia khả kính, sau khi làm chủ tịch ủy ban của chính phủ chuẩn bị dự thảo hiến pháp, đã được bầu làm thượng nghị sĩ đại diện cho thành phố Rio de Janeiro.

Chúng tôi theo mô hình Bồ Đào Nha. Chúng tôi lập ra tám ủy ban chuyên đề: các quyền và những biện pháp bảo đảm, tổ chức các nhánh của chính phủ và trật tự chính trị, trật tự kinh tế, trật tự xã hội và các quyền xã hội, v.v. Và 24 tiểu ban. Từ quan điềm chính thức, cách làm như thế quyết định mô hình hiến pháp. Mỗi đảng cử các thành viên của mình vào các ủy ban và các tiểu ban (tỉ lệ thuận với số ghế họ nắm trong cơ quan lập pháp). Ngoài ra, còn thành lập ủy ban hệ thống hóa để tổng hợp kiến ​​nghị của các ủy ban khác nhau. Thượng nghị sĩ Bernardo Cabral được bầu làm báo cáo viên tổng hợp về hiến pháp để củng cố những đề xuất đã được chuẩn bị kĩ lưỡng hơn. Ủy ban đó là linh hồn của bản hiến pháp mới. Họ nói rằng hiến pháp, với gần 250 điều, là dài. Và đúng là dài thật. Nhưng không được quên rằng, nếu được soạn thảo trên cơ sở tất cả các văn bản đã được các ủy ban và tiểu ban thông qua thì bản hiến pháp này phải có 2.000 điều. Ủy ban hệ thống hóa đã có những cố gắng phi thường mới biến được hàng trăm đề xuất thành hình thức hợp lý hơn.

Chúng tôi bầu một luật sư theo phái tự do và ủng hộ thể chế đại nghị, Thượng nghị sĩ Afonso Arinos de Mello Franco, làm chủ tịch ủy ban hệ thống hóa. Thượng nghị sĩ Jarbas Passarinho và tôi, cộng với hạ nghị sĩ của Rio de Janeiro, đã được bổ nhiệm làm phó chủ tịch điều hành chuyên trách. Đề nghị đầu tiên của báo cáo viên tổng hợp là ủng hộ chế độ đại nghị. Trong ủy ban hệ thống hóa, chúng tôi chọn phương án này và chế độ đại nghị thắng.

Cân bằng quyền lực

Chiến thắng đó đã làm cho cả nước bối rối vì Sarney không thích chế độ đại nghị. Có lúc người ta đã đề xuất nhiệm kỳ tổng thống ngắn hơn, chỉ kéo dài 5 năm, với điều kiện là tổng thống bổ nhiệm thủ tướng của chế độ đại nghị. Lãnh đạo đảng tôi lúc đó, Mário Covas, không chấp nhận đề xuất này, vì nó có thể làm cho chế độ đại nghị trở thành khả thi. Đáp lại, Sarney tổ chức và thành lập nhóm gọi là Centrão (Trung tâm rộng). Đây là nhóm bảo thủ nhất trong Hội đồng Lập hiến, và đấy là sự cáo chung của chế độ đại nghị. Hệ thống tổng thống cuối cùng đã được đem ra bỏ phiếu và đã được thông qua. Tuy nhiên, như tôi đã nói bên trên, các biện pháp tạm thời, khi kết hợp với chế độ tổng thống, tạo cho tổng thống quyền quyết định quá lớn.

Biện pháp này tạo điều kiện cho tổng thống – khi có vấn đề rất quan trọng hay khẩn cấp – đưa ra quyết định mà ông ta muốn trước khi quốc hội tuyên bố quan điểm của mình. Quốc hội dành ra 30 ngày để thành lập ủy ban nhằm đánh giá xem liệu các biện pháp tạm thời có phù hợp với các tiêu chí về cấp bách và thích đáng hay không. Nhưng, không có ủy ban nào được thành lập để đánh giá hàng trăm biện pháp tạm thời được nhánh hành pháp gửi tới. Cuối giai đoạn tôi làm tổng thống, quốc hội tìm cách hạn chế việc tái ban hành những biện pháp tạm thời (ví dụ, biện pháp tạm thời chính để thực hiện Real Plan đã được tái ban hành suốt mấy năm, trước khi nó được cơ quan lập pháp thông qua). Đã có quyết định là biện pháp tạm thời này sẽ có hiệu lực tối đa là 60 ngày, và vì chương trình nghị sự của quốc hội sẽ bị chặn lại cho đến khi những biện pháp tạm thời “còn treo” được đem ra bỏ phiếu. Nhưng đáng lẽ phải tăng tính chủ động của quốc hội, thì sự thay đổi này lại làm gia tăng quyền lực của hành pháp trong qúa trình thiết lập chương trình nghị sự. Như vậy là, trên thực tế, tổng thống nước cộng hòa là người lập pháp. Đến mức mà hiện nay Tòa án Tối cao đã buộc quốc hội thành lập các ủy ban, với nhiệm vụ là bỏ phiếu cho phép tiếp tục các biện pháp tạm thời.

Đối trọng hiệu quả với hành pháp là ngành tư pháp và Bộ Công cộng (Ministerio Publico) [cơ quan của các ủy viên công tố, hoạt động cả ở cấp bang lẫn liên bang], cả hai đều đã được củng cố bởi các điều khoản trong hiến pháp 1988. Tòa án Tối cao, trên thực tế, đã trở thành toà bảo hiến; chứ không chỉ thụ động trong việc tái thẩm theo hiến pháp. Nó có quyền buộc quốc hội đưa ra quyết định khi cho rằng cơ quan này chần chừ chưa quyết định, thực ra là ngăn chặn việc thực thi các điều khoản của hiến pháp. Ngoài ra, hiến pháp còn cho Bộ Công cộng được hoàn toàn tự chủ. Các thành viên của bộ này có trách nhiệm bảo vệ việc truyền bá các quyền của xã hội. Họ có thể điều tra và luận tội thống đốc, tổng thống, hay bộ trưởng và đưa họ ra trước ngành tư pháp để trả lời các cáo buộc. Và họ làm như vậy một cách độc lập với hành pháp, thế là tốt, và có hiệu quả. Ban đầu, cơ quan này bị chính trị hóa quá mức. Trên thực tế, đấy là một chi nhánh của PT, lúc đó nằm bên phe đối lập. Nhưng, trong những năm gần đây Bộ Công cộng đã tiến hóa rồi. Đấy là thành phần quan trọng của hệ thống đối trọng và cân bằng, cần phải như thế vì ở Brazil quyền lực của hành pháp là cực kì to lớn.

Chúng tôi có hệ thống phức tạp, cho tổng thống quyền hành khá lớn, trong khi lại tạo được những cơ chế khác, buộc chính trị phải bị ngành tư pháp kiểm soát chặt chẽ. Quốc hội thông qua một đạo luật, nhưng đạo luật này có thể vô hiệu, vì một người nào đó có thể kháng cáo lên tòa án, nói rằng đạo luật mới mâu thuẫn với hiến pháp. Toàn bộ hệ thống ra quyết định là rất cồng kềnh.

Hoàn cảnh kinh tế

Tình hình kinh tế có vai trò gì trong quá trình chuyển hóa của Brazil? Nó giúp huy động xã hội đến mức độ nào? Nó làm suy yếu chính phủ quân sự đến mức độ nào? Nó có tạo ra rủi ro cho quá trình chuyển hóa không?

Ban đầu, các tổ chức trong khu vực tư nhân tung ra lời kêu gọi ủng hộ đảo chính. Năm 1964, tống thống quân sự đầu tiên, tướng Castelo Branco, đã tiến hành cuộc cải cách kinh tế lớn nhằm thúc đẩy giai đoạn tăng trưởng mới: lạm phát giảm, hệ thống thuế khóa được sắp xếp một cách hợp lí, và các cơ chế mới đã được đặt ra để cung cấp tài chính cho chính phủ và các doanh nghiệp của chính phủ. Kết quả đơm hoa kết trái trong chính phủ quân sự thứ hai, từ năm 1968 đến 1973, khi xảy ra cái gọi là phép màu kinh tế. Tăng trưởng thật là ngoạn mục, nhưng lợi ích lại tập trung một cách không cân xứng vào tay giai cấp hữu sản và trung lưu.

Khởi đầu của việc nới lỏng căng thẳng của chế độ này lại xảy ra đúng vào lúc phép màu kinh tế cáo chung. Cuộc khủng hoảng dầu mỏ đầu tiên [năm 1973] giáng cho Brazil một đòn rất nặng vì chúng tôi nhập khẩu hầu như toàn bộ số dầu mà chúng tôi tiêu thụ. Mặc dù vậy, kinh tế tiếp tục tăng trưởng, vì chính phủ quyết định vay nước ngoài, tận dụng lợi thế của số tiền gọi là dollar-dầu khí hiện đang sẵn, và tiến hành một chương trình đầu tư đầy tham vọng. Chương trình này tạo ra phản ứng tiêu cực lớn đầu tiên của giới kinh doanh đối với chế độ. Khu vực tự do hơn nghĩ rằng chính phủ – lúc đó đang nằm dưới quyền tướng/tổng thống Ernesto Geisel – đã trở nên quá tập quyền. Một số người ngày càng xích lại gần hơn với phe đối lập. Họ không thích sự kết hợp giữa siêu tập quyền về kinh tế với chế độ độc tài về chính trị. Trong giai đoạn tăng trưởng này, lạm pháp do nợ nước ngoài tăng tốc. Sức mua của tiền lương giảm, thổi làn gió mới vào phong trào công đoàn và được thể hiện trong kết quả những cuộc bầu cử quốc hội năm 1974 và 1978 – ủng hộ các đảng đối lập.

Tình hình kinh tế chuyển sang giai đoạn mới với cú sốc dầu mỏ thứ hai và lãi suất tăng đột ngột vào năm 1979. Lạm phát vọt lên hơn 100% một năm, và tốc độ tăng trưởng giảm đáng kể. Năm 1981, lần đầu tiên, kể từ giữa những năm 1960, Brazil rơi vào tình trạng suy thoái, thúc đẩy các chiến dịch của các đảng phái nhằm chống lại thống đốc các bang. Những cuộc đấu tranh vì dân chủ và thúc đầy tăng trưởng kinh tế và nâng lương đã bắt đầu liên kết với nhau. Năm 1982, Brazil đề nghị Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF) giúp đỡ nước này vì không thể trả được tiền lãi các khoản nợ nước ngoài. Các khoản giúp đỡ của IMF đã buộc chính phủ phải trả giá đắt về chính trị. Tôi nhớ rằng chúng tôi không phê chuẩn nghị định về cắt giảm tiền lương do IMF áp đặt và được bên hành pháp gửi tới quốc hội. Một thượng nghị sĩ đối lập và tôi vừa tạo áp lực vừa thuyết phục chủ tịch thượng viện, Nilo Coelho, thành viên đảng ủng hộ chính phủ, thông qua quyết định của hạ viện là bỏ phiếu chống lại nghị định đó. Đây là đòn quyết định. Một tuần sau, chủ tịch thượng viện bị một cơn đau tim nặng; tình hình chính trị kịch tính đến mức ông phải trả giá bằng chính mạng sống của mình.

Sau năm 1982, rõ ràng là chế độ đã đánh mất nguồn lực chính của tính chính danh: Phát triển kinh tế. Giới kinh doanh không còn sợ lực lượng cánh tả vũ trang nữa; lực lượng này đã bị kiềm chế và đánh bại trong giai đoạn từ năm 1968 đến năm 1976 rồi. Nếu một mặt, người ta không sợ rối loạn và mặt khác, không có triển vọng phát triển, thì giới doanh nhân đã sẵn sàng đặt cược vào sự cáo chung chế độ quân sự. Tuy nhiên, trừ những người có tư tưởng tự do hơn và táo bạo hơn, nói chung, các nhà lãnh đạo trong lĩnh vực kinh doanh là những người chậm trễ.

Lúc đầu, nhiều chính phủ dân chủ mới đã phải đối mặt với những khó khăn kinh tế nghiêm trọng. Lạm phát lại vọt lên một lần nữa, làm cho mọi người nghĩ rằng dân chủ không có giá trị gì trong việc cải thiện nền kinh tế. Chuyện đó có xảy ra không?

Có và không. Thật vậy, dân chủ đã không cải thiện được tình hình kinh tế. Ngược lại, lạm phát tiếp tục tăng, chỉ tạm thời gián đoạn do những kế hoạch bình ổn kế tiếp nhau, tất cả các kế hoạch đó đều không thể kiểm soát được lạm phát. Tuy nhiên, chính trị tiếp tục sinh ra những chương trình nghị sự mới và những niềm hi vọng mới, cùng với Hội đồng Lập hiến, trở về với các cuộc bầu cử trực tiếp tổng thống và quá trình luận tội vị tổng thống dân cử đầu tiên.

Lạm phát thật khủng khiếp, nhưng nó không đình chỉ hoàn toàn nền kinh tế hay xã hội. Brazil đã có những kinh nghiệm có một không hai về kiểm soát lạm phát phi mã, có thể nói như thế. Chúng tôi đã lập “chỉ mục” tài sản [tài sản và tiền lương đã được điều chỉnh] bằng cách điều chỉnh các khoản tiền gửi và các khoản nợ dựa trên chỉ số lạm phát chính thức. “Lập chỉ mục phi mã” (hyperindexing) nền kinh tế giúp tạo ra một mức độ “bình thường” nào đó, mặc dù không ổn định, dẫu có làm cho tăng trưởng trở nên khó khăn và thụt lùi về mặt phân phối. Hiểu được cái sự “bình thường kì quặc” của tình hình xã hội và kinh tế – và khả năng khắc phục nó – là yếu tố cần thiết để xây dựng Real Plan.

Huy động xã hội

Các phong trào xã hội – các cộng đồng Công giáo, các luật sư, công nhân, các nhà lãnh đạo doanh nghiệp, phụ nữ – có quan hệ như thế nào với các đảng phái chính trị thực hiện quá trình chuyển hóa? Và đã xảy ra chuyện gì sau khi chuyển sang cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp? Các tổ chức xã hội có suy yếu đi?

Trong quá trình chuyển hóa, toàn bộ xã hội dân sự hoạt động rất tích cực, và các đảng tìm cách tiếp xúc với tất cả các nhóm. Sau đó, các đảng đã tìm cách kiểm soát các nhóm này. Đảng PT đã làm như thế, và họ kiểm soát các phong trào chặt chẽ đến mức giết chết các phong trào đó. Nhiều nhóm xã hội dân sự đã trở nên lệ thuộc vào dự án chính trị của đảng, trở thành một phần của bộ máy đảng và quan liêu hóa. Khi đảng PT giành thắng lợi trong cuộc bầu cử tổng thống, họ thu được nhiều nguồn lực xã hội hơn, nhưng cái giá phải trả là các phong trào này bị mất quyền tự chủ. Một số các tổ chức đã trở thành gần như là tổ chức của nhà nước. Phong trào Phong trào Công nhân không có đất (Movimento dos Trabalhadores sem Terra) trở nên cấp tiến hơn, phần nào là một ngoại lệ.

Công đoàn không còn khả năng động viên quần chúng, đặc biệt là trong khu vực tư nhân – một phần vì cơ cấu, và một phần vì họ đã bị nhà nước nuốt gọn. Lula có điều kiện tăng cường quyền tự chủ của công đoàn trước sức mạnh của nhà nước. Khi ông nổi lên như một nhà lãnh đạo công đoàn, khẩu hiệu chính của ông là bãi bỏ khoản thuế công đoàn bắt buộc và quy định buộc công đoàn phải được nhà nước công nhận thì mới có thể tồn tại một cách chính thức. Khi trở thành tổng thống, ông vẫn giữ khoản thuế công đoàn bắt buộc, và dành một phần của khoản thu này làm ngân sách cho các liên hiệp công đoàn, và biến Bộ lao động thành công cụ gặt hái sự ủng hộ về chính trị qua việc công nhận những tổ chức công đoàn mới.

Phong trào phụ nữ có vai trò gì trong quá trình chuyển đổi hay không?

Có, phụ nữ có vai trò quan trọng, chủ yếu là trong các chiến dịch đòi ân xá và bầu cử trực tiếp. Nhiều nghệ sĩ và trí thức là phụ nữ tham gia. Nhưng có ít phụ nữ trong các đảng chính trị và tổ chức công đoàn trong khu vực tư nhân. Các công đoàn công nhân công nghiệp chủ yếu là đàn ông.

Hiện nay, các đảng đều tìm cách phản ánh tốt hơn vai trò của phụ nữ trong xã hội. Ngày càng có nhiều chủ hộ gia đình là phụ nữ và số phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động đã và đang gia tăng đáng kể. Luật pháp đòi hỏi rằng các đảng chính trị phải có tỉ lệ tối thiểu phụ nữ trong danh sách các ứng cử viên đại biểu quốc hội.

Tuy nhiên, chính sách và pháp luật thay đổi chậm, chậm hơn rất nhiều so với những thay đổi trong xã hội. Tổng thống Rousseff có thể đẩy nhanh quá trình thay đổi bằng tấm gương của chính mình và vì bà đã bổ nhiệm nhiều phụ nữ vào các chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước.

Những cuộc chuyển hóa trong giai đoạn hiện nay

Ông thấy xu hướng dân chủ hóa hiện nay, trong thế giới Ả Rập và các những khu vực khác như thế nào? Các công nghệ truyền thông mới có ảnh hưởng như thế nào? Ông thấy các động lực chủ yếu đang tác động tới các cuộc chuyển hóa hiện nay như thế nào? Và nhìn về tương lai, đâu là những bài học hữu ích?

Các công nghệ mới tạo điều kiện cho người ta tự thể hiện. Vấn đề là người ta có thể dễ dàng huy động nó để phá hủy, nhưng để xây dựng lại thì khó hơn nhiều. Các công nghệ mới, tự bản thân chúng, chưa phải là điều kiện đủ để đi những bước tiếp theo. Cần phải có các thiết chế, cùng với khả năng hiểu biết, xử lý, và lãnh đạo, việc này phải duy trì thường xuyên. Chưa rõ muốn xây dựng một cái gì đó mới mẻ thì phải sử dụng công nghệ mới như thế nào. Khi đất nước bế quan tỏa cảng và nằm dưới chế độ độc tài, lại gặp nhiều khó khăn về kinh tế, thì dễ dàng huy động quần chúng. Với chúng tôi, truyền hình là cốt tử. Khi kênh truyền hình Globo bắt đầu phát sóng chương trình động viên quần chúng đòi bầu cử trực tiếp, thì tất cả mọi thứ đều thay đổi. Bây giờ không cần truyền hình nữa; Internet hiện nay làm cho việc huy động trở nên dễ dàng hơn. Nhưng sau đó phải làm gì?

Đây là thời điểm phức tạp, vì chúng ta đang chứng kiến cuộc khủng hoảng lớn trong hệ thống tư bản chủ nghĩa dân chủ, với chiều sâu và quá trình phục hồi khác nhau. Người ta mê mô hình Trung Quốc, đó là chế độ độc tài. Trung Quốc, tổng thống Chavez, v.v., tất cả đều là đại diện cho trường phái cho rằng nhà nước phải quản lí tất. Tổng thống Chavez không phải là hệ thống độc đảng, nhưng ông ta rất muốn chỉ có một đảng. Do đó, không có mô hình duy nhất. Có những người nghĩ rằng chế độ tư sản phương Tây đến lúc sụp đổ rồi. Tôi không nghĩ như thế, không chỉ vì tôi đánh giá cao chủ nghĩa tự do chính trị, mà còn vì tôi tin rằng sự phục hồi kinh tế là kết quả của quá trình mở cửa để đón các nguồn đầu tư mới, công nghệ mới và cách tân. Tôi tin rằng hiện nay, Mỹ có nhiều tiềm năng sang tạo và đổi mới hơn hẳn châu Âu hay Trung Quốc. Nhưng, trước khi nền kinh tế khởi sắc, các chính phủ độc tài đang giành được mức độ tin cậy nào đó.

Ở Brazil có sự thụt lùi nhất định về hướng tập quyền hơn, ít tin tưởng xã hội dân sự hơn, tin tưởng vào nhà nước nhiều hơn. Quản lí bao giờ cũng cần, nhưng có khi nó trở thành can thiệp chính trị, thế thì có hại. Argentina là trường hợp điển hình.

Tôi không nghĩ rằng rao giảng về dân chủ là đủ. Có lẽ vấn đề lớn là công lí và bình đẳng. Sẽ đến lúc, khi khoảng cách giữa các chính trị gia có chức có quyền và nhân dân trở nên quá lớn, lúc đó sẽ xảy ra bất ổn toàn diện. Tình hình còn tồi tệ hơn nếu có những khác biệt về văn hóa và dân tộc. Ở Brazil, chúng tôi đã có thể giảm đáng kể tình trạng đói nghèo và bất bình đẳng cũng giảm ở mức độ nào. Ở một số nước không có gì thay đổi, và khó có thể thúc đẩy dân chủ mà không tôn trọng những người khác hơn nữa, không tôn trọng quyền công dân và quyền bình đẳng hơn nữa.

Theo cách nhìn này, tình hình ở châu Phi khá rắc rối. Mặc dù châu lục này đang cải thiện rất nhiều về kinh tế, nhưng trong những lĩnh vực khác thì còn nhiều việc phải làm. Những việc đang xảy ra ở Nam Phi làm tôi sợ vì nạn phân biệt đối xử với người da đen, tham nhũng khủng khiếp, và bộ tộc chủ nghĩa. Mandela là ngoại lệ vì ông có khả năng lãnh đạo nhân dân, và có thể tạo ra hệ thống tôn trọng quyền của người thiểu số da trắng, mặc dù thiểu số đó đã bị mất quyền.

Con đường dẫn tới tiến bộ và dân chủ chưa được khai sáng. Thoát khỏi chế độ độc tài dễ hơn là thiết lập nền văn hóa và thực hành dân chủ đích thực.

Những nguyên tắc nền tảng

Nếu, ví dụ, một người Nga nào đó muốn thúc đẩy dân chủ và đến nói chuyện với ông. Người đó nói: “Có nhiều người Nga chúng tôi người thực sự tin tưởng chắc chắn vào các tư tưởng  dân chủ tự do, với hi vọng có một tương lai tốt đẹp hơn; ông sẽ cho chúng tôi lời khuyên nào để chúng tôi có thể cải thiện cơ hội để làm được những việc mà các vị đã làm được ở Brazil?”, ông sẽ nói gì với họ?

Cần phải kiên nhẫn và nhận thức được rằng thay đổi diễn ra từng bước một, vì phải có thời gian để cho dân chủ đứng vững và thị trường trở nên hoàn thiện hơn. Vấn đề là ở Nga, kinh tế tăng trưởng đi cùng với nạn độc quyền và nhóm lợi ích, và càng về sau, tình hình có thể càng xấu đi. Khó có thể tiên đoán bước đi của lịch sử; nhìn nó hiện nay, người ta có cảm tưởng rằng tất cả các cánh cửa đều đóng sập lại rồi, nhưng chúng ta phải nhớ lại rằng người Liên Xô vẫn hi vọng rằng tình hình có thể tốt hơn. Ai có thể tưởng tượng được những sự kiện diễn ra trong thế giới Ả Rập thời gian gần đây?

Về nước Nga, tôi không nghĩ rằng không nên ảo tưởng rằng cả thế giới sẽ trở thành dân chủ tự do. Sai lầm của Bush là tiến về phía trước khi phải dừng lại, khi cần phải ngăn chặn hơn là tìm cách thúc đẩy. Đấy không phải là lúc thúc đẩy sự nghiệp dân chủ tự do, mà là bảo vệ nó.

Với sự đa dạng quá lớn trong những quá trình chuyển hóa khác nhau và những tính cách cá nhân khác nhau tham gia vào quá trình đó, ông cho rằng có thể rút ra được những bài học nào từ những vụ chuyển hóa trước đây, ý là những bài học có liên quan với hiện tại và tương lai?

Tại Brazil, thay đổi đã không xảy ra một cách đột ngột. Không có D-Day (ngày phán quyết – ND), mà là một quá trình. Nó là cuộc chuyển hóa theo thỏa thuận, không có thỏa thuận chính thức, mà bằng đàm phán. Chúng tôi đã tiến hành đấu tranh chính trị và đàm phán, chúng tôi hiện diện trong xã hội và trong cơ chế chính trị, đối đầu với chế độ và xích lại gần những khối bất mãn với chế độ. Chúng tôi bắt đầu như mặt trận đối lập duy nhất. Trên đường đi, mặt trận bị chia rẽ, kết thúc bằng nền chính trị lưỡng đảng. Chúng tôi có thể hội tụ xung quanh những mục tiêu chính, mặc dù sự đa dạng về quan điểm và quyền lợi của các đảng đối lập khác nhau đang ngày càng gia tăng. Bằng cách đó, nền văn hóa đàm phán và đối thoại được củng cố, đấy có thể coi là một khía cạnh của chế độ dân chủ Brazil. Nhưng nó có thể bị thoái hóa thành hấp thụ lẫn nhau và dàn xếp quyền lợi, làm suy yếu nền chính trị dân chủ, làm nản lòng các công dân, và đe dọa khả năng của nhà nước trong việc tham gia vào những hoạt động trên bình diện cả nước. Cách thức chuyển hóa quyết định nền quản trị dân chủ, có thể tốt hơn mà cũng có thể xấu hơn.

Ảnh hưởng quốc tế

Các nhân tố quốc tế có ảnh hưởng như thế nào tới quá trình chuyển hóa ở Brazil?

Ban đầu, Tây Ban Nha là nguồn tham khảo chính. Sau đó là Chile, đúng lúc cần củng cố nền quản trị dân chủ. Chúng tôi đã quan sát những sự kiện xảy ra với Concertación (Concertación là liên minh các đảng trung tả ở Chile , hình thành năm 1988, xem phần sau – ND) ở nước này. Ở Brazil, chúng tôi không có liên minh rộng rãi, duy nhất như Concertación, nhưng đảng PT và đảng PSDB nhận ra, dưới chính quyền của tôi, rằng cả hai đều là một phần của một quá trình dân chủ hóa và hiện đại hóa duy nhất, mặc dù họ có thể đấu tranh rất nhiều với nhau. Ai đã xuất hiện như những hiện tượng mới sau khi chế độ độc tài sụp đổ? Lula và tôi. Đảng của chúng tôi đã chiến đấu để giành cái gì đó rất đơn giản: Một trong hai người, ai sẽ nắm quyền. Đây là cuộc đấu tranh chính trị; nó diễn ra xoay quanh câu hỏi: Ai sẽ kiểm soát nhánh hành pháp?

Các đảng đã đấu tranh với nhau về con đường cần phải theo – cách thức đối phó với toàn cầu hóa và hiện đại hóa Brazil một cách tốt nhất?

Có, ở mức độ nhất định. Có một số khác biệt, ví dụ, đảng PT có quan điểm lấy nhà nước làm trung tâm và đảng là trung tâm. Chúng tôi, trong đảng PSDB, đa nguyên hơn và ít tôn ti trật tự hơn. Nhưng, trong cả hai đảng đều có khuynh hướng dân chủ xã hội khá mạnh mẽ. Cũng như đối với những vấn đề kinh tế vĩ mô, không có khác biệt căn bản. Họ cáo buộc chúng tôi là những người tân-tự do, nhưng chúng tôi không bao giờ là tân-tự do hết; chúng tôi cáo buộc họ là những người theo chủ nghĩa Stalin, mặc dù họ chưa bao giờ là những người như thế.

Thật là xấu hổ khi Lula để cho mình bị nền văn hóa chính trị truyền thống của Brazil lôi cuốn đi. Ông dễ ngả nghiêng theo các xu hướng chính trị. Tôi, xuất thân từ khung cảnh truyền thống, đã cố gắng nhằm thay đổi văn hóa chính trị. Khi tôi rời chính phủ, các nhóm chính trị đầu sỏ đã yếu đi; Sarney và Antonio Carlos Magalhaes đã yếu đi và trước đó họ đã chiến đấu với tôi. Lula đưa họ trở lại chính trường và khi nhiệm kỳ thứ hai của ông kết thúc, ông đã đi Sao Paulo trên cùng một máy bay với Sarney, mà Sarney từng là biểu tượng của nền chính trị đầu sỏ. Có sự thụt lùi trong nhiệm kì tổng thống của ông này, là theo nghĩa đó. Nhưng chế độ dân chủ ở Brazil thì vẫn còn, nó sẽ không quay trở lại chế độ độc tài.

Những mốc chính

Tháng 3 năm 1964: Trong khi đang diễn ra các cuộc biểu tình quần chúng và lạm phát cao, Tổng thống Joao Goulart công bố “cải cách cơ bản” về tái phân phối làm cho các phe phái chính trị bảo thủ – trong đó có nhiều quân nhân – nổi giận. Đáp lại, quân đội làm đảo chính chống lại Goulart vào ngày 31 tháng 3.

Tháng 10 năm 1965: Quân đội tổ chức bầu cử thống đốc bang nhưng thực hiện kém hơn so với dự kiến. Những quân nhân theo đường lối cứng rắn cấm các đảng phái đang hiện diện vào thời điểm đó và thành lập Phong trào Dân chủ Brazil (MDB), như là đảng đối lập hợp pháp duy nhất.

Tháng 3 năm 1967: Tướng Artur da Costa e Silva, theo đường lối cứng rắn, được cơ quan lập pháp mà giới quân nhân chiếm ưu thế – với sự giúp đỡ của đảng bán chính thức có tên là National Renewal Alliance Party (ARENA) – bầu làm tổng thống. Ông này sau đó được thay thế bằng một người cứng rắn khác, tướng Emilio Garrastazu Medici. Đàn áp đạt cực điểm dưới thời hai nhà lãnh đạo này.

Tháng 12 năm 1968: Chính phủ quân sự ban hành luật gọi là  AI-5, cho Tổng thống quyền lực buộc các cơ quan lập pháp cấp quốc gia và cấp bang nghỉ họp, để nắm quyền lập pháp, quyền kiểm duyệt báo chí, và đình chỉ habeas corpus (lệnh buộc phải đem người bị bắt ra toà để xem nhà nước có quyền giam giữ người ấy hay không) đối với những tội “có động cơ chính trị”.

Tháng 3 năm 1974: Cơ quan lập pháp bầu tướng Ernesto Geisel, một người ôn hòa, làm tổng thống. Ông tuyên bố distensão (tự do hóa chính trị hạn chế).

Tháng 11 năm 1974: Nhờ vận động về các vấn đề kinh tế, đảng MDB giành 16 trong số 22 ghế được đem ra tranh cử ở thượng viện, giành 44% ghế trong hạ viện, và thêm 5 cơ quan lập pháp bang. Điều này chứng thực cho quyết định tham gia cuộc bầu cử từng gây tranh cãi của họ.

Tháng 10 năm 1975: Nhà báo Vladimir Herzog chết trong nhà giam quân đội, sau khi bị tra tấn. Các nhà lãnh đạo tôn giáo tổ chức tang lễ chung, rồi biến thành cuộc biểu tình đầu tiên với tinh thần chống chế độ quân sự. Geisel hạ lệnh giảm bớt đàn áp và cho viên tướng chịu trách nhiệm trước cái chết của Herzog thôi việc.

Tháng 4 năm 1977: Chính phủ kích hoạt chính sách gọi là “April paskage” (Gói tháng tư), chấm dứt cuộc bầu cử trực tiếp một phần ba ghế trong thượng viện, hạn chế đối lập tiếp cận với các phương tiện truyền thông trước khi bầu cử diễn ra, và đưa thêm dại diện của các bang có tinh thần ủng hộ chính phủ mạnh mẽ vào quốc hội.

Tháng 5 năm 1978: Phong trào lao động có tên là Novo Sindicalismo, Luiz Inacio (Lula) da Silva nằm trong ban lãnh dạo, tổ chức cuộc đình công lớn nhằm thách thức chế độ và hệ thống lao động.

Tháng 11 năm 1978: Cuộc bầu cử Quốc hội được tổ chức. Phe đối lập thắng phiếu phổ thông trong thượng viện, nhưng không giành được quyền kiểm soát cả thượng lẫn hạ viện vì “April paskage”.

Tháng 3 năm 1979: Tướng Joao Figueiredo, một người ôn hòa, được cử tri đoàn do quân đội chiếm ưu thế bổ nhiệm là tổng thống. Nhà bất đồng chính kiến, tướng Euller Bentes Monteiro vận động chống lại Figueiredo, cho thấy sự rạn nứt bên trong quân đội. Sau khi nhậm chức,

Figueiredo liền thúc đẩy chính sách abertura (mở cửa).

Tháng 8 năm 1979: Figueiredo tuyên bố lệnh ân xá, kể cả những tội ác do quân đội gây ra. Các lãnh đạo đối lập phải sống lưu vong bắt đầu trở về nước.

Tháng 11 năm 1979: Chính phủ chấm dứt hệ thống bầu cử lưỡng đảng, cho phép tất cả các đảng cạnh tranh với nhau. MDB đổi tên thành Đảng Phong trào Dân chủ Brazil (PMDB), và ARENA trở thành Đảng Dân chủ Xã hội (PDS). Các đảng mới xuất hiện, trong đó có Đảng Công nhân (PT) cánh tả do Lula và những người khác từ phong trào Novo Sindicalismo chuyển sang.

Tháng 12 năm 1980: Một nhóm khá đông nông dân không mảnh đất cắm dùi chiếm và đòi tái phân phối đất nông nghiệp. Đây là mầm mống của Phong trào Nông dân Không có Ruộng, phong trào sau đó đã hợp nhất thành đoàn thể và phát triển nhanh chóng trong hai thập kỉ tới.

Tháng 8 năm 1982: Cuộc khủng hoảng ngân hàng Mexico lan tới Brazil, gây thiệt hại nặng nề cho nền kinh tế, làm cho xã hội nổi giận và gây ra nạn lạm phát mà nhiều nhiệm kỳ chính phủ kế tiếp nhau phải vật lộn nhằm kiểm soát.

Tháng 11 năm 1982: Tổng tuyển cử, phe đối lập giành được đa số phiếu phổ thông ở hạ viện và chính quyền các bang quan trọng nhất, buộc chế độ phải thương lượng về lập pháp. Phe đối lập không giành được quyền kiểm soát thượng viện hay cử tri đoàn.

Tháng 1 năm 1984: Phong trào Diretas Já (Bầu cử trực tiếp ngay bây giờ) vận động cho cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp, tổ chức cuộc những biểu tình kéo dài suốt năm đó và thường được các vị thống đốc đối lập ủng hộ. Tu chính hiến pháp cho việc tiến hành những cuộc bầu cử trực tiếp không giành được đa số cần thiết trong quốc hội.

Tháng 1 năm 1985: Một phái trong đảng PDS li khai ngay trong cuộc bầu cử gián tiếp tổng thống và lập ra Đảng Mặt trận Tự do (PFL), và liên minh với đảng PMDB để bầu nhà lãnh đạo phong trào Diretas Já và chính trị gia được mọi người kính trọng, xuất thân từ bang Minas Gerais, ông Tancredo Neves làm tổng thống và Jose Sarney của PFL làm phó tổng thống.

Tháng 3 năm 1985: Neves ốm nặng ngay trước lễ nhậm chức. Sarney tuyên thệ nhậm chức quyền tổng thống và trở thành tổng thống khi Neves chết ngay sau đó.

Tháng 5 năm 1985: Quốc hội thông qua luật bầu cử tổng thống trực tiếp, mở rộng quyền bầu cử cho những công dân mù chữ và nới lỏng thủ tục đăng kí cho các đảng chính trị.

Tháng 11 năm 1986: Bầu cử cả hai viện quốc hội, hai viện ngồi lại với nhau để tạo thành lập Hội đồng lập hiến. Đảng PMDB giành được đa số ghế.

Tháng 10 năm 1988: Hội đồng Lập hiến, với Thượng nghị sĩ Fernando Henrique Cardoso, xuất thân từ Sao Paulo làm báo cáo viên, ban hành hiến pháp mới sau hơn một năm thảo luận. Bản hiến pháp này mở rộng các quyền chính trị và xã hội, phân cấp quyền lực, hạn chế vai trò của quân đội trong lĩnh vực an ninh nội bộ, lập ra những tòa án có nhiều thẩm quyền và tiếp tục theo chế độ tổng thống.

Tháng 12 năm 1989: Fernando Collor de Mello, thống đốc một bang nhỏ được giới kinh doanh và các phương tiện truyền thông đại chúng ủng hộ, đánh bại Lula của đảng PT trong cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp. Collor de Mello tung ra chính sách kiềm chế lạm phát, nhưng thu được rất ít thành công.

Tháng 12 năm 1992: Collor de Mello từ chức, nếu không có thể phải đối mặt với vụ luận tội vì nghi ngờ tham nhũng trong chính quyền của ông. Phó tổng thống Itamar Franco lên thay.

Tháng 4 năm 1993: Tiến hành trưng cầu dân ý, cử tri ủng hộ tiếp tục duy trì chế độ tổng thống chứ không áp dụng chế độ đại nghị.

Tháng 12 năm 1993: Franco và Bộ trưởng tài chính, Fernando Henrique Cardoso tung ra kế hoạch gọi là Real Plan, chính sách kinh tế vĩ mô mới, thu được thành công trong việc kiềm chế lạm phát.

Tháng 10 năm 1994: Cardoso được bầu làm tổng thống, được Franco ủng hộ, giành được 54% phiếu bầu và đánh bại Lula thuộc đảng PT, ông này chỉ nhận được 27% phiếu bầu.

Tháng 12 năm 1995: Cardoso kí đạo luật thừa nhận vai trò của chính phủ trong những vụ chết người hồi chế độ quân sự và thành lập ủy ban đặc biệt điều tra những vụ giết người và mất tích vì lí do chính trị để bồi thường cho các gia đình nạn nhân.

Tháng 6 năm 1997: Quốc hội hội thông qua tu chính hiến pháp, cho phép tổng thống tái tranh cử. Cardoso kiên trì vận động quốc hội ban hành tu chính này.

Tháng 10 năm 1998: Cardoso tái đắc cử với 53% số phiếu bầu. Lula, đối thủ chính của ông chỉ được 32% phiếu bầu.

Tháng 7 năm 1999: Cardoso thành lập bộ quốc phòng hợp nhất nằm dưới quyền kiểm soát của quan chức dân sự, bãi bỏ các bộ do giới quân sự kiểm soát.

Tháng 4 năm 2001: Chính phủ liên bang chấp nhận chương trình Bolsa Escola, chương trình phúc lợi xã hội được nhiều người ca ngợi, chương trình này cung cấp cho các gia đình nghèo tiền để họ có thể cho con đi học.

Tháng 10 năm 2002: Tiến hành bầu cử tổng thống, Lula đánh bại ứng cử viên được Cardoso ủng hộ và thu được 61% phiếu bầu. Trong khi tiến hành chiến dịch vận động, Lula đã làm dịu bớt một số quan điểm trước đó, ví dụ, kế hoạch áp đặt các điều kiện về thanh toán những khoản nợ nước ngoài.

Đọc thêm

Cardoso, Fernando Henrique. “Entrepreneurs and the Transition Process: The Brazilian Case.” In Transitions from Authoritarian Rule: Comparative Perspectives, edited by Guillermo O’Donnell, Philippe Schmitter, and Laurence Whitehead. Baltimore, Md.: Johns Hopkins University Press, 1986.

———. A Arte da Politica: A História que Vivi [The art of politics: The history that I lived]. Rio de Janeiro: Civilizacao Brasileira, 2006.

———. “Reconciling the Brazilian Military with Democracy: The Power of Alfred Stepan’s

Ideas.” In Problems Confronting Contemporary Democracy: Essays in Honor of Alfred Stepan, edited by Douglas Chalmers and Scott Mainwaring. Notre Dame, Ind.: University of Notre Dame Press, 2012.

Cardoso, Fernando Henrique, and Brian Winter. The Accidental President of Brazil: A Memoir. New York: Public Aff airs, 2006.

D’Incao, Maria Angela, and Herminio Martins, eds. Democracia, Crise, e Reforma: Estudos Sobre a Era Fernando Henrique Cardoso [Democracy, crisis, and reform: Studies on the age of Fernando Henrique Cardoso]. Sao Paolo: Paz e Terra, 2009. See especially chapters by Hurrell and Whitehead.

Fishlow, Albert. Starting Over: Brazil since 1985. Washington, D.C.: Brookings Institution Press, 2011.

Gaspari, Elio. A Ditadura Derrotada [A dictatorship defeated]. Sao Paolo: Companhia das Letras, 2004. Fourth volume in an authoritative history of military regime, covering distensão and abertura.

Hagopian, Frances. Traditional Politics and Regime Change in Brazil. Cambridge: Cambridge University Press, 1996.

Hunter, Wendy. Eroding Military Infl uence in Brazil. Chapel Hill: University of North Carolina Press, 1997.

———. The Transformation of the Workers’ Party in Brazil, 1989–2009. New York: Cambridge University Press, 2010.

Hurrell, Andrew. “The International Dimension of Democratization in Latin America: The Case of Brazil.” In The International Dimensions of Democratization: Europe and the Americas, edited by Laurence Whitehead. Oxford: Oxford University Press, 1996.

Kingstone, Peter R., and Timothy J. Power, eds. Democratic Brazil: Actors, Institutions, and Processes. Pittsburgh, Pa.: University of Pittsburgh Press, 2000.

Lamounier, Bolivar, and Rachel Meneguello. Partidos Políticos e Consolidação Democrática: O Caso Brasileiro [Political parties and democratic transition: The Brazilian case]. Sao Paolo: Editora Brasiliense, 1986.

Moises, Jose Alvaro. Os Brasileiros ea Democracia: Bases Sócio-Políticas da Legitimidade Democrática [Brazilians and democracy: Socio-political bases of democratic legitimacy]. Sao Paolo: Attica Press, 1995.

Payne, Leigh A. “Working Class Strategies in the Transition to Democracy in Brazil.” Comparative Politics, 23, no. 2 (1991): 221–38.

Skidmore, Thomas. The Politics of Military Rule in Brazil, 1965–1985. New York: Oxford University Press, 1988.

Sola, Lourdes. “The State, Structural Reform, and Democratization in Brazil.” In Democracy, Markets, and Structural Reform in Latin America: Argentina, Bolivia, Brazil, Chile, and Mexico, edited by William C. Smith, Carlos H. Acuna, and Eduardo A. Gamarra. Boulder, Colo.: Lynne Rienner, 1994.

Stepan, Alfred. Rethinking Military Politics: Brazil and the Southern Cone. Princeton, N.J.: Princeton University Press, 1988.

———, ed. Democratizing Brazil: Problems of Transition and Consolidation. New York: Oxford University Press, 1989.

Weyland, Kurt. Democracy without Equity: Failures of Reform in Brazil. Pittsburgh, Pa.: University of Pittsburgh Press, 1996.

Comments are closed.