Vũ Tường (2017). Vietnam’s Communist Revolution: The Power and Limits of Ideology. Cambridge: Cambridge University Press.
Nguyễn Trung Kiên dịch
CHƯƠNG 2
CỦNG CỐ TẦM NHÌN LÊNIN-NÍT, 1931 -1940
Tháng 11 năm 1931, Trần Đình Long nhận lệnh trở về Đông Dương cùng với Lê Hồng Phong, bạn học của ông tại Moscow. Long và Phong mang theo 400 đô-la do QTCS cấp và được giới thiệu để tham gia vào ban lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương (ĐCSĐD). Chúng ta không biết Long trở về bằng cách nào, nhưng sau đó Phong đã gửi báo cáo cho QTCS về cuộc hành trình đầy gian nan và trắc trở của mình. Hai người chia tay nhau ở Paris, và Phong chọn trở lại Việt Nam qua ngả Xiêm La vì ông có những người cần liên hệ ở đó, những người có thể tóm tắt cho ông về tình hình Đông Dương.[175] Tuy nhiên, khi đến Bangkok, ông mới được biết chính sách của Xiêm La đã thay đổi và bây giờ cần phải có hộ chiếu để nhập cảnh. Không thể vào Xiêm La, Phong đã đợi mười ngày trong một khách sạn trước khi lên tàu đến Hồng Kông. Thật không may, tất cả số tiền ông mang theo (bao gồm cả 400 đô-la) đã bị đánh cắp khi ông đến nơi. Thông thường, ông cất nhiều lượng tiền nhỏ ở nhiều nơi khác nhau trong vali và túi của mình, nhưng vào ngày đặc biệt đó, khi tên trộm ập vào, ông đã cất hết tiền vào một chỗ, theo cách không thể giải thích được. Phong phải bán chiếc áo khoác của mình với giá 5 đô-la (tiền Hồng Kông) để mua vé đi Quảng Châu.
Ở đó, ông đăng ký theo học tại một trường đại học địa phương, tuyên bố rằng ông là một nhà dân tộc chủ nghĩa người Việt, những người muốn học về chủ nghĩa Tôn Dật Tiên. Ông được mời đến gặp Hiệu trưởng trường đại học – người đã giúp ông liên lạc với các đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng (VNQDĐ) trong thị trấn. Một ngày nọ, bốn đảng viên VNQDĐ đến nói chuyện với Phong trong khách sạn của ông, và từ họ, ông biết được mối thù hận giữa các nhóm cộng sản chủ nghĩa người Việt ở Quảng Châu. Lo sợ danh tính của mình có thể bị lộ, đêm đó ông đã bán vali và một số quần áo với giá 30 nhân dân tệ và chuyển đến một khách sạn khác. Ông đã hành động chính xác, bởi vì, như một người bạn sẽ cho ông biết vài tháng sau đó, cảnh sát đã đến tìm ông vào ngày hôm sau. Sau đó, ông làm thợ máy ở Quảng Tây, và trong vòng một năm, ông đã liên lạc lại với các thành viên Đảng Cộng sản Đông Dương (ĐCSĐD) ở miền Nam Trung Quốc và Xiêm La.
Việc kể lại ngắn gọn về cuộc hành trình của Phong bằng giọng văn của ông gợi nên cảm giác về môi trường nguy hiểm mà những người cộng sản bí mật đang hoạt động. Trải nghiệm của Phong khá phổ biến ở các nhà cách mạng Việt Nam. Những năm tháng thú vị khi học tập ở Moscow được tiếp nối bằng những tháng ngày di chuyển trên tàu buôn, nhiều tuần trú tại khách sạn rẻ tiền, những công việc tạm thời và cư trú ở nước ngoài bằng tên giả, với những sơ suất, rủi ro và những vụ bắt bớ thường trực luôn chờ đợi. Nhiều đồng chí của Phong rời bỏ phong trào để sống một cuộc sống âm thầm hoặc tệ hơn là phản bội lý tưởng để làm gián điệp cho cảnh sát Pháp.[176] Những người vẫn giữ được cam kết như Phong hẳn phải có niềm tin sâu sắc hơn vào chính nghĩa, mặc dù chắc chắn niềm tin không phải là yếu tố duy nhất.
Phong trở lại châu Á vào thời điểm quan trọng. Thập niên 1930 đã bắt đầu thật tốt đẹp nhưng hóa ra lại là một thập kỷ tàn khốc nhất đối với phong trào. Sáu tháng trước khi Phong rời Moscow, Trần Phú và Ngô Đức Trì đã bị cảnh sát Pháp bắt tại Sài Gòn. Nguyễn Ái Quốc và nhiều cộng tác viên chủ chốt ở miền Nam Trung Quốc và Hồng Kông bị bắt ngay sau đó.[177] Nhưng, như hành trình của Phong ngụ ý, vẫn có những tia hy vọng le lói bất chấp những lối thoát đầy chật hẹp.
“CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN VÀ CHỦ NGHĨA DÂN TỘC LÀ MỘT TRỜI MỘT VỰC”
Thập niên 1930 đã bắt đầu với các sự kiện quốc tế trọng đại, bao gồm cuộc Đại suy thoái, quá trình công nghiệp hóa của Liên Xô và sự trỗi dậy của chủ nghĩa phát-xít. Khi Trần Phú triệu tập một cuộc họp của các nhà lãnh đạo ĐCSĐD vào tháng 3 năm 1931 (sau này được gọi là Hội nghị toàn thể lần thứ hai), thế giới tư bản chủ nghĩa đã sụp đổ.[178] Thương mại bị đóng băng, các ngân hàng sụp đổ, và sản xuất hàng loạt bị thu hẹp trở lại. Hội nghị này ghi nhận rằng hơn 50 triệu công nhân đã thất nghiệp tại châu Âu và Hoa Kỳ. Nếu tính cả gia đình họ, tổng số người bị ảnh hưởng lên tới từ 150 đến 180 triệu người, hay một phần mười dân số thế giới. Ngược lại, ở Liên Xô, “sự phát triển của chủ nghĩa xã hội đang ‘lên vùn vụt’ và đã vượt xa kế hoạch”. Sản xuất công nghiệp hiện chiếm 70% nền kinh tế Liên Xô. Các nông trang tập thể chiếm gần một nửa tổng diện tích canh tác. Không chỉ tình trạng thất nghiệp biến mất mà còn thiếu hụt nhân công. Các nhà lãnh đạo ĐCSĐD hy vọng rằng giờ đây “nhân dân lao động trên thế giới” có thể thấy sự tương phản hoàn toàn giữa các hệ thống tư bản và hệ thống Xô-viết. Một hệ thống chứng kiến sự tăng trưởng kinh tế và xóa bỏ tình trạng thất nghiệp và ‘thống khổ’. Hệ thống kia đang suy sụp và công nhân đang phải chịu đựng nỗi thống khổ.
Nghị quyết của Hội nghị toàn thể nhận thấy rằng các vấn đề trong thế giới tư bản và sự tiến bộ ở Liên Xô đã thúc đẩy các phong trào cách mạng ở khắp nơi.[179] Tại Đức, Hoa Kỳ, Pháp và Tây Ban Nha, hàng triệu công nhân đã tham gia các cuộc đình công gần đây. Các cuộc đình công này hiện đã đoàn kết công nhân ở nhiều quốc gia và mang tính quốc tế; chúng không phải là những cuộc đình công thông thường mà là những cuộc biểu tình chống lại toàn bộ hệ thống tư bản chủ nghĩa. Ở Miến Điện, Maroc, Peru, Argentina, Ấn Độ, Trung Quốc và Đông Dương, các phong trào giải phóng cũng đã mở rộng bất chấp sự đàn áp của nhà nước. Ở Đông Dương, mặc dù phong trào Xô-viết Nghệ Tĩnh đã thoái trào, nhưng các nhà lãnh đạo ĐCSĐD cảm thấy được khích lệ bởi thực tế là cuộc đấu tranh nông dân đã tiến hóa lên hình thức tổ chức tiên tiến hơn và mang tính giai cấp rõ ràng hơn; bây giờ họ không chỉ chống lại chủ nghĩa đế quốc mà còn chống lại địa chủ và phong kiến ở địa phương.[180]
Các nhà lãnh đạo ĐCSĐD tin rằng các cuộc cải cách kinh tế không thể cứu vãn chủ nghĩa đế quốc được nữa. Biện pháp duy nhất của các nước đế quốc là sử dụng vũ lực, nhưng họ không thể làm như vậy mà không đàn áp phong trào cách mạng và đánh bại Liên Xô – “pháo đài của cách mạng thế giới ”. Bằng chứng về xu thế này đã được tìm thấy trong việc các nước tư bản áp dụng chiến thuật “phát-xít” để dẹp tan các phe đối lập trong nước, và trong quá trình họ bận rộn chuẩn bị cho chiến tranh. Các cáo buộc chung của họ chống lại “việc bán phá giá của Liên Xô” đã cho thấy âm mưu chống lại Liên Xô.[181]
Mặc dù các nhà lãnh đạo ĐCSĐD đánh giá cao môi trường quốc tế thuận lợi, họ bày tỏ sự thất vọng sâu sắc với Đảng của mình. Một năm sau khi các nhóm cộng sản đầy bất hòa được thống nhất lại, và năm tháng đã trôi qua kể từ khi ban lãnh đạo mới của Trần Phú được thành lập, thực tế là Đảng vẫn còn rất ít đảng viên xuất thân từ công nhân. Các chi bộ nông thôn của nó đã được mở rộng nhanh chóng; trí thức và nông dân hiện nay chiếm 90% số đảng viên.[182] Các xứ ủy Bắc kỳ và Trung kỳ vẫn chưa hoạt động tập thể như một nhóm. Kỷ luật đảng ở một số chi bộ còn lỏng lẻo và chỉ dựa vào các thủ đoạn chỉ huy và đe dọa những chi bộ khác. Đối với các nhà lãnh đạo trung ương, những hiện tượng nói trên phản ánh tư duy và hành vi của “chế độ tư sản dân tộc”, chẳng hạn như “sợ đấu tranh” và “thiếu tin tưởng vào quần chúng”. Quyết định của một số xứ ủy không tổ chức đình công trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế vì sợ công nhân sẽ ủng hộ yếu ớt cho thấy sự sợ hãi đấu tranh. Một lỗi “tiểu tư sản” khác đã được tìm thấy trong những đòi hỏi các ông chủ không được trừng phạt người lao động bằng cách trừ nhiều hơn mức một phần ba tiền công hàng ngày của công nhân, hoặc phải cho người lao động nghỉ làm vào ngày Chủ nhật. Những đòi hỏi đó tỏ ra quá rụt rè.[183]
Để khắc phục tình hình, nghị quyết của Hội nghị toàn thể kêu gọi bổ sung thêm nhiều công nhân vào các xứ ủy tại các miền, đồng thời loại bỏ “những trí thức cơ hội chủ nghĩa”.[178] Ngoài ra, mọi Đảng viên được kêu gọi loại bỏ các khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa trong suy nghĩ và hành động của họ. Toàn Đảng phải thu hút nhiều công nhân hơn, tổ chức nhiều chi bộ hơn, và tập trung phát triển các công đoàn và đoàn thanh niên cộng sản (chứ không chỉ các hội nông dân). Rõ ràng, nghị quyết này nhằm thực hiện chính sách đấu tranh giai cấp của QTCS năm 1928-1929 như đã được thông qua tại Hội nghị toàn thể lần thứ nhất của Đảng vào tháng 10 năm 1930.
Trong cuốn tiểu sử về Hồ Chí Minh, Quinn-Judge cho rằng Hồ tiếp tục bị Trần Phú chỉ trích ở điểm này. Bằng chứng của bà là một lá thư, trong đó, theo Quinn-Judge, Phú đã “cho rằng Hồ phải chịu trách nhiệm phần lớn về di sản của ‘các tổ chức cách mạng cũ’ [như VNTNCMĐCH] trong đảng của người Việt”.[185] Mặc dù Phú có đề cập đến di sản đó trong lá thư của mình, nhưng trên thực tế, ông đã tuyên bố rõ ràng rằng “chúng tôi lưu ý các ngài [tức các cán bộ của QTCS] đến vấn đề ‘không chỉ trích Kok [Quốc] , mà chỉ để nhắc nhở các ngài về cách ĐCSĐD thống nhất đã ra đời và điều đó đã tạo ra những hậu quả xấu xa như thế nào cho chúng ta cho đến tận ngày nay". [186] Vì vậy, Phú rõ ràng đã miễn trừ trách nhiệm cá nhân cho Quốc về vấn đề này. Bức thư đã đưa ra một lời chỉ trích cụ thể đối với Quốc, nhưng đây là về hành vi của ông, chứ không phải về lòng trung thành với QTCS hay khuynh hướng ý thức hệ của Quốc. Đặc biệt, bức thư yêu cầu không tiếp tục sử Quốc làm liên lạc viên giữa ĐCSĐD và QTCS “vì anh ta quá ngắn gọn và đôi khi đưa ra ý kiến riêng của mình mà không hỏi ý kiến các ngài. Kok [Quốc] liên lạc với cả Ban Chấp hành TW và Xứ ủy Bắc kỳ; anh ta yêu cầu mọi đảng viên phải báo cáo. Tình trạng này thật tồi tệ. Một đồng chí thậm chí đã hỏi chúng tôi: lãnh đạo của chúng tôi là ai, Ban Chấp hành TW hay Kok [Quốc]?”.[187]
Không giống như những gì Quinn-Judge tuyên bố, căng thẳng giữa Quốc và Ban Chấp hành TW chỉ liên quan đến tệ quan liêu chứ không phải về bản chất ý thức hệ. Với tư cách là đại diện của QTCS, Quốc đã nhận và trả lời trực tiếp các báo cáo của cả Ban Chấp hành TW và các Xứ ủy trước khi chuyển các tài liệu đó cho Cục Phương Đông của QTCS tại Thượng Hải. Quốc nhận thức rõ ràng vai trò của mình là một người đại diện chứ không phải là một liên lạc viên. Chẳng hạn, trong một bức thư ngày 20 tháng 4 năm 1931, Quốc chỉ trích các xứ ủy của ĐCSĐD về nhiều vấn đề, từ cách họ triệu tập các cuộc họp đến cách họ thiết lập chương trình nghị sự và lập kế hoạch hành động. Ông trừng trị họ vì không tuân theo chỉ thị của QTCS để đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Ông nói với họ rằng tất cả bọn họ phải thảo luận về Chỉ thị của QTCS và nghị quyết của Ủy ban Trung ương ĐCSĐD, sau đó đưa ra nghị quyết của riêng mình về Chỉ thị và nghị quyết trên. Những nghị quyết [được ban hành tại địa phương] đó phải được gửi đến Ban Chấp hành TW, sau đó sẽ gửi chúng cùng với QTCS [để xem xét]. Chỉ khi thực hiện được các bước đó thì kỹ năng của người đảng viên mới được nâng lên, mới thực hiện được các chỉ thị, nghị quyết của QTCS và của Ban Chấp hành TW; mới có thể biết được liệu tư tưởng và hành động của đảng viên có thống nhất được không; QTCS có giám sát được kỹ năng cách mạng của đảng viên không; và có thể thực hiện triệt để việc liên lạc từ các chi bộ đến Ban Chấp hành TW và đến QTCS (vốn là mong muốn của QTCS).[188] Lời khuyên của Quốc đối với các xứ ủy, như vừa được đề cập, cho thấy rằng ông muốn một cấu trúc Đảng mang tính trung ương tập quyền hơn sẽ được đệ trình đầy đủ cho QTCS. Ở điểm này Quốc đã thực hiện trung thành vai trò đại diện của QTCS, hành động vì lợi ích của QTCS. Các quan chức của QTCS hẳn sẽ hài lòng với những gì Quốc báo cáo. Về phần mình, Ban Chấp hành TW ĐCSĐD cũng có thể thích lời chỉ trích của Quốc đối với các xứ ủy cấp dưới, nhưng rõ ràng là không thoải mái bởi thực tế là ông đã bỏ qua nó và liên lạc trực tiếp với các xứ ủy đó. Đây là lý do tại sao Trần Phú yêu cầu QTCS chỉ sử dụng Quốc như một liên lạc viên. [189]
Lời khuyên của Quốc dành cho các xứ ủy cũng thể hiện sự sẵn sàng thực hiện chính sách đấu tranh giai cấp của QTCS được đưa ra tại Hội nghị lần VI vào năm 1928 của QTCS. Không giống như những gì Quinn-Judge suy đoán, không có bằng chứng nào cho thấy Quốc đã cố gắng kiềm chế việc thực hiện chính sách cực đoan chống lại trí thức và địa chủ của Xứ ủy Trung kỳ lúc bấy giờ.[190]
Đầu năm 1931, các nhà lãnh đạo ĐCSĐD bận tâm đến công tác tuyên truyền không kém gì so với các vấn đề tổ chức.[191] Vì Đảng còn rất non trẻ, các nhà lãnh đạo của Đảng muốn xây dựng “nền tư tưởng vô sản” giữa các đảng viên và giữa “quần chúng vô sản”.[192] Theo quan điểm của họ, tuyên truyền phải dựa trên tư tưởng và chính sách của Đảng; phải chịu sự giám sát của cơ quan chuyên môn dưới sự chỉ đạo của một Ủy viên Trung ương; và phải nhằm chống lại “các khuynh hướng sai lầm”, đặc biệt là những người chịu ảnh hưởng bởi các tư tưởng của chủ nghĩa dân tộc, xu thế cải cách [nửa vời (ND)], hay xu thế hợp tác [với các kẻ thù giai cấp (ND)]. Tuyên truyền phải “rèn luyện các đảng viên và quần chúng vô sản theo tinh thần của chủ nghĩa Marx-Lenin, dạy họ làm theo đường lối đúng đắn của QTCS và của Đảng”. Nhân dân phải được thuyết phục rằng đường lối của Đảng không chỉ đúng đắn, mà là con đường đúng đắn ‘duy nhất’ dẫn đến chủ nghĩa cộng sản. Về phương pháp tuyên truyền, sự lặp lại là rất cần thiết: Đảng viên được khuyến cáo không nên lo lắng về việc mọi người sẽ chán khi nghe những thông điệp giống hệt nhau hàng ngày. Quan trọng nhất, tuyên truyền phải ‘xác thực’ và phải gắn với cuộc đấu tranh hàng ngày của quần chúng. “Chủ nghĩa Marx-Lenin là lý luận hành động cách mạng của giai cấp vô sản, không phải là lý luận ‘hư danh’.”[193]
Các nhà lãnh đạo ĐCSĐD nghiêm túc coi chủ nghĩa Marx-Lenin không phải là một giáo điều mà là một lý thuyết sống động hướng dẫn các hành động, gắn bó chặt chẽ và được hiện thực hóa thông qua các hành động cụ thể. Một cuộc khảo sát về cách thức tổ chức tuyên truyền và cách các thông điệp được nhấn mạnh sẽ mang lại thông tin hữu ích về niềm tin thực sự của các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam tại thời điểm đó. Lịch cách mạng của ĐCSĐD, nơi tổ chức các hoạt động của họ, không có ngày tháng nào gắn liền với văn hóa, lịch sử hay con người Việt Nam. Thay vào đó, các lễ kỷ niệm ngày mất của Lenin, Rosa Luxemburg và Karl Liebknecht (21 tháng 1), Ngày Quốc tế Phụ nữ (8 tháng 3), Công xã Paris (18 tháng 3), Ngày Lao động (1 tháng 5) và Cách mạng Nga (7 tháng 11) là những dịp để vận động.[194] Những ngày này là biểu tượng cho các cam kết của Đảng đối với phong trào cộng sản quốc tế, và các hoạt động này là một phần để nuôi dưỡng tinh thần cộng sản quốc tế trong các đảng viên.
Ví dụ, vào ngày 8 tháng 3 năm 1931, Xứ ủy Nam kỳ của ĐCSĐD đã phát một tập sách nhỏ nói về sự tương phản trong địa vị của người phụ nữ giữa Liên Xô và các nước tư bản.[195] Phụ nữ dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, bao gồm cả phụ nữ ở Đông Dương, được cho là làm việc chăm chỉ với mức lương thấp; được đối xử như nô lệ tại nơi làm việc của họ; bị áp bức bởi hủ tục phong kiến; gánh nặng công việc gia đình; và bị bạo hành trong gia đình của họ. Ngược lại, ở Liên Xô, luật pháp tiến bộ cấm lao động nữ làm những công việc nguy hiểm và đảm bảo họ được trả mức lương thỏa đáng và thời gian nghỉ ngơi hào phóng. Họ được giải phóng khỏi gánh nặng của việc chăm sóc trẻ em và công việc gia đình được với 17.000 trung tâm chăm sóc và “các căng-tin tập thể” phục vụ 20 triệu người. Phụ nữ được giáo dục và được bầu vào những vị trí xứng đáng trong hệ thống chính trị. Ví dụ, 312.000 phụ nữ là thành viên của các hội đồng đại diện của công nhân và nông dân, và 56.000 phụ nữ là thành viên của các hội đồng công nhân. Họ chiếm 20% trong số thành viên của cấp ủy đảng. Cuốn sách nhỏ kết luận rằng chỉ khi lật đổ chủ nghĩa tư bản, phụ nữ mới có thể có tự do và bình đẳng giới.[196]
Cuốn sách nhỏ này gợi ý rằng chủ nghĩa Marx-Lenin không phải bao gồm một số tư tưởng trừu tượng mà là thông tin chân thực và cấu trúc nên các hoạt động hàng ngày của các nhà hoạt động cộng sản. Có nhiều sự thật trong tuyên bố rằng phụ nữ Liên Xô được hưởng bình đẳng giới cao hơn chị em của họ trong nhiều xã hội truyền thống và tư bản. Hình ảnh tổng thể về Liên bang Xô-viết nghe giống như một thiên đường, nhưng nó liên quan đến những mối quan tâm hàng ngày của phụ nữ: chăm sóc con cái, việc nhà và những sự lạm dụng trong gia đình. Cuốn sách nhỏ này đã truyền cảm hứng cho các nữ công nhân đưa ra những yêu cầu cụ thể đối với người sử dụng lao động của họ: không phải làm công việc nguy hiểm, được trả lương cao, thời gian nghỉ phép dài, chăm sóc trẻ em và ăn uống tại căng-tin nhà máy. Nó đề xuất các hình thức tổ chức có thể có cho những người quan tâm; đó là các hội đồng công nhân và các chi bộ Đảng. Nhiệm vụ cuối cùng của việc lật đổ chủ nghĩa tư bản không phải là một mục tiêu trừu tượng mà gắn liền với những vấn đề thường ngày như vậy.
Một ngoại lệ hiếm hoi đối với lịch hoàn toàn theo chủ nghĩa quốc tế của ĐCSĐD trong năm 1931 là lễ kỷ niệm đầu tiên của cuộc nổi dậy Yên Bái vào ngày 9 tháng 2 năm 1931. Tất nhiên, những sự kiện kịch tính vào ngày đó và sự tử vì đạo của các lãnh tụ mang tinh thần dân tộc chủ nghĩa đã gây ấn tượng mạnh đối với tất cả người Việt Nam và ĐCSĐD các nhà lãnh đạo muốn chia sẻ sự ấn tượng đó. Tuy nhiên, họ không nhầm lẫn đối với lòng trung thành của mình. Trong một cuốn sách mỏng gồm 29 trang để hướng dẫn cán bộ về cách tổ chức sự kiện này, các nhà tuyên giáo của Đảng giải thích rằng ngày được chọn vì năm 1930 là năm khi làn sóng cách mạng lớn ở Đông Dương đã đạt đến một tầm vóc lịch sử, và các cuộc nổi loạn Yên Bái xảy ra đầu tiên trong năm đó.[197] Tuy nhiên, cuốn sách nhỏ giải thích, việc chọn ngày đó không có nghĩa là các nhà lãnh đạo ĐCSĐD đồng ý với ‘quốc gia chủ nghĩa’ và hoàn toàn tôn trọng các nhà lãnh đạo VNQDĐ đã hy sinh mạng sống của họ cho niềm tin đó. Thay vào đó, sự kiện này là “một thời điểm thích hợp cho người cộng sản để giải thích cho quần chúng lao động… mà chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa dân tộc là ‘một trời một vực’và hai chủ nghĩa này không bao giờ có thể chứa đựng [‘phân hợp’] lẫn nhau”. [198] Mục đích không phải để tưởng nhớ câc lãnh tụ theo chủ nghĩa dân tộc, mà để “sử dụng sự kiện này để mở rộng ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản để quần chúng Đông Dương [sẽ] tham gia chiến đấu dưới sự lá cờ của chủ nghĩa cộng sản để lật đổ đế quốc, phong kiến và địa chủ, và thành lập chính phủ công-nông-binh”. Trong cuộc đấu tranh đó, giai cấp vô sản Đông Dương sẽ không cô độc bởi vì “giai cấp vô sản thế giới và các dân tộc bị áp bức ở các thuộc địa và bán thuộc địa đều là anh em và không bị chia rẽ bởi chủng tộc hay quốc tịch”. [199]
“ĐÊM TRƯỚC CỦA LÀN SÓNG CÁCH MẠNG KHÁC”
Cuối tháng 4 năm 1931, cảnh sát Pháp ở Sài Gòn bắt được Trần Phú, Ngô Đức Trì và gần như toàn bộ Ban Chấp hành TW. Phú qua đời sau đó sáu tháng trong khi bị bắt, mà không phản bội các đồng chí của mình.[200] Trì đầu thú và tiết lộ cho chính quyền mọi liên hệ của mình, dẫn đến nhiều vụ bắt giữ nữa. Nguyễn Ái Quốc bị bắt tại Hồng Kông vào tháng 5 và sẽ ở tù hơn một năm trước khi được chính quyền Anh thả tự do. Sau đó, ông đã dành một thời gian ẩn náu ở miền Nam Trung Quốc trước khi lên đường sang Liên Xô vào năm 1934. ĐCSĐD đã sụp đổ với tư cách là một tổ chức, nhưng chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam vẫn tồn tại nhờ niềm tin của những người sống sót và sự hỗ trợ quan trọng của QTCS. Đến thập niên 1930, mạng lưới các tổ chức và nhà hoạt động cộng sản của QTCS đã lan rộng trên một khu vực địa lý rộng lớn từ Thượng Hải đến Singapore và Sài Gòn, với các thủ đô Tây Âu đóng vai trò là trung tâm tuyển dụng, điểm đào tạo, trạm trung chuyển và trung tâm liên lạc. Mạng lưới này đã giúp các nhà cộng sản Việt Nam xây dựng lại tổ chức của họ, mặc dù, như sẽ thấy ở phần dưới, việc tái lập tổ chức là một nhiệm vụ khó khăn.
Tại thời điểm này, ngọn đuốc cách mạng đã được truyền cho hai nhóm sinh viên mới tốt nghiệp tại trường Đại học Phương Đông, những người đã chia rẽ để trên hai con đường khác nhau. Một nhóm gồm Trần Đình Long và Lê Hồng Phong – người đã kể lại về cuộc hành trình về miền Nam Trung Quốc ở đoạn trước. Sau khi Phong ổn định cuộc sống, ông đón Hà Huy Tập và những người khác từ Moscow trở về. Nhóm này cùng nhau thành lập ‘Ban chỉ huy ở ngoài’ của ĐCSĐD và cố gắng chỉ đạo phong trào cộng sản ở Việt Nam.[201] Nhóm thứ hai gồm bộ đôi Nguyễn Văn Tạo và Dương Bạch Mai, đến từ Nam kỳ và từng là sinh viên đại học ở Paris trước khi được đào tạo ở Moscow. Đây là các nhà cộng sản Việt Nam được giáo dục tốt nhất trong thế hệ của họ. Sau khi trở về Sài Gòn qua ngả Paris, Tạo và Mai cộng tác với những người bạn Trotskyist của họ từ những ngày còn ở Paris, như Tạ Thu Thâu và Phan Văn Hùm, để tranh cử các ghế trong Hội đồng thành phố.[202] Lớn lên ở Nam kỳ, Tạo và Mai phát triển mạnh trong môi trường chính trị cởi mở ở đó, điều này càng trở nên cởi mở hơn sau khi Mặt trận Bình dân Pháp dưới thời Thủ tướng Léon Blum lên nắm quyền vào tháng 5 năm 1936. Cũng được đào tạo tại cùng một trường đại học, Tạo và Mai hoạt động hợp pháp và độc lập với bộ máy hành chính bí mật của QTCS vốn vẫn đang giám sát Nguyễn Ái Quốc, Trần Phú và Lê Hồng Phong.
Khơi dậy lòng trung thành đang giảm sút của các đảng viên sau quá nhiều mất mát là một phần công việc lớn của Phong và Tập với tư cách là các lãnh đạo mới của ĐCSĐD. QTCS trực tiếp điều phối nỗ lực này bởi nó cũng có sự tham gia của Đảng Cộng sản Pháp. Đầu năm 1932, một số nhóm tự xưng là “TW Đảng lâm thời” của ĐCSĐD đã gửi cho Đảng Cộng sản Pháp một bức thư. Các tác giả của bức thư này đã than thở rằng sự đàn áp của Pháp là một thảm họa đối với Đảng, lúc này Đảng đang ‘hấp hối’.[203] Thật kỳ lạ, bức thư này đổ lỗi cho thất bại của làn sóng cách mạng dâng cao trong những năm 1930-1931 cho ĐCSĐD cũng nhiều như cho sự tàn bạo của người Pháp. Xứ Đông Dương lạc hậu có một giai cấp vô sản nhỏ và yếu, nghĩa là tuyệt đại đa số đảng viên đều xuất thân từ nông dân và tiểu tư sản. Như bức thư kể lại: “Đảng Cộng sản được sinh ra từ những thành phần tiến bộ nhất của VNQDĐ cùng các lực lượng vô sản và nông dân”. [204] Do thành phần giai cấp không trong sạch như vậy, không thể tránh khỏi việc ĐCSĐD phải dựa vào “phương pháp đấu tranh vô chính phủ”. Nếu ĐCSĐD đã từng phục hồi sau sự sụp đổ, điều mà bức thư cho là một triển vọng không chắc chắn, thì nó sẽ cần được dẫn dắt bởi “một thành phần vô sản cốt cán”. Đảng cũng phải loại bỏ những phần tử dân tộc chủ nghĩa và tiểu tư sản.
Lập trường giai cấp bức thư nhìn chung có vẻ đúng, và các tác giả của nó vẫn trung thành với ý thức hệ. Tuy nhiên, việc sử dụng các khái niệm một cách sai lạc và giọng điệu gần như tuyệt vọng của nó hẳn đã gây xúc động mạnh với các quan chức của QTCS khi họ đọc các đoạn trích của bức thư đăng trên tạp chí ‘Cahiers du Bolchévisme’ của Đảng Cộng sản Pháp.[205] Tại một cuộc họp của Văn phòng Đông phương ở Moscow vào ngày 4 tháng 4 năm 1932, lá thư đã được thảo luận và một “đồng chí Vasilieva” được giao nhiệm vụ liên lạc với ‘Bolchévisme.’ [206] Sau đó, Văn phòng QTCS yêu cầu Hà Huy Tập (khi đó vẫn đang ở Moscow) viết một bài phản bác để đăng ngay trên Bolchévisme. Tập được khuyên nên lập luận rằng thất bại chỉ là tạm thời. Sức mạnh của các phong trào cách mạng trên toàn thế giới, sự củng cố của chính quyền cộng sản Trung Quốc, sự thành công của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, cuộc khủng hoảng kinh tế và các điều kiện sống ngày càng tồi tệ ở Đông Dương – tất cả đều cho thấy một cao trào cách mạng mới sẽ sớm xuất hiện. [207]
Trong bài tiểu luận dài và đầy hùng biện của mình, Tập lưu ý rằng các lãnh tụ VNQDĐ tin vào ‘chủ nghĩa yêu nước hẹp hòi’, và thất bại của họ là điều có thể đoán trước được.[208] Một số rất nhỏ đảng viên VNQDĐ đã chuyển sang ĐCSĐD sau cuộc nổi dậy bất thành ở Yên Bái, và những đảng viên này đã hoàn toàn chấp nhận lý thuyết và thực tiễn của chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, đa số đảng viên VNQDĐ vẫn giữ nguyên vẹn “chủ nghĩa dân tộc tiểu tư sản và hành vi dao động, khủng bố và bè phái của họ”.[209] Tập tuyên bố ĐCSĐD sẽ không có lợi khi kết nạp thành viên của VNDĐ. Ông tiếp tục bác bỏ những tuyên bố rằng ĐCSĐD đã sụp đổ, lưu ý rằng theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, cách mạng sẽ không tiến lên theo đường thẳng. Mặc dù ông thừa nhận rằng ĐCSĐD đã mắc sai lầm và phong trào đã bị một số tổn thất, nhưng Đảng còn lâu mới bị tiêu diệt. Với cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài và cuộc đấu tranh giai cấp căng thẳng ở Đông Dương và các nơi khác, bây giờ là “đêm trước của làn sóng cách mạng khác ”.
Sự lạc quan của Tập không chỉ đơn giản là để trấn an những người đồng chí đang dao động mà có thể là bởi sự đánh giá sâu sắc các quá trình lịch sử của ông . Trước khi Tập rời Moscow đến miền Nam Trung Quốc vào cuối năm 1933, ông đã hoàn thành cuốn lịch sử dài 300 trang về phong trào cộng sản Đông Dương do QTCS xuất bản tại Moscow.[210] Tác phẩm thể hiện sự hiểu biết sâu sắc của ông về phong trào với tư cách là một người trong cuộc ngay từ đầu và tính lý thuyết của ông đã dễ dàng vượt qua Trần Phú. Nghiên cứu này trải dài suốt một thập kỷ từ năm 1923 đến năm 1933, tức là từ VNTNCMĐCH đến ĐCSĐD. Nó phân tích các điều kiện lịch sử làm nảy sinh chủ nghĩa cộng sản, các chính sách thuộc địa ảnh hưởng đến phong trào, và các vấn đề lý luận và tổ chức mà phong trào phải vật lộn. Chương đầu tiên về VNTNCMĐCH đưa ra những nhận xét ngắn gọn được viết bằng văn phong đẹp đẽ về nguồn gốc của chủ nghĩa cộng sản Việt Nam:
“Phong trào cộng sản Đông Dương là đứa con của Cách mạng Nga… Thắng lợi của giai cấp công nhân ở một nước rộng lớn như nước Nga đã thức tỉnh tất cả các dân tộc trên toàn thế giới. [Khi tin tức lan đến], những người ở Đông Dương xa xôi đang rên xiết dưới ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc Pháp, họ cũng tham gia cuộc đấu tranh của toàn thể quần chúng nhân dân bị áp bức trên thế giới để chống lại kẻ thù chung của họ là chủ nghĩa đế quốc toàn cầu. Nhưng nếu những tiếng đại bác Tháng Mười Nga lay động trái tim của quần chúng bị bóc lột ở Đông Dương và mang lại luồng gió mới cho họ, thì cách mạng Trung Quốc là người dẫn đường và là người thầy cần thiết mà số phận của nó không thể tách rời cách mạng Đông Dương”.[211]
Bởi các tổ chức sớm nhất như VNTNCMĐCH đã bị ảnh hưởng sâu sắc bởi các tư tưởng và phương pháp (dân tộc chủ nghĩa) của Trung Quốc, Tập lập luận rằng “người ta ngạc nhiên khi ý thức hệ của họ vẫn còn chưa rõ ràng, suy nghĩ của họ đầy tăm tối, và quan điểm của họ tự mâu thuẫn ”. Đối với ông, tình trạng như vậy cũng xuất phát từ thành phần giai cấp của các tổ chức đó, mà thành phần tiểu tư sản là chủ yếu. Các thành viên của tầng lớp này mang theo hệ tư tưởng, quan điểm và phương pháp của nó như chủ nghĩa vô chính phủ, chủ nghĩa bè phái và khuynh hướng tiến hành cách mạng chớp nhoáng. Tuy nhiên, quan điểm dài hạn của ông Tập phép ông đưa ra một đánh giá tổng thể tích cực : “Mặc dù những tổ chức ban đầu đó mắc nhiều sai lầm, nhưng chúng đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Chúng là những tổ chức đầu tiên đưa những nhân tố mới vào phong trào giải phóng dân tộc. Chúng đã báo trước chủ nghĩa cộng sản ”.
Mặc dù mọi người đều biết rằng Hà Huy Tập từng nêu lên những sai lầm của Nguyễn Ái Quốc suốt thời kỳ VNTNCMĐCH và ĐCSĐD, những phê phán này của ông phải được đặt ra ngoài bối cảnh ấy.[212] Sự nghiên cứu lịch sử của Tập đã giúp ông đã đưa ra một đánh giá cân bằng và tách biệt về những đóng góp của Quốc. Nghiên cứu mở đầu với những ghi nhận sau:
“Tưởng nhớ: Đồng chí Nguyễn Ái Quốc, người sáng lập Đảng Cộng sản Đông Dương, đã từ trần ngày 26 tháng 6 năm 1932 tại nhà tù Hồng Kông; Đồng chí Lý Quý [Trần Phú], Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, từ trần tháng 10 năm 1931 tại Sài Gòn; và tất cả những người đã hy sinh cho cách mạng Đông Dương”.[213]
Khi thảo luận về cuộc họp thống nhất mà Quốc đã giám sát vào đầu năm 1930, Tập không chỉ quan tâm đến các vấn đề lý luận mà còn quan tâm đến quan điểm lịch sử:
“Những hướng dẫn để thống nhất [các nhóm cộng sản đối lập] đã được QTCS đưa ra trước ngày họp thống nhất. Tuy nhiên, vì những tình huống ngoài tầm kiểm soát của họ, nhiều người tham gia cuộc họp đó đã không nhận được những chỉ dẫn đó. Cố đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã có sáng kiến đề xuất và lãnh đạo việc thống nhất đất nước. Ông đã phạm nhiều lỗi của chủ nghĩa cơ hội mà chúng ta không thể không kể đến. Tuy nhiên, công lao to lớn của ông là tập hợp các lực lượng cộng sản manh mún để tạo thành một khối trở thành đội tiên phong cách mạng [của] công nhân Đông Dương”.[214]
Từng là đảng viên Đảng Tân Việt trước khi sang Liên Xô học tập, Tập thừa nhận rằng ông không thể tránh khỏi việc cười vào sự ngây ngô về lý luận của mình trong những ngày đầu khi ông và các lãnh đạo Đảng Tân Việt khác học thuộc “Đường Kách Mệnh” của Nguyễn Ái Quốc bằng cả trái tim và “coi nó như một cuốn Kinh thánh”.[215] Cũng như Trần Phú trước đây, Tập không tìm cách chỉ trích cá nhân Quốc, và đổ lỗi cho hoàn cảnh lịch sử đã hình thành nên những sai lầm của Quốc.
Giữa thập niên 1930 không phải là một ngõ cụt cho ĐCSĐD như Huỳnh Kim Khánh đã lập luận, nhưng không hẳn là đêm trước của cuộc cách mạng như Tập tuyên bố. ĐCSĐD đã được kết nạp tạm thời vào QTCS từ năm 1931 và được chính thức kết nạp vào năm 1935. QTCS đã đào tạo những cán bộ mới cho Đảng, và trong số đó có nhà lý thuyết phù hợp nhất cho đến thời điểm đó, người đã có thể hình thành những đường lối lý thuyết rõ ràng bám sát phong trào cách mạng toàn thế giới. Đến năm 1934, ĐCSĐD đã xuất hiện trở lại ở miền Nam Trung Quốc dưới hình thức mới là Cục Hải ngoại của ĐCSĐD.[216] Văn phòng này được thành lập theo lệnh của QTCS để ngăn chặn một sự sụp đổ khác của Đảng trong trường hợp các ủy viên Trung ương của nó ở Việt Nam bị bắt hoặc bị tử hình.
Tuy nhiên, các tổ chức cộng sản ở Đông Dương vẫn còn manh nha. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng do Cục Hải ngoại mới thành lập triệu tập tại Macao vào đầu năm 1935, hầu hết trong số mười ba người có mặt đều đến từ bên ngoài Việt Nam.[217] Không có người tham gia nào có mặt trong các cuộc họp của ĐCSĐD từ trước đó. Bất chấp sự thay đổi hoàn toàn dàn lãnh đạo, đã không có sự thay đổi đáng kể nào về thế giới quan. Các nhà lãnh đạo mới của ĐCSĐD đã nói về sự tương phản rõ nét hơn giữa “hệ thống xã hội chủ nghĩa” và “hệ thống tư bản chủ nghĩa” và những nguy cơ cấp bách hơn của chủ nghĩa phát-xít và chiến tranh thế giới. Nghị quyết của Đại hội thể hiện sự tự hào vì trong thực tế Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất của Stalin đã được hoàn thành trong vòng bốn năm và Kế hạch 5 năm lần thứ hai đã đạt được tiến bộ trong công nghiệp, trong việc mở rộng quyền sở hữu công cộng về đất đai, và trong việc nâng cao mức sống cho công nhân và nông dân. Sản lượng công nghiệp của Liên Xô năm 1934 gấp đôi so với năm 1930, trong khi các nông trang tập thể hóa hiện chiếm 92% tổng diện tích canh tác.[218] Lương công nhân tăng từ 991 đồng năm 1930 lên 1.519 đồng năm 1933. [219] Năm 1933, các nông trang tập thể nhận được 1,6 tỷ đồng tài trợ từ chính phủ Liên Xô trong khi 280 trạm máy kéo được xây dựng. Những thành tựu này đặc biệt có được nhờ vào cuộc đấu tranh do Stalin lãnh đạo chống lại chủ nghĩa cơ hội và chủ nghĩa Tờ-rôt-kít. Thành công của Liên Xô đã “mở ra con đường giải phóng cho công nhân và nhân dân bị áp bức trên toàn thế giới ”. Nó chỉ ra rằng “chủ nghĩa xã hội [đã] trở thành không thể tránh khỏi”. [220]
Mặc dù thế giới tư bản chủ nghĩa đã đình đốn sau thời kỳ tồi tệ nhất của cuộc Đại suy thoái, nhưng nghị quyết đã dẫn lời Stalin rằng sự phục hồi là kết quả của các hàng rào thuế quan cao hơn, từ việc bán phá giá, từ việc gia tăng bóc lột quần chúng lao động và các quốc gia bị áp bức, từ việc thao túng tỷ giá hối đoái và dự trữ tiền tệ, và từ việc cắt giảm sản xuất.[221] Các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa còn lâu mới ổn định trong khi người dân trong các xã hội đó vẫn tiếp tục lầm than. Điều đó giải thích sự trỗi dậy của chủ nghĩa phát-xít ở châu Âu và sự chuẩn bị cấp bách cho chiến tranh giữa các nước tư bản. Ngược lại, Liên Xô đã cố gắng hết sức để bảo vệ hòa bình thế giới bằng cách ký kết các hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau.
Nghị quyết tuyên bố rằng ĐCSĐD “nói chung” đã tái thiết các chi bộ trong nước của mình và đào tạo các cán bộ mới để thay thế những người đã bị bỏ tù hoặc bị hành quyết. Nó kêu gọi các Đảng viên tập trung nỗ lực tham gia lao động tại các trung tâm công nghiệp để “biến mỗi nhà máy thành một pháo đài của Đảng”.[222] Nông dân và trí thức thực sự dấn thân có thể trở thành thành viên, nhưng công nhân phải chiếm đa số trong tất cả các cơ quan hành pháp. Nghị quyết ghi nhận sự lớn mạnh của Đảng ở những vùng lạc hậu hơn ở Đông Dương, bao gồm vùng Tây Bắc Việt Nam, Lào và Campuchia. Người dân tộc Thổ, Nùng và Hoa gần đây đã tham gia các cơ quan điều hành của Đảng.[223] Lần đầu tiên, một nghị quyết riêng về “vấn đề dân tộc” theo mô hình Liên Xô đã được thảo luận và thông qua tại Đại hội. Nghị quyết này tuyên bố rằng dân tộc gia trong Liên bang Đông Dương trong tương lai phải được hưởng quyền tự quyết. Đảng thề sẽ không áp đặt ý muốn của nó đối với bất kỳ dân tộc thiểu số nào nếu họ khăng khăng đòi có chính phủ riêng của họ, nhưng nó sẽ cố gắng thúc đẩy các mối quan hệ anh em của tất cả các quốc gia Đông Dương dưới một chính thể kiểu Xô-viết trên toàn bộ xứ Đông Dương. [224]
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành TW mới gồm 13 người. Trong số này, một người là nông dân và tám người có xuất thân công nhân. Ba người từng là sinh viên trường Đại học phương Đông, trong đó có Lê Hồng Phong. Nguyễn Ái Quốc, hiện sống ở Moscow, được mệnh danh là thành viên “dự bị”.[225] Đây không phải là dấu hiệu của việc Quốc bị giáng chức như người ta thường tin.[226] Bằng cách gán cho Quốc một tình trạng “rảnh rỗi”, Đại hội có thể đã dự định để ông tiếp quản Đảng nếu ban lãnh đạo của nó bị bắt hoặc bị giết. Trong thực tế, QTCS bổ nhiệm (hoặc tái bổ nhiệm?) Quốc là đại diện của QTCS tại ĐCĐD, và yêu cầu ông viết một cuốn sách sử dụng sai lầm trước đây của ông tại VNTNCMĐ để giúp Đảng đấu tranh chống lại những ảnh hưởng dai dẳng của “cách mạng dân tộc chủ nghĩa, chủ nghĩa cải lương, và chủ nghĩa duy tâm”. [227] Quốc cũng được yêu cầu dịch các tài liệu đã được giải mật. Như một dấu hiệu của sự tin tưởng vào Quốc, ông được hướng dẫn để dịch một mình và cẩn thận kiểm tra các bản dịch của người khác, trong đó có Nguyễn Khánh Toàn một nghiên cứu viên và giảng viên lâu năm của Đại học Phương Đông. [228]
ẢO ẢNH ĐÁNG MẾN
Ngay sau Đại hội lần thứ nhất của ĐCSĐD, Đại hội lần thứ bảy của QTCS đã khai mạc tại Moscow vào mùa Hè năm 1935. Lê Hồng Phong và hai nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam khác đã tham dự và phát biểu tại Đại hội. Phong đã được bầu vào Ban chấp hành của QTCS, cơ quan hoạch định chính sách hàng đầu của nó – người Việt Nam đầu tiên có được vị trí đó. Đại hội lần thứ bảy đã cho phép một sự đảo ngược lớn trong chiến thuật của phong trào cộng sản thế giới. Thay vì tiến hành một cuộc chiến tranh tập thể chống lại giai cấp tư sản và chính phủ của họ, giờ đây các đảng cộng sản đã được chỉ thị để tạo thành liên minh rộng rãi với các nhóm phi công nhân khác để cô lập và đánh bại chủ nghĩa phát-xít. Ở châu Âu, điều đó có nghĩa là phải tạo ra “các mặt trận nhân dân” giữa những người cộng sản và các nhà dân chủ xã hội và cùng các nhà hoạt động công đoàn chống lại các chính phủ và đảng phái phát-xít. Tại các thuộc địa, nơi hiểm họa phát-xít còn xa: “các mặt trận dân chủ chống chủ nghĩa đế quốc” đã được thành lập để đoàn kết tất cả kẻ thù của chủ nghĩa đế quốc, kể cả giai cấp tư sản bản xứ. QTCS chắc chắn không kêu gọi các đảng cộng sản từ bỏ tầm nhìn cộng sản chủ nghĩa của họ; chỉ có chiến thuật đã được điều chỉnh.
Như với trường hợp của Đại hội lần sáu năm 1928 của QTCS, chính sách mới của Đại hội lần bảy phải mất một thời gian mới đến được Việt Nam. Lê Hồng Phong nấn ná ở Liên Xô và không trở về Trung Quốc cho đến tận giữa năm 1936. Trong thời gian đó, các ĐCSĐD rơi vào cuộc khủng hoảng khác. Gần như tất cả các ủy viên Ủy ban Trung ương mới được bầu tại Đại hội toàn quốc lần thứ nhất một năm trước đó đều bị bắt khi họ trở về Đông Dương.[229] Thực tế ĐCSĐD lại sụp đổ, mặc dù lần này tình hình không ảm đạm như năm 1931 nhờ sự tồn tại của Cục Hải ngoại dưới thời Hà Huy Tập. Tuy nhiên, sự u ám bao trùm một bản báo cáo mà Tập gửi đến QTCS vào thời điểm đó. Nhiều sinh viên tốt nghiệp từ Đại học Phương Đông đã trở về nhưng biến mất không dấu vết. Cục Hải ngoại nhận được khoản trợ cấp 2.000 đô-la mỗi năm từ QTCS, chỉ đủ để duy trì hai lãnh đạo ĐCSĐD (Hà Huy Tập và một người khác tên K.), những người cũng làm biên tập, in ấn, phân phối, biên dịch, viết mã và giải mã thư từ. Như Tập than thở:
“Tiền bạc luôn ám ảnh chúng tôi, ảnh hưởng đến sức khỏe và các sinh hoạt của chúng tôi…[Đây] là cuộc sống tha hương tự nguyện thật buồn thảm vì chúng tôi không có người thân, bạn bè, những người xung quanh giúp đỡ khi chúng tôi cần giúp đỡ và khi mọi việc không suôn sẻ. Là những nhà lãnh đạo của Đảng, chúng tôi chấp nhận và sẵn sàng hy sinh, nhưng những người khác không muốn cuộc sống như vậy [và đã từ bỏ chúng tôi]. Cục Hải ngoại phải làm việc trong những điều kiện kinh tế và chính trị khó khăn nhất. Cách xa đất nước , thiếu nhân viên và tiền bạc, thường bị phản bội và bị ‘khiêu khích’ trong 14 tháng qua – những điều này đã khiến chúng tôi thật khó khăn để làm việc tốt hay hiệu quả".[230]
May mắn thay, cuộc bầu cử đã bầu chính phủ Mặt trận Bình dân lên nắm quyền ở Pháp vào tháng 5 năm 1936 đã tạo ra một môi trường chính trị ít đàn áp hơn ở Việt Nam. Hàng nghìn chính trị phạm đã được trả tự do, trong đó có nhiều đảng viên ĐCSĐD. Cục Hải ngoại cũng bắt đầu thực hiện các chiến thuật mặt trận mới theo hướng dẫn của QTCS, kêu gọi các nhóm khác, bao gồm cả “VNQDĐ và tất cả các tổ chức dân tộc chủ nghĩa, phản đế, cải lương và các tổ chức phản động” cùng tham gia trong một ặt trận phản đế nhằm “giải phóng dân tộc”.[231] Trong truyền thông nội bộ, Cục Hải ngoại giải thích các chiến thuật mới như sau:
“Đảng Cộng sản [của chúng ta] là một đảng cách mạng kiên định. Trước tình hình hiện nay ở nước ta và trên thế giới, nhất là ở Pháp, Đảng ta cho rằng, trước mắt phải tranh thủ mọi mâu thuẫn trong nội bộ đế quốc và giữa các nhà tư bản bản xứ với các đối tác của chúng ở [Pháp]. Điều này sẽ giúp chúng ta đoàn kết tất cả các lực lượng cách mạng và đối lập để phát động cuộc đấu tranh chung chống chủ nghĩa đế quốc Pháp”.[232]
Các lãnh tụ của Đảng nói rõ rằng họ vẫn bám chặt thế giới quan cộng sản của mình, và xem mặt trận dân chủ chỉ đơn giản là một trong những “mưu kế” hay “thủ đoạn” để đối phó với kẻ thù và dẫn dắt quần chúng đến các mục tiêu cuối cùng của cuộc cách mạng.[233] Như các lãnh tụ của Đảng giải thích cho các đảng viên của họ “[chúng ta] tin vào chủ nghĩa quốc tế, không phải chủ nghĩa dân tộc, nhưng trong bối cảnh của một quốc gia đang nằm dưới hai ách bóc lột, chúng ta nên nâng cao tinh thần cho sự nghiệp giải phóng dân tộc trong khi ràng buộc nó với các lợi ích của quần chúng lao động [nghĩa là chúng ta muốn cuộc đấu tranh của chúng ta] có vẻ mang tính dân tộc chủ nghĩa ở bên ngoài nhưng bản chất là chủ nghĩa vô sản quốc tế ”.
Đặc biệt, các mục tiêu của mặt trận dân chủ là “đấu tranh cho quyền lợi của người dân và chống lại hệ thống thuộc địa vô nhân đạo [nhằm] tạo điều kiện cho phong trào giải phóng dân tộc phát triển”.[234] Được diễn dịch thành các chiến thuật, điều đó có nghĩa là Đảng sẽ không nêu ra các khẩu hiệu độc lập dân tộc và phân chia lại ruộng đất ngay từ bây giờ. Sự thay đổi chiến thuật này rất có ý nghĩa vì các nghiên cứu hiện có miêu tả Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập là “giáo điều” so với Nguyễn Ái Quốc “thực dụng”. Quyết định vào thời điểm này của Cục Hải ngoại chỉ ra rằng Phong và Tập thực dụng về mặt chiến thuật trong khi cam kết thực hiện các mục tiêu cấp tiến lâu dài. Chính sách của họ trong năm 1936-1939, vốn đã nhận được những phản đối gay gắt từ các nhóm Trotskist cũng không kém thực dụng hơn so với chính sách đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo Quốc trong những năm 1941-1945.[235]
Các nghiên cứu hiện tại cũng coi thường lòng trung thành tuyệt đối của Quốc và các nhà lãnh đạo ĐCSĐD khác đối với Stalin, bằng chứng là họ nhất trí và không nao núng ủng hộ chính sách đối ngoại của Liên Xô và những luận điệu thâm độc của họ chống lại những người Việt Nam theo chủ nghĩa Trotskist. Để chống lại những lời chỉ trích của những người Trotskyist đối với Stalin, các nhà lãnh đạo ĐCSĐD rất nỗ lực trình bày chính sách của Liên Xô là phù hợp với một cường quốc thế giới và một người bạn rộng lượng của các dân tộc bị áp bức. Mặc dù chính sách đối ngoại “đế quốc” luôn gắn liền với chiến tranh, nhưng chính sách của Liên Xô là hướng tới hòa bình. Khi Liên Xô tham gia Hiệp định Không can thiệp vào năm 1936, những người theo chủ nghĩa Trotskist ở Việt Nam đã chỉ trích chính sách này vì đã bỏ rơi những người Cộng hòa Tây Ban Nha.[236] Hà Huy Tập trả lời rằng chính sách của Liên Xô dựa trên tính toán rằng “lực lượng dân chủ nhân dân” ở Tây Ban Nha nếu không có sự trợ giúp của Đức và Ý sẽ nhanh chóng đánh bại tướng Franco của phe Quốc gia. [237] Các nhà lãnh đạo Liên Xô đã đoán trước rằng phát-xít Đức và Ý sẽ vi phạm hiệp định này, nhưng dù sao thì họ cũng đã ký hiệp định này, một phần để thể hiện mong muốn hòa bình của Liên Xô, và một phần để cung cấp cho thế giới bằng chứng cụ thể về bản chất tội phạm của các chế độ đó. Tập cho rằng, mặc dù đã có thỏa thuận nhưng Liên Xô vẫn hỗ trợ về vật chất và tinh thần cho những “công nhân anh hùng” của Tây Ban Nha.
Đối với ĐCSĐD, một lần nữa, khát vọng hòa bình nằm sau sự tham gia của Liên Xô vào Hội Quốc Liên. Trong khi đế quốc Anh và Pháp đã đầu hàng các cuộc tấn công của Hitler tại Munich, Liên Xô đã được mô tả trên báo chí cộng sản Việt Nam là cố gắng sử dụng Hội Quốc Liên để vực dậy một con kiến liên minh chống phát-xít.[238] Trong khi Anh và Pháp “âm mưu” với Đức và Ý nhằm cô lập Liên Xô, thì Moscow khôn ngoan và kiên quyết theo đuổi chính sách an ninh tập thể. Các ấn phẩm của ĐCSĐD im lặng hoặc bảo vệ về các cuộc thanh trừng của Stalin.[239] Mặc dù ĐCSĐD đề nghị cộng tác ngay cả với Đảng Lập hiến, đảng đại diện cho giới tinh hoa giàu có người Pháp ở Nam kỳ, nhưng Tập và các đồng chí của ông lại thù địch với những người theo chủ nghĩa Trotskist “bởi vì những người theo chủ nghĩa Trotskist chống lại Liên Xô, Đảng Cộng sản Pháp và Mặt trận Bình dân Pháp”.[240]
Trong khi Phong và Tập lãnh đạo ĐCSĐD ở miền Nam Trung Quốc và sau đó ở Sài Gòn, Nguyễn Ái Quốc trở lại Moscow. Khi đến Moscow vào tháng 7 năm 1934 sau khi mãn hạn tù ở Hồng Kông vào tháng 1 năm 1933, Quốc đã bị QTCS điều tra vì những nghi ngờ liên quan đến vụ mất tích không rõ nguyên nhân sau khi được thả khỏi Hồng Kông và mối quan hệ của ông với một lãnh tụ khác của ĐCSĐD, Lâm Đức Thụ, người sau đó bị phát hiện là gián điệp cho Pháp.[241] Tuy nhiên, ủy ban của QTCS được thành lập để điều tra Quốc vào tháng 2 năm 1936 đã kết luận rằng “không có bằng chứng nào để nghi ngờ lòng trung thành chính trị của [anh ta]”. Vụ án đã được tuyên bố khép lại. [242]
Năm 1938, Quốc lại được cử sang Đông Dương với tư cách là một điệp viên đáng tin cậy của QTCS.[243] Ông ở lại Trung Quốc trong những năm 1938-1940 như một sĩ quan trong Quân Giải phóng Trung Quốc, và viết nhiều bài báo ngắn trên báo của ĐCSĐD phát hành bên trong Việt Nam. Các nguồn tài liệu hiện có cho thấy Quốc hoàn toàn ủng hộ các hướng dẫn cụ thể của QTCS cho ĐCSĐD sau Đại hội lần thứ bảy. Về vấn đề mặt trận dân chủ, Quốc chuyển lời khuyên của QTCS tới ĐCSĐD rằng mặt trận nên cố gắng thu hút “các nhà tư bản dân tộc” càng nhiều càng tốt, nhưng nếu không thành công, nên “cô lập họ về mặt chính trị”. Tuy nhiên, đối với những người theo chủ nghĩa Trotskist: “không thể có bất kỳ thỏa hiệp, nhượng bộ nào.[ĐCSĐD] phải làm mọi cách để … loại bỏ chúng về mặt chính trị”. [244] Quốc không nói lời nào về những người theo chủ nghĩa Trotskist và ca ngợi các phiên tòa xét xử Stalin vào thập niên 1930 vì đã “vạch trần bộ mặt ghê tởm của chủ nghĩa Trotskist”. [245]
Mặc dù ban lãnh đạo ĐCSĐD thống nhất với lòng trung thành của họ đối với Moscow, các tranh chấp vẫn tồn tại về chính sách kết nạp đảng viên và về việc hợp pháp hóa đầy đủ các hoạt động của đảng. Lúc đầu, ĐCSĐD tạo ra một mặt trận thống nhất nhằm mở rộng các liên kết bên ngoài giữa ĐCSĐD và các đảng chính trị hoặc nhóm chính trị khác. Vào đầu năm 1937, chính sách đảng viên dường như vẫn còn hạn chế mặc dù đã nỗ lực hình thành một mặt trận dân chủ rộng rãi.[246] Những người nông dân ”nhiệt thành và trung thực” cũng như những người thuộc tầng lớp tiểu tư sản và các tầng lớp khác được mời tham gia Đảng, nhưng vẫn ưu tiên cho công nhân, nhất là những vị trí trong cơ quan hành pháp.[247] Các tổ chức quần chúng như Đoàn Thanh niên Cộng sản và Công Đoàn được yêu cầu sử dụng tất cả các hình thức hoạt động hợp pháp và bán hợp pháp, với các hoạt động bí mật dành riêng cho các tình huống mà các hình thức hợp pháp không thể thực hiện được. [248]
Tại cuộc họp được gọi là Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành TW vào cuối tháng 8 năm 1937, những lời chỉ trích bắt đầu được đưa ra về sự thất bại của Đảng trong việc mở rộng cơ sở đảng viên vào các nhóm thành thị.[249] Nghị quyết của cuộc họp cũng chỉ trích những Đảng viên hoạt động hợp pháp quá độc lập với Đảng (bí mật). Trong Hội nghị toàn thể lần thứ năm được tổ chức vào tháng 3 năm 1938, tình hình dường như trở nên tồi tệ hơn. Nhiều tổ chức bí mật của Đảng “không thể chỉ đạo” hoạt động của những đảng viên đang hoạt động công khai bởi những người này trong hầu hết các trường hợp là những chính trị phạm mới được thả, những người đã dày dạn chính trị và được giáo dục. Ngược lại, người đứng đầu của Đảng bí mật là thành viên mới với nền tảng văn hóa của công nhân, có ít kinh nghiệm và ít được giáo dục.[250] Hà Huy Tập đã bị chỉ trích tại Hội nghị toàn thể vì ngại tham gia các hoạt động hợp pháp và được thay thế bằng Nguyễn Văn Cừ, người chưa từng ra khỏi Việt Nam nhưng đã có thời gian đi tù ở Côn Đảo.[251] Không rõ tại sao Tập không hoàn toàn tán thành xu hướng hoạt động hợp pháp, nhưng vấn đề này nhanh chóng trở nên không còn quan trọng bởi sự bùng nổ của Đại chiến thế giới lần thứ Hai vào cuối năm 1939. Vài tháng sau, chính quyền thuộc địa tái áp đặt kiểm soát chính trị chặt chẽ và đặt chủ nghĩa cộng sản ngoài vòng pháp luật.
Điều thú vị nhất, khi các nhà lãnh đạo ĐCSĐD họp về cái mà sau này được gọi là Hội nghị toàn thể lần thứ sáu, họ đổ lỗi cho Pháp và Anh nhiều hơn là phe Trục đối với việc để chiến tranh bùng nổ.[252] Trong phân tích về tình hình thế giới tại Hội nghị toàn thể lần này, họ đã dồn dập chỉ trích “kẻ lừa đảo vĩ đại” Chamberlain, Thủ tướng Anh, người đã xoa dịu Hitler trong khi cản trở nỗ lực của Moscow nhằm tạo lập nền hòa bình. 253] Phản đối tuyên truyền của Liên Xô một cách rõ rệt, các nhà lãnh đạo ĐCSĐD cáo buộc Anh, Pháp, và “con chó Ba Lan trung thành” của họ bắt đầu chiến tranh vào năm 1939. Pháp, Anh và Ba Lan hành động như vậy vì họ sợ Liên Xô và phong trào cách mạng thế giới. Bây giờ chiến tranh với Đức đã bắt đầu, họ đã không từ bỏ thái độ bài Liên Xô của mình. Với sự giúp đỡ của Hoa Kỳ, Ý và Nhật Bản, họ vẫn đang cố gắng để Đức chống lại Liên Xô.
Đảng không có thay đổi chính sách có ý nghĩa nào trước tình hình mới. Các lãnh tụ của nó kêu gọi thành lập một mặt trận dân tộc mới để đoàn kết “tất cả các quốc gia, các giai cấp và các đảng phái chính trị đấu tranh chống lại các cuộc chiến tranh đế quốc, phát-xít xâm lược, đế quốc Pháp, hoàng gia An Nam và tất cả các tay sai của chúng”.[254] Chiến lược này dựa trên một phân tích giai cấp mới cho thấy rằng không chỉ nông dân và công nhân nghèo, mà cả giai cấp tư sản bản địa, địa chủ nhỏ và “trung lưu”, trung nông, và thậm chí cả tư sản nông dân thành thị cũng ghét người Pháp vì chiến tranh sẽ dẫn đến mức thuế cao hơn, sự trưng dụng của chính phủ, nhu cầu tiêu dùng thấp, giá nông sản giảm, chi phí sinh hoạt tăng, và cắt giảm lương.[255] Các nhà lãnh đạo Đảng tin rằng hầu hết tất cả người Việt Nam đều có thể là đồng minh của họ. Do đó “vì lợi ích của dân tộc”, họ quyết định rằng chương trình của một mặt trận phản đế mới không nên đề cập đến phân phối lại đất đai và sự hình thành của một chính phủ công-nông-binh. Tuy nhiên, nghị quyết của Hội nghị toàn thể nhắc lại rằng Đảng không từ bỏ những mục tiêu đó mà chỉ trì hoãn chúng. Nếu tình hình trở nên thuận lợi hơn, cuộc cách mạng sẽ và cần cố gắng đạt được những mục tiêu đó, và sau đó chuyển sang cách mạng vô sản, bằng bạo lực nếu cần.[256]
Chính sách của Đảng về ruộng đất ở thời điểm này gần giống với cương lĩnh chính sách trong “Luận cương chính trị” của Trần Phú từng thảo luận ở phần trước, trong đó kêu gọi tịch thu đất đai thuộc sở hữu của nhà thờ và “những kẻ phản bội” rồi chia lại. Đi xa hơn cả “Luận cương Chính trị” của Phú, nghị quyết của Hội nghị Trung ương 6 năm 1939 đã chỉ rõ rằng không được phép hình thành thị trường đất đai. Nông dân phải được cấp “đủ đất để sống”, và từ phần đất còn lại, chính phủ sẽ tạo ra các nông trang của nhà nước theo mô hình ‘Sovkhoz’ của Liên Xô.[257]
Hội nghị Trung ương lần thứ sáu đã được tổ chức khi ĐCSĐD bị chính quyền thuộc địa đặt ngoài vòng pháp luật. Trong vòng vài tháng, gần như tất cả các lãnh tụ cao nhất đều bị cảnh sát Pháp bắt giữ.[258] Nguyễn Văn Cừ và Hà Huy Tập sẽ sớm bị xử tử, trong khi Lê Hồng Phong bị đày ra Côn Đảo, nơi ông qua đời năm 1942. Một lần nữa, ĐCSĐD đứng trước bờ vực sụp đổ. Các chi tiết về những gì sau đó vẫn còn mờ mịt, nhưng Xứ ủy Bắc kỳ của Đảng đã sớm vào cuộc và tuyên bố họ chính là Ban chấp hành Trung ương Đảng mới. [259] Mặc dù có sự thay đổi hoàn toàn trong dàn lãnh đạo,[260] thế giới quan được thể hiện tại một cuộc họp vào đầu tháng 11 năm 1940, sau này được gọi là Hội nghị Trung ương lần thứ bảy trong lịch sử chính thức, vẫn nhất quán. Thậm chí, các nhà lãnh đạo mới cấp tiến hơn và ngôn ngữ của họ khoa trương hơn. Ví dụ, về tình hình quốc tế, nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ bảy bắt đầu bằng một thông báo ngắn gọn nhưng dũng cảm: Hội nghị Trung ương sẽ giới hạn việc phân tích cuộc chiến và phong trào cách mạng thế giới trong năm trước đó: “nói tóm lại, [để] các yếu tố cơ bản… sẽ dập tắt các đám cháy của chiến tranh đế quốc, phá hủy thế giới tư bản chủ nghĩa và xây dựng một cái mới: thế giới xã hội chủ nghĩa”.[261]
Nghị quyết mô tả Chiến tranh thế giới thứ Hai là một cuộc chiến tranh giành thuộc địa giữa các đế quốc đang trỗi dậy (Đức, Ý và Nhật Bản) với các đế quốc giàu có và lâu đời hơn (Anh, Pháp và Hoa Kỳ). Cuộc chiến được mô tả là đang đứng trước ngã ba đường quan trọng: mặc dù Đức và Ý hiện thống trị hầu hết lục địa châu Âu, nhưng họ sẽ cần thời gian để củng cố lực lượng trước khi tấn công Anh. Với việc Churchill làm thủ tướng mới, nước Anh dường như quyết tâm chống trả. Các nhà lãnh đạo ĐCSĐD coi chính phủ lưu vong của Tướng De Gaulle là “vong quốc nô”, những người dựa vào Anh nhưng không từ bỏ tham vọng đế quốc của họ.[262] Họ không có lực lượng đáng kể cũng như sự ủng hộ từ người dân của họ. Quan trọng hơn đối với Anh là sự trợ giúp của Hoa Kỳ. Quốc gia Hoa Kỳ ích kỷ, vốn duy trì chính sách trung lập từ trước, nay đã giúp Anh không chỉ đối phó với mối đe dọa phát-xít, mà còn giành quyền kiểm soát các căn cứ quân sự của Anh và tranh giành các nhượng bộ kinh tế khác.
Nhưng tại sao bè lũ đế quốc lại chiến đấu với nhau mặc dù tất cả đều muốn tấn công Liên Xô để “đốt cháy lò lửa cách mạng của thế giới”?[263] Các lãnh tụ ĐCSĐD tưởng tượng rằng Liên Xô đã ngày càng trở nên mạnh hơn, đó là lý do tại sao không ai trong số các quốc gia đế quốc muốn lấy trách nhiệm bắn phát súng đầu tiên chống lại Liên Xô. Để chuẩn bị cho cuộc chiến cuối cùng với Moscow, họ đã tiến hành cuộc chiến chống lại nhau để củng cố sức mạnh của mình trước. Do đó, Chiến tranh thế giới thứ Hai cuối cùng có thể nhắm vào Liên Xô. Tuy nhiên, vì các nước đế quốc đang chiến đấu với nhau, và chiến tranh đã thúc đẩy các cuộc nổi dậy lan rộng của các dân tộc bị áp bức, ngay cả khi các lực lượng đế quốc cuối cùng có thể thống nhất và tấn công Liên Xô, thì họ sẽ bị Hồng quân và các lực lượng cách mạng trên thế giới đánh bại [dễ dàng].
Hội nghị Trung ương thứ bảy cũng cố gắng bảo vệ Thỏa thuận Molotov-Ribbentrop giữa Stalin và Hitler. Tại sao lãnh đạo của phe cách mạng lại ký hiệp định đình chiến với phe phản cách mạng? Có đúng như những người theo chủ nghĩa Tờ-rốt-kít tuyên bố, rằng Liên Xô bận tâm đến việc phát triển chủ nghĩa xã hội và bỏ bê trách nhiệm của mình đối với các cuộc cách mạng ở những nơi khác không? Câu trả lời là Liên Xô đã can thiệp ngay từ đầu để ngăn chiến tranh lan rộng; trong quá trình đó nó đã khôn ngoan mở rộng ảnh hưởng của mình: “mà sẽ giúp tăng cường thành trì cách mạng thế giới”. Nga không âm mưu với bất kỳ nước đế quốc nào để cướp nền độc lập của Ba Lan và các nước Baltic; đúng hơn, nó đã giúp giải phóng các quốc gia nhỏ bé đó khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc.[264]
Các lãnh tụ ĐCSĐD lập luận thêm rằng phát triển chủ nghĩa xã hội ở một quốc gia có thể đóng góp vào cách mạng thế giới. Sự thành công của Kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1938-1941) đã biến Liên Xô trở thành “quốc gia hùng mạnh nhất trên trái đất”; điều này đã thay đổi cán cân lực lượng có lợi cho “phe cách mạng”.[265] Bằng chứng về sự gia tăng ảnh hưởng của Liên Xô đã được thể hiện trong thực tế là các đế quốc xâm lược và phản cách mạng nhất hiện nay đang cố gắng “nịnh hót” nó. Liên Xô đứng trên tất cả; nó không thèm quan tâm đến việc giúp một thế lực đế quốc chống lại một thế lực đế quốc khác. Những quốc gia cam kết không tấn công nó thì nó đều có quan hệ tốt (ví dụ, Hiệp ước Molotov-Ribbentrop). Sự tương phản giữa hai thế giới thật rõ rệt: “Trong khi thế giới tư bản bây giờ đầy tiếng than khóc, xương thịt nát tan, thì thế giới xã hội chủ nghĩa là một nơi tràn đầy tình nhân đạo, nơi mọi người được sống trong hòa bình và hạnh phúc”. Các lãnh tụ ĐCSĐD hy vọng sự tương phản này sẽ thúc giục các dân tộc và giai cấp bị áp bức ở khắp mọi nơi lật đổ chủ nghĩa đế quốc và đi theo sự lãnh đạo của Liên Xô.[266]
Về con đường cách mạng thích hợp cho Đông Dương, các lãnh tụ mới của ĐCSĐD đã làm sống lại quan niệm của Trần Phú về cách mạng dân chủ tư sản, đồng thời không đề cập đến chủ trương được đưa ra tại Hội nghị Trung ương lần thứ sáu là tìm kiếm sự liên minh của tất cả các giai cấp để thành lập một mặt trận chống đế quốc. Vì Đông Dương chưa được công nghiệp hóa, nên:
“Cách mạng Đông Dương chưa thể là cách mạng vô sản hay xã hội chủ nghĩa. Đó chỉ có thể là cuộc cách mạng dân chủ tư sản. Nó không phải là một cuộc cách mạng chỉ để giải phóng dân tộc vì nhiệm vụ của nó là đánh đổ không chỉ đế quốc [mà còn đánh đổ] phong kiến, thực hiện cải cách ruộng đất có lợi cho nông dân, phát triển công nghiệp và thành lập chính phủ dân chủ… Cuộc Cuộc cách mạng phản đế và [cải cách] ruộng đất phải đi đôi với nhau… Mặc dù lúc này [chúng ta có thể muốn] nêu cao khẩu hiệu giải phóng dân tộc…, nhưng không có [cải cách] ruộng đất thì sẽ khó khăn để cuộc cách mạng phản đế đi đến thành công".[267]
Cứ như thể Trần Phú chưa qua đời vào năm 1931. Sau một thập kỷ hỗn loạn trong nền chính trị thế giới và hai lần thay đổi hoàn toàn dàn lãnh đạo, khái niệm “cách mạng dân chủ tư sản” do Phú phát triển vẫn được các lãnh tụ ĐCSĐD ưa chuộng. Lý thuyết của ông đã trở thành chương trình mặc định của Đảng.
KẾT LUẬN
Trong cuốn hồi ký được đăng tải trên Internet sau khi qua đời năm 2010, Trần Văn Giàu, tốt nghiệp Đại học Phương Đông ở Moscow và là một lãnh tụ quan trọng của ĐCSĐD trong thập niên 1940, kể lại thời gian ông ở cùng Hà Huy Tập trong nhà tù Sài Gòn trong những năm 1939 -1940 trước khi Tập bị xử tử hình.[268] Năm 1928, Tập đã bỏ lại vợ và con gái của mình vào để đến Liên Xô. Họ đoàn tụ với nhau sau khi ông trở về Sài Gòn năm 1936. Trong khi Tập ở trong tù, người vợ đã gắn bó với ông suốt 8 năm xa xứ đã bỏ ông đi theo một người đàn ông khác. Nhiều ngày sau khi nhận được hung tin, Tập không ngủ được. Sức khỏe của ông suy giảm nhanh chóng đến mức ông phải nhập viện. Tuy nhiên, trong vòng một tuần, ông đã trở lại nhà tù, hoàn toàn khỏi bệnh. Như Giàu ở phòng giam cạnh Tập đã nói với chúng tôi, tại bệnh viện, Tập được xếp cùng phòng với Tạ Thu Thâu, một nhà lãnh đạo Tờ-rốt-kít nổi tiếng đã đề cập ở trên. Họ ngay lập tức tham gia vào một cuộc tranh luận gay gắt bên giường bệnh của họ: Thâu buộc tội những người Stalin-nít là phản động, và Tập phản đối bằng cách gọi những người Tờ-rốt-kít là bè lũ tư sản chống Liên Xô. Giàu biết được rằng cuộc tranh luận sôi nổi đó đã giúp Tập hồi phục.
Câu chuyện về Hà Huy Tập không chỉ gợi mở sức mạnh của tư tưởng và niềm tin ý thức hệ đối với những người cách mạng mà còn là lời chỉ dẫn cho việc đánh giá lại chủ nghĩa cộng sản Việt Nam trong thập niên 1930. Giai đoạn này được coi là thập kỷ mất mát của chủ nghĩa cộng sản Việt Nam. Huỳnh Kim Khánh viết:
“[V]ào đầu năm 1935, ĐCSĐD rõ ràng đã đi vào ngõ cụt… Bằng cách hy sinh chủ nghĩa yêu nước truyền thống của Việt Nam để theo đuổi chủ nghĩa quốc tế vô sản, ĐCSĐD đã tự ý rời khỏi dòng chính của nền chính trị Việt Nam. Khi Đảng hoàn toàn phục tùng ý chí của QTCS,… dưới sự chỉ huy của những người tả khuynh được đào tạo ở Moscow, phong trào cách mạng quần chúng một thời do Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí của ông trong VNTNCMĐCH đã trở thành vô giá trị đối với người Việt”.[269]
Khánh kết luận rằng sự suy tàn của ĐCSĐD tiếp tục cho đến cuối thập kỷ đó. Ngay trước Chiến tranh thế giới thứ Hai, do “chấp nhận một cách mù quáng các chỉ thị từ QTCS, thiếu sự lãnh đạo được chấp nhận rộng rãi và đường lối cách mạng phù hợp với điều kiện của Việt Nam, … ĐCSĐD đã “rơi vào tình trạng hoang mang về ý thức hệ và tranh chấp giữa các phe phái”.[270] Đối với Khánh, gốc rễ của những vấn đề mà ĐCSĐD phải đối mặt là sự “lu mờ” của Nguyễn Ái Quốc bởi “các nhà cách mạng chuyên nghiệp được đào tạo ở Moscow” như Tập và Phong. Mặc dù Quinn-Judge không tuyên bố sâu rộng như vậy trong cuốn tiểu sử về Hồ Chí Minh của bà như Khánh, bà mô tả khoảng thời gian vắng mặt của Quốc là một thời kỳ được đánh dấu bằng “sự tan rã”. [271]
Đúng là có những tranh chấp bè phái tồn tại giữa những người theo chủ nghĩa Stalin và những người theo chủ nghĩa Tờ-rốt-kít, chẳng hạn như giữa Tập và Thâu. Tuy nhiên, những tranh chấp đó không tạo ra sự mơ hồ về ý thức hệ. Chúng chỉ ra không phải sự phân hóa mà là sự phân cực. Chúng ta đã thấy quan niệm của Quốc về cách mạng Việt Nam đã phát triển như thế nào trong thập niên 1920 và hòa nhập vào cách mạng thế giới. Những tranh chấp giữa những người Việt theo chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Tờ-rốt-kít trong thập niên 1930 là một dấu hiệu cho thấy cách mạng Việt Nam đã được quốc tế hóa hoàn toàn và phản ánh đầy đủ sự phân cực trong phong trào cộng sản quốc tế. Thay vì tạo ra sự nhầm lẫn về ý thức hệ, sự phân cực đã cực đoan hóa những người Việt theo chủ nghĩa Stalin như Phong, Tập và Quốc, làm sâu sắc thêm lòng trung thành của họ với Stalin và Liên Xô.[272]
Mặc dù có hai lần thay đổi hoàn toàn dàn lãnh đạo, tính liên tục và thống nhất trong ĐCSĐD sâu sắc hơn nhiều so với nhận thức thông thường. Các lãnh tụ ĐCSĐD kiên định với thế giới quan chủ nghĩa Marx-Lenin của mình, họ tiếp tục điều chỉnh để phù hợp với thực tế đang thay đổi trong khi vẫn giữ được cốt lõi của nó. Đối với họ, chủ nghĩa Marx-Lenin không phải là một giáo điều theo nghĩa là một lý thuyết tồn tại biệt lập và độc lập với thực tế. Họ luôn rõ ràng về sự khác biệt giữa tầm nhìn và chiến thuật; cái sau có thể linh hoạt nhưng cái trước thì không. Đáng chú ý, Phong và Tập không phải là những nhà lãnh đạo giáo điều như các nghiên cứu hiện nay đánh giá. Trong giới lãnh đạo, Trần Phú, Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập chịu ảnh hưởng bởi tác phẩm [Đường Kách Mệnh] của Nguyễn Ái Quốc và họ hiếm khi chỉ trích cá nhân ông.
Một đặc điểm khác biệt của thập niên 1930 so với những thập kỷ trước và các thập kỷ sau là sự lãnh đạo mạnh mẽ của QTCS đối với ĐCSĐD. Moscow không chỉ cung cấp cho phân nhánh ĐCSĐD của mình các nguồn lực mà còn đưa ra các tư tưởng về tình hình thế giới. Sẽ vô cùng khó khăn cho các lãnh tụ ĐCSĐD để có được sự hiểu biết đầy đủ về chủ nghĩa Marx-Lenin nếu như họ không được đào tạo ở Moscow. Họ sẽ không thể phát triển và duy trì một thế giới quan toàn cầu về cách mạng và phản cách mạng nếu không được tiếp cận với các cuộc tranh luận trong phong trào cộng sản quốc tế, và thường là các hướng dẫn cụ thể của QTCS.
Như trong thập kỷ trước, ý thức hệ luôn mang tính nền tảng đối với các nhà cộng sản Việt Nam trong thập niên 1930. Ý thức hệ đã giúp Tập, Phong, Cừ và các đồng chí của họ kiên định trong những hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Nó giúp họ đặt cách mạng Việt Nam trong bối cảnh lịch sử thế giới và lý giải nguyên nhân và hậu quả có thể xảy ra của các sự kiện thế giới như Chiến tranh thế giới thứ Hai. Dựa trên những diễn giải đó, họ đã có thể đề ra những chiến lược phù hợp cho cuộc cách mạng của mình. Ý thức hệ cũng nhận được sự hỗ trợ vật chất từ Liên Xô và mạng lưới các phong trào cộng sản và công nhân xuyên quốc gia được Liên Xô tài trợ. Mạng lưới này đã giúp phong trào Việt Nam phục hồi sau sự tàn phá gần như hoàn toàn bởi sự đàn áp của thực dân vào năm 1931. Mạng lưới này cũng giúp các nhà cách mạng Việt Nam phối hợp chiến lược với phong trào cộng sản và công nhân thế giới. Tuy nhiên, phong trào toàn cầu và mạng lưới xuyên quốc gia chỉ hữu ích cho các nhà cách mạng Việt Nam vào thời điểm đó, nhưng không giúp họ thành công vào thời điểm cuối cùng. Nếu Liên Xô thua Đức, các nhà cộng sản Việt Nam sẽ phải chết. Nhưng sự đặt cược của họ đã được đền đáp, như chúng ta sẽ thấy trong chương tiếp theo.
VỀ TÁC GIẢ
Vũ Tường là Trưởng Khoa Chính trị học của Đại học Oregon (Hoa Kỳ) từ năm 2008. Ông cũng thỉnh giảng tại Đại học Princeton và Đại học Quốc gia Singapore. Nghiên cứu của ông tập trung vào các đề tài: chính trị học so sánh về sự hình thành nhà nước, các vấn đề về phát triển, chủ nghĩa dân tộc, và các cuộc cách mạng, đặc biệt là tại vùng Đông Á. Ông cũng là tác giả của cuốn ‘Paths to Development in Asia: South Korea, Vietnam, China, and Indonesia’ [Các con đường phát triển ở châu Á: Hàn Quốc, Việt Nam, Trung Quốc và Indonesia] (Cambridge University Press, 2010).