Đọc công trình của Thomas Piketty: TƯ BẢN Thế kỷ XXI (tiếp theo)

Nguyễn Quang

2 – Sự tập trung tư bản và thu nhập

Đứng về mặt cấu trúc, thì trong xã hội nào cũng vậy, sự bất bình đẳng về thu nhập có thể là tổng số của ba số hạng: bất bình đẳng về sở hữu tư bản và về thu nhập do tư bản mang lại; bất bình đẳng trong thu nhập lao động; và thứ ba là sự xâm nhập đan chéo giữa hai chiều kích nói trên, một trong những nhân tố của sự tương quan (theo nghĩa thống kê) này là hệ số β = C/R.

2.1 – Tập trung di sản: đối sánh Châu Âu và Mỹ

Sự “trở lại” của tích lũy tư bản đã rõ rồi, tự nhiên là ta hãy xem xét sự tập trung của tư bản. Nhìn chung, theo nhận xét của Piketty, “trong tất cả các xã hội được biết, ở thời đại nào cũng vậy, nếu ta chia dân số ra làm hai, nửa trên có nhiều tài sản hơn nửa dưới, thì tổng cộng tài sản của nửa dưới là không đáng kể (thường chỉ bằng 5 % tổng số tài sản), và nếu cộng tài sản của một phần mười những người giàu nhất, ta sẽ có hơn một nửa tổng số tài sản trong xã hội (thường là trên 60%, có nơi có thời lên tới 90%), và dân số còn lại (40%), tài sản của họ chiếm vài khoảng từ 5% đến 35% tài sản tổng cộng” (tr. 536). Biểu đồ 10.6 dưới đây cho thấy rõ điều đó. Xem xét kỹ hơn, ta còn rút ra thêm nhiều điều nữa:

– sau những đỉnh điểm quá quắt của “Thời đại Đẹp” (từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1914), những năm xáo trộn 1914-1950 đã làm sụt xuống tỉ suất gia sản của phần mười và phần trăm giàu nhất, nhưng từ giữa thập niên 1970 trở đi, tỉ suất này lại tăng lên, ở các nước Anh-Mỹ nhiều hơn ở các nước Châu Âu.

clip_image002

Biểu đồ 10.6: Bất bình đẳng về di sản ở Châu Âu và Hoa Kỹ 1810-2010
Cho đến giữa thế kỷ 20, bất bình đẳng về di sản ở Châu Âu lớn hơn ở Hoa Kỳ
NGUỒN: piketty.pse.ens/capital21c

– trái ngược với những định kiến phổ biến, sự bất bình đẳng về tài sản ở Hoa Kỳ không lớn bằng ở Châu Âu cho đến thập niên 1960; từ sau thập niên 1960 trở đi, bất bình đẳng ở Hoa Kỳ lớn hơn ở Châu Âu. Trên biểu đồ, đường Châu Âu và đường Hoa Kỳ chạy ở hai mức khác nhau, nhưng “song song” với nhau, đến thập niên 1960 thì giao nhau và đảo lộn trên dưới. Giải thích lịch sử: “Ở Châu Âu, xã hội đã hoàn toàn biến đổi trong thế kỷ XX: những chênh lệch giàu nghèo, cho đến chiều hôm trước Thế chiến lần thứ nhất vẫn to lớn như dưới Chế độ Quân chủ, đã giảm hẳn xuống một mức thấp chưa từng thấy, đến độ khoảng một nửa dân số đã có được một gia tài tối thiểu [xuất hiện một giai cấp trung lưu về gia sản], lần đầu tiên, tổng cộng chiếm một phần không nhỏ trong tư bản quốc gia [khoảng một phần ba]. Điều này giải thích một phần tại sao Châu Âu trong Ba mươi năm Vinh Quang đã sống trong một bầu không khí phấn khích lạc quan (người ta có cảm tưởng đã vượt qua chủ nghĩa tư bản, bất bình đẳng và xã hội giai cấp đang bị đẩy lùi vào quá khứ), cho nên rất khó mà chấp nhận sự thật là từ những năm 1980 trở đi, con đường thẳng tiến lên tiến bộ xã hội đã bị khựng lại […] Ở Hoa Kỳ, nhận thức khác hẳn. Trong một phạm vi nhất định, ngay từ đầu thế ký XIX đã tồn tại một giai cấp trung lưu (da trắng). Thành phần này đã bị khốn đốn trong những năm Gilded Age [thời kỳ thành hình những đại gia công nghiệp và tài chính], tươi tỉnh trở lại vào giữ thế kỷ XX, rồi lại khốn đốn trong những năm 1970-1980 […]. Ở Hoa Kỳ, thế kỷ XX không đồng nghĩa với bước nhảy vọt về công bằng xã hội. Bất bình đẳng về tài sản ở Mỹ đầu thế kỷ XX thậm chí còn lớn hơn hồi đầu thế kỷ XIX” (tr. 557).

– với xu thế đang đi lên, liệu hai đường biểu diễn sẽ bắt kịp những kỷ lục của đầu thế kỷ XX hay chăng? Hiện nay, đầu thập niên 2010, gia tài của phần mười giàu nhất chiếm khoảng 60% gia tài quốc gia. Hơn nữa (hay: tệ hơn nữa), phần trăm giàu nhất (nghĩa là 45 triệu người lớn trong số 4,5 tỉ người lớn) chiếm hữu 50% tài sản thế giới, nói cách khác, mỗi người trong nhóm 45 triệu này, nắm giữ một gia sản gấp 50 lần gia tài trung bình. Trong khi đó “nửa nghèo nhất trong dân chúng hầu như chẳng có của nả gì trong tay: 50% dân chúng ít của cải nhất, tổng cộng gia sản của họ chưa tới 10%, thậm chí chưa tới 5% gia sản tổng cộng […]. Tại Hoa Kỳ, cuộc điều tra mới nhất do Federal Reserve tổ chức cho biết phần mười giàu nhất trong dân số Mỹ sở hữu 72% của cải tổng cộng, còn nửa dân số nghèo chỉ sở hữu vỏn vẹn 2%. Có cần nói thêm rằng nguồn thông tin này, cũng như phần lớn các cuộc điều tra dựa trên bản khai, thường đánh giá thấp các tài sản đại gia” (tr. 404).

Cũng xin thêm một câu thôi, về những gia tài cao ngất này: chúng cao đến mức không thấy chúng chót vót tận đâu. Các nguồn thông tin duy nhất là: một là những bảng xếp hạng như của tạp chí Forbes, hai là các “báo cáo toàn cầu về của cải” (Global Wealth Reports) do một số cơ quan tài chính quốc tế (ngân hàng, công ti bảo hiểm…) công bố. Đó là những nguồn tin và ước tính không mấy chính xác, nhưng ít nhất là chúng tồn tại, và cho ta một ý niệm về đại lượng. Để bổ sung các dữ liệu của biểu đồ 10.6, với tất cả sự thận trọng cần thiết, ta có thể nói rằng “0,1% những người giàu nhất trên hành tinh này, tức là khoảng 4,5 triệu người (trên 18 tuổi) trong số 4,5 tỉ người trưởng thành trên thế giới, coi như có trong tay một tài sản bình quân mỗi người 10 triệu Euro, tức là gấp gần 200 lần tài sản bình quân trên thế giới, nghĩa là 4,5 triệu người này sở hữu 20% tài sản thế giới” (tr. 698).

Tóm tắt: Nói cách nào chăng nữa để mô tả mức độ tập trung của tư bản: 1% số dân thế giới sở hữu 50% tài sản toàn cầu, hay Tài sản của 1% giàu nhất tổng cộng lên tới 110 tỉ tỉ (trillion) đô-la, tức là 65% tài sản của nửa giàu nhất trong loài người, hay Nửa nghèo nhất của nhân loại, của nả của họ cộng lại mới bằng tài sản của 85 người giàu nhất thế gian, thì phản ứng duy nhất chỉ có thể là: kinh ngạc. Của đáng tội, đối với một nửa tay trắng của nhân loại, “khái niệm tài sản và tư bản là một khái niệm tương đối trừu tượng. (Đối với họ), gia sản vỏn vẹn là vài tuần lương ứng trước – hay chậm trả – trên cuốn sổ séc trong tài khoản ngân hàng, hay sổ tiết kiệm A xơ xác, cái xe hơi hay mấy cái bàn ghế trong nhà. Cái hiện thực sâu xa ấy – tài sản tập trung cao độ, tới mức mà đại bộ phận xã hội không biết ngay tới sự tồn tại của nó, đôi khi còn mường tượng rằng đó là của những thực thể huyền thoại hay những của những nhân vật hư ảo – càng cho thấy sự cần thiết phải nghiên cứu tường tận tư bản và sự phân bố của nó” (tr. 407)

2.2 – Bất bình đẳng trong thu nhập:

Trong các lực phân kỳ, ta đã thấy có bất đẳng thức r > g, thể hiện động lực của sự tích lũy tư bản. Nó đòi hỏi phải nghiên cứu sự bất bình đẳng không những về tài sản, mà cả về thu nhập. Kể từ thập niên 1980 và cuộc “cách mạng bảo thủ” của Reagan & Thatcher, hầu như cuộc tranh luận nào về bất bình đẳng cũng xoáy quanh (để tán thành hay phản đối) lập luận “trickle down” (chảy ròng từ trên xuống dưới), một cách diễn giải Lý thuyết về Công lý của John Rawls (1971): bất bình đẳng tăng lên thực ra không có gì đáng chê trách nếu như sự tập trung của cải rốt cuộc tạo ra được một động lực có lợi cho toàn bộ xã hội thông qua việc tạo ra những doanh nghiệp mới, công nghiệp mới, của cải mới. Người ta minh họa bằng hình ảnh của cải như dòng suối chảy từ đỉnh tháp xuống chân tháp. Ở các nước Anh-Mỹ, người ta ưa dùng một hình ảnh “nước đẩy thuyền lên” rất ư là Nguyễn Trãi: “Tăng trưởng là làn sóng thủy triều đẩy mọi con thuyền lên cao” (Growth is a rising tide that lifts all boats). Cũng nên nhắc lại lập luận này chỉ là phóng tác kiểu “tân tự do” của một lý thuyết dựa trên “đường cong Kuznets” (1955) dùng để tiên đoán rằng sự bất bình đẳng về thu nhập sẽ “tự nhiên” giảm bớt đi khi bước vào những thời kỳ chủ nghĩa tư bản phát triển (bất luận chính sách nào được chọn hay đặc điểm riêng của mỗi nước) để rồi cuối cùng sẽ bình ổn ở một mức chấp nhận được. Kuznets căn cứ vào một công trình thống kê chi ly, lập ra những chuỗi số liệu về phân bố thu nhập ở Hoa Kỳ trong thời gian 35 năm (1913-1948) để tính toán diễn biến thu nhập của những tầng lớp phần trăm và phần mười giàu nhất. Kuznets đã phát hiện ra điều gì? Thu nhập của tầng lớp này đã tụt hẳn xuống trong thời gian 35 năm đó, “tụt xuống hơn 10 điểm bách phân của thu nhập quốc gia, tức là rất nhiều, tương đương với thu nhập của toàn bộ 50% người Mỹ nghèo nhất” (tr. 33). Piketty nhận xét: Kuznets thừa biết rằng sự giảm cách biệt này không phải ngẫu nhiên mà có (hai cuộc thế chiến, đại khủng hoảng kinh tế, chính sách thuế má mang tính “tịch thu” của Roosevelt, thuế suất lên tới 94% đánh vào những thu nhập cao nhất), nhưng vì những lý do thuần túy ý thức hệ (đọc tình tiết trong các trang 34-37), Kuznets đã làm ngơ, để mặc cho lan truyền “lý thuyết đường cong Kuznets”, theo đó “trong quá trình công nghiệp hóa và phát triển kinh tế, các bất bình đẳng ở nơi nào cũng thế, sẽ đi theo một đường biểu diễn hình chuông, nghĩa là lúc đầu thì tăng lên, rồi sau đó giảm xuống”. Nhưng khi người ta áp dụng chính những phương pháp mà Kuznets sử dụng, nhưng mở rộng quy mô không gian và thời gian, thì lại được “đường cong Piketty thứ nhì” mô tả diễn biến tỉ suất thu nhập của phần mười giàu nhất, phô bày ra một thực tại ngược lại hẳn! Đó là: không hề có một quy trình có tính “cấu trúc” nào của sự giảm bớt bất bình đẳng, đặc biệt ở nước Mỹ vẫn tự vỗ ngực mình là xứ sở của “giai cấp trung lưu”, sang đầu thế kỷ XXI này, đã trở thành quốc gia bất bình đẳng nhất thế giới. (Về mặt phương pháp luận, cuộc tranh luận này khiến ta liên tưởng tới cuộc tranh luận ở phần trên, về tỉ suất lợi nhuận có xu hướng giảm).

clip_image004

Biểu đồ I.1 Bất bình đẳng trong thu nhập ở Hoa Kỳ, 1910-2010

Cách đọc: Tỉ lệ trong thu nhập toàn quốc của phần mười giàu nhất Mỹ, trong những năm 1910-1920 chiếm 45-50%, sang thập niên 1950, đã xuống dưới mức 35% (đó là những đo lường của chính Kuznets); sau đó từ thập niên 1970 sang những năm 2000-2010, nó đi từ dưới mức 35% lên 45-50% (Nguồn: piketty.pse.ens.fr/fr/capital21c)

Đường cong đi lên rất ấn tượng, tự nhiên là ta tự hỏi nó sẽ leo lên tới đâu: nếu cứ theo nhịp độ này, thì phần bách phân của phần mười giàu nhất, đến năm 2030, sẽ chiếm hơn 60% thu nhập quốc gia” (tr.464).

Đến đây, có lẽ không thừa nếu cung cấp cho bạn đọc một ý niệm cụ thể về mức độ thu nhập trung bình (từ đó, muốn tính ra tài sản bình quân, chỉ cần nhân lên với hệ số β) và trung vị. Đầu thập niên 2010, thu nhập trung bình ở các nước phát triển là vào khoảng 2 500 €/tháng, còn thu nhập trung vị*thấp hơn khoảng 20%-30%, tức là khoảng 1 800 €/tháng. Để thấy được sự chênh lệch, thì khái niệm trung vị có ý nghĩa hơn khái niệm trung bình. Bạn hãy tưởng tượng một ngày đẹp trời bạn đi cùng chuyến bay với Bill Gates. Và ngồi tính thu nhập trung bình của hành khách trong chuyến bay ấy, thì bạn sẽ rất phấn khởi khi thấy “thu nhập” của mình bỗng được nhân lên gấp ít nhất một triệu lần!

Nhìn vào bậc thang thu nhập theo cả hai chiều, ta hãy ghi nhận Eurostat định nghĩa ngưỡng nghèo khó ở mức 60% thu nhập trung vị; tại Pháp, viện thống kê INSEE định nghĩa “người thu nhập cao” là phần mười giàu nhất trong các bảng của Piketty (mức thu nhập thấp nhất của những người này ở vào khoảng gấp đôi thu nhập trung vị, nghĩa là cũng không có gì ghê gớm). Nhưng đó là nhìn thống kê bằng kính lúp. Phải dùng kính hiển vi mới có thể mổ xẻ bên trong tầng lớp phần mười, bởi vì “ta không thể tiếp cận sự giàu sang thực thụ bằng cách leo từng bậc thang đều đặn, bởi vì ở phần trên cùng của cái thang, không còn sự liên tục nữa” ([P], tr.29). Trong các bảng và biểu đồ, Piketty chia phần mười trên cùng làm ba nhóm: 5% thấp nhất, 4% trên đó, và 1% trên cùng (tại Hoa Kỳ, thu nhập trung bình tính theo “hộ đóng thuế” của những người thuộc phần trăm trên cùng này là 1,5 triệu USD). Đo bằng cách này, ta mới hiểu rõ hơn quy mô sự chuyển dịch thu nhập quốc gia Mỹ – khoảng 15 % tổng thu nhập quốc gia – diễn ra giữa 90% là những người nghèo nhất và 10% là những người giàu nhất từ thập niên 1970 trở đi. Cụ thể là, nếu ta tính tổng cộng sự tăng trưởng của nền kinh tế Mỹ trong suốt 30 năm trước cuộc khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn “subprime” (tức là từ 1977 đến 2007), sẽ thấy 10% giàu nhất thôn tính 75% tăng trưởng; và nhìn soi mói hơn nữa: nhóm 5% ở “dưới” chiếm từ 5 đến 6%; nhóm 4% ở giữa chiếm khoảng 16%, còn một mình 1% “top” xơi gần 60%; kết quả là tỉ suất tăng trưởng của thu nhập trung bình ở vào khoảng 0,5% mỗi năm cho nhóm 90% dân số còn lại (tr. 469). Nói như Serge Halimi (nguyệt san Le Monde Diplomatique), đúng là thủy triều lên cao, nước đã dâng thuyền, nhưng trước hết là các du thuyền hạng sang.

clip_image005

Cảnh sát đứng canh tượng con bò tót khi phong trào “Chiếm phố Wall” tuần hành gần đó ngày 17 tháng 11-2011 ở New York. Ảnh Getty Images.

Sự “đăng quang” của phần trăm thượng đỉnh tự nhiên là một hiện tượng có tính chất toàn cầu. “Tuy thoạt trông có v hơi trừu tượng, nhưng hiện tượng này chiếu rọi vào những diễn biến ngoạn mục của những sự bất bình đẳng, vào những hiện thực kỳ thú, qua đó nó mang lại một cách đọc khá bổ ích về xã hội, trong bối cảnh những cuộc vận động xã hội – chính trị lớn [như phong trào Occupy Wall Street, xem hình trên], phát huy từ những khẩu hiệu tiên thiên khá bất ngờ (“We are the 99%” / Chúng tôi là bọn 99%), nhưng cuối cùng không khỏi làm người ta nhớ tới tinh thần bài bút chiến của tu sĩ Sieyès công bố hồi tháng giêng năm 1789: “‘Tiers état’ [đẳng cấp thứ ba trong xã hội Pháp trước cách mạng] là gì? Là tất cả. Cho đến nay, như về mặt chính trị, nó là gì? Chẳng là gì cả. Nó đòi hỏi cái gì? Nó muốn trở thành cái gì đó trong đời sống chính trị” (p.399).
Phân tích cái phần mười bên trên một cách tế vi sẽ cho ta những bài học bổ ích về sự phân chia lao động – tư bản, trong chừng mực mà nó làm hiện hình “hai thế giới rất khác nhau, một bên là 9% vẫn chịu sự chi phối của thu nhập lao động, và bên kia là 1% tột đỉnh, là thành phần mà thu nhập tư bản lấn át dần thu nhập lao động. Mọi sự chuyển tiếp đều diễn ra một cách tuần tự, ranh giới phân chia đầy lỗ trống để sự thẩm thấu có thể diễn ra, nhưng khác biệt thì rất rõ ràng và có tính hệ thống […]. Sự phân bố 80%-20% giữa lao động và tư bản tương đối tiêu biểu cho cơ cấu thu nhập của nhóm 9% […]. Ngược lại, trong nội bộ nhóm 1%, thu nhập từ lao động dần dần trở thành thu nhập thứ yếu, thu nhập từ tư bản dần dần trở thành thu nhập chủ yếu” (tr. 442).

Cũng như trong trường hợp các tài sản, chúng ta hãy dành vài câu cho phần nghìn (tức là 0,1%) có thu nhập cao nhất, cũng là khu vực mà thu nhập tăng mạnh nhất. Ở Châu Âu lục địa và ở Nhật chẳng hạn, trong mấy thập niên gần đây, thu nhập của số phần nghìn này đã tăng gần gấp đôi, từ 1,5% lên tới 2,5%. Nhưng ở Hoa Kỳ, là cả một sự bùng nổ: từ 2% lên 10% (cùng thời kỳ). Để bạn đọc cảm nhận rõ nét hơn, xin nhắc lại là 2% (hay 10%) thu nhập quốc gia dành cho 0,1% dân số có nghĩa là: thu nhập của mỗi người trong nhóm này có thu nhập gấp 20 lần (hay 100 lần) thu nhập trung bình. Và để cho con số “hiển ngôn” hơn nữa, có thể nói ở Pháp, mỗi người trong nhóm này mỗi tháng thu nhập gấp 50 lần SMIC (mức lương tối thiểu), và hàng năm, thu nhập của người ấy lớn hơn thu nhập cả đời lao động của một người ăn lương SMIC. Nếu tính theo tình hình bên Mỹ, lương tối thiểu theo quy định của chính phủ liên bang bằng khoảng một phần ba SMIC Pháp, thì thu nhập một năm của 0,1% Mỹ bằng 12 đời ky cóp của cháu, con, cha, ông, cụ, kỵ…. Mỹ ăn lương tối thiểu.

Tóm tắt: Tuy không lớn bằng bất bình đẳng về tài sản, nhưng bất bình đẳng trong thu nhập (nhất là sự “đứt phanh” của phần trăm phần nghìn thu nhập cao nhất) hàm chứa một cơ chế mạnh mẽ, kết hợp với khoảng cách (r – g), sẽ đẩy mạnh sự phân kỳ trong phân phối tài nguyên. Ta có những lí do chính đáng để nghi vấn về sự bền lâu của một xã hội, một nền kinh tế bị chi phối bởi những lực li khai như thế.

clip_image006
Javier Jaén “Phân kỳ

 

3 – Bất bình đẳng, “tài năng trị”, và tập đoàn “thiểu trị”

Tự do, bình đẳng, bác ái” là tiêu ngữ của nền cộng hòa, nhưng ngày nay, trong ba giá trị ấy, “bình đẳng” (trong đó có bình đẳng về các quyền) xem ra là giá trị hơi bị hẩm hiu. Lôgic nào về bình đẳng và về các quyền cho phép chúng ta khẳng định như vậy? Điều thứ nhất trong Tuyên ngôn Quyền con người và công dân năm 1789 nói “người ta sinh ra và sống tự do và bình quyền” rồi nói thêm ngay (Piketty đã trích dẫn ở đầu cuốn sách): “Những sự phân biệt trong xã hội chỉ có thể dựa trên sự công ích”. Câu hỏi đặt ra, thế nào là “công ích”. Các nhà soạn thảo Tuyên ngôn 1789 chú tâm trước hết vào việc bãi bỏ những đẳng cấp và đặc quyền của Chế độ Quân chủ, nhưng ta có thể mở rộng diễn giải ý định của họ như thế này “mở rộng trong phạm vi có thể các quyền cơ bản và lợi ích vật chất tới mọi người, làm sao có lợi cho những người có ít quyền hơn và phải đối diện với những cơ hội không rộng rãi bằng người khác” (tr. 768). Nhưng ngay như vậy, bài toán cũng chưa được giải quyết, ở cả hai “đầu” của vấn đề. Ở đầu này, thí dụ như “nguyên tắc khác biệt” mà John Rawls đưa ra trong A Theory of Justice (cuốn sách đã bị lợi dụng để đưa ra chuyện “nước chảy ròng xuống” trickle down): nguyên tắc này cũng tương tợ về công bằng xã hội. Nhưng ở “đầu” kia, quan niệm “tài năng trị” (méritocratie: quyền cai trị dành cho những người có tài năng “xứng đáng”) cũng giống như “chủ nghĩa ưu tú” (élitisme). Thí dụ điển hình là bản “sự vụ lệnh” năm 1872 mà Emile Boutmy, nhà sáng lập “Sciences-Po”, trao cho trường chính trị học này: “Những giai cấp tự nhận là giai cấp thanh cao, vì buộc phải quy phục quyền hành của số đông, chỉ có thể duy trì được bá quyền chính trị của mình bằng cách viện dẫn cái quyền của người có tài năng nhất; làn sóng dân chủ, sau khi đã tràn qua vòng tường thành xập xệ của đặc quyền và truyền thống, nay vấp phải thành lũy thứ nhì làm bằng những tài năng sáng chói, ưu việt và hữu ích, có điên rồ mới không chịu trọng dụng”; nói khác đi, “chính vì bản năng sinh tồn mà các giai cấp bên trên đã từ bỏ sự nhàn hạ, ăn không ngồi rồi mà bày ra câu chuyện tài năng trị, quyền bính về tay những phần tử ưu tú, để chế độ phổ thông đầu phiếu không truất hết quyền lợi của họ” (tr. 782). Đây không phải chỗ để đi sâu vào cuộc tranh luận lý thuyết về các quan niệm khác nhau về công bằng xã hội (xem chẳng hạn [AE], trang 70 và tiếp theo), dưới đây chúng tôi chỉ nêu ra những luận điểm thực chứng để phản bác thuyết “nước chảy ròng xuống”.

3.1 – Cái “được thua” về kinh tế:

Để trả lời câu hỏi then chốt mà những người thuộc trường phái “tân tự do” thường nêu ra: “Sự bình đẳng, hay lắm, nhưng liệu nó đem lại được mấy điểm bách phân cho sự tăng trưởng?” ta có thể đốp chát bằng câu hỏi ngược lại, cũng rất hữu lý: “Bất bình đẳng làm mất đi bao nhiêu điểm bách phân cho sự tăng trưởng?

– Trên biểu đồ I.1 (bất bình đẳng về thu nhập ở Hoa Kỳ), ta thấy có hai đỉnh cao tuyệt đối ở thời điểm 1928 và 2007, tức là chiều hôm trước của cuộc Đại khủng hoảng 1929 và của cuộc Khủng hoảng subprimes năm 2008. Không thể không đặt ra câu hỏi: phải chăng bất bình đẳng là nguyên nhân (tất nhiên không phải là nguyên nhân duy nhất) đã gây ra khủng hoảng? Bất luận thế nào, “không nghi ngờ gĩ nữa, bất bình đẳng tăng lên đã góp phần làm suy yếu hệ thống tài chính Mỹ. Hậu quả của nó là sức mua của các giai cấp bình dân và trung lưu hầu như bị khựng lại, tất nhiên làm tăng xu hướng mang thêm nợ ở các hộ gia đình không dư dả; nhất là trong khi đó các ngân hàng và các trung gian tài chính không mấy lương thiện lại mời chào những tín dụng ngày càng dễ dàng, không còn những ràng buộc chặt chẽ và quy định hóa, mục đích là kiếm được lợi tức cao cho khối lượng tiết kiệm khổng lồ mà các giai cấp khá giả đã bơm vào hệ thống” (tr. 469).

Dầu sao chăng nữa, cuộc Đại suy thoái 2008 (như ngày nay người ta thường gọi) đã làm tăng những bất bình đẳng: các ngân hàng đã tạo ra cuộc khủng hoảng toàn cầu thì được hỗ trợ hàng tỉ đô-la, còn các nạn nhân của họ thì nhận được tí chút gọi là; hai ba năm sau (xem biểu đổ I.1 để thấy đường cong tiếp tục đi lên) các ngân hàng đều bình phục, còn nạn nhân của họ thì mất sạch sành sanh hay bị trục xuất khỏi nhà.

– Trong mục “The Great Divide” mà ông đảm nhiệm trên báo New York Times, giải Nobel kinh tế học Joseph Stiglitz nói tới “những câu chuyện đau lòng và nỗi ẩn ức của những người trẻ tìm cách hội nhập vào giai cấp trung lưu đang teo dần. Học phí tăng, thu nhập giảm, nên nợ nần thêm nặng. Những người chỉ tốt nghiệp trung học, thì thu nhập của họ trong 35 qua đã giảm đi 15%” (xem [St]). Những câu chuyện như vậy được xác nhận trong công trình của những nhà nghiên cứu như Goldin và Katz. Họ đã “đối chiếu một cách có hệ thống sự diễn biến trong thời gian từ 1890 đến 2005 của: một mặt là độ chênh lệch lương bổng giữa những người tốt nghiệp đại học và những người học xong trung học thì đi làm; mặt khác, nhịp độ tăng trưởng của số người tốt nghiệp đại học. Kết luận là không thể tranh cãi: hai đường biểu diễn đi ngược nhau. Cụ thể, chênh lệch lương giảm đều đặn cho đến thập niên 1970, sang đến thập niên 1980 [chính quyền Reagan] thì tăng lên trở lại, đúng vào thời điểm mà số người tốt nghiệp đại học, lần đầu tiên, bắt đầu khựng lại, hay ít nhất cũng tăng chậm hơn trước. Đối với hai nhà nghiên cứu này, không thể nghi ngờ gì nữa: sự gia tăng những chênh lệch về lương bổng phát sinh từ việc Hoa Kỳ đầu tư không đủ và giáo dục đại học, nói chính xác hơn, đặc biệt là vì học phí quá cao đối với các gia đình” (tr. 485). Tình trạng bất bình đẳng đã tới mức, chỉ cần nhìn vào thu nhập của một gia đình, xem họ thuộc phần mười, phần trăm nào trong bậc thang thu nhập, là biết ngay con cái của họ có thể vào đại học hay không. Thế mà, ta đã chẳng thấy ở trên (phần 1.2), một trong những nhân tố quyết định của sự tăng trưởng, chính là đầu tư vào giáo dục và đào tạo?

– Cũng trong loạt bài này, Stiglitz tố cáo sự làm giàu của giới y tế (công nghiệp dược phẩm, bác sĩ, công ti bảo hiểm) trong khi mà khoản trợ cấp y tế cho người nghèo khó (Medicaid) bị cắt xén, còn chương trình Obamacare tuy đã bị khoét ruột vẫn sa lầy trong trò cù nhầy đủ loại. “Thực ra, nếu tính cả phỉ tổn bảo hiểm tư, thì hệ thống bảo hộ sức khỏe Mỹ là hệ thống tốn kém nhất thế giới (chiếm gần 20% thu nhập quốc gia, còn ở Châu Ẩu chỉ ở khoảng 10%-12%), trong khi một bộ phận lớn trong dân chúng lại không được bảo hộ, và các chỉ số y tế xem ra lại thua kém Châu Âu” (tr. 762). Thử hỏi mất đi bao nhiêu điểm đối với một nền kinh tế muốn có sức cạnh tranh cao?

– Hiệu ứng ngược của “sự phân kỳ Piketty”, như đã nói, là di sản thừa hưởng từ quá khứ lại tái tư bản hóa nhanh hơn là tiến độ của sản xuất và lương bổng; thêm vào cơ chế ấy là sự bất bình đẳng về lợi tức (vốn ban đầu càng to thì lợi tức càng lớn), nên đáng ngại là “quá khứ nuốt chửng tương lai” (tr. 942), nghĩa là, trong khuôn khổ thảo luận ở đây, xã hội của nhà doanh nghiệp biến thành, từng bước và không gì ngăn cản nổi, xã hội của những người thực lợi (rentiers) ngồi ăn tô tức (theo nghĩa thế kỷ XIX) và của những con ông cháu cha. “Ta hãy xem một thí dụ rõ ràng, ở trên tận cùng của bậc thang tư bản thế giới. Từ 1990 đến 2010, gia tài của Bill Gates – nhà sáng lập Microsoft, đại gia số 1 về hệ điều hành tin học, hiện thân của sự làm giầu bằng kinh doanh, số 1 trên bảng xếp hạng của tạp chí Forbes – từ 4 tỉ đô la lên tới 50 tỉ đô la. Trong khi đó, gia sản của bà Liliane Bettencourt – người thừa hưởng công ti Oréal, đứng đầu các công ti mĩ phẩm, mà người sáng lập là thân sinh của bà, Eugène Schueller, nhà phát minh thiên tài năm 1907 đã chế ra những thứ thuốc nhuộm tóc – từ 2 tỉ đô la đã lên tới 25 tỉ đô la (vẫn theo Forbes). Trong cả hai trường hợp, tiến độ tăng trưởng di sản của họ là 13% mỗi năm – hiệu suất thực thụ là 10%-11% nếu ta trừ đi lạm phát. Nói khác đi, bà Liliane Bettencourt chưa bao giờ lao động, nhưng chẳng sao, gia tài của bà vẫn tăng cùng tốc độ với gia tài của Bill Gates, nhà phát minh, mà gia tài của ông này, từ khi ông ngừng tác nghiệp đến giờ, vẫn tiếp tục tăng trưởng nhanh như trước […]. Lại xem trường hợp của Steve Jobs, hiện thân một doanh nhân dễ mến và xứng đáng có một gia tài to lớn: khi công ti Apple lên tới đỉnh cao của quang vinh và của thị trường chứng khoán, thì gia tài của S. Jobs chỉ tròm trèm 8 tỉ đô la, tức là nhỏ gấp 6 lần gia tài của ông chủ Microsoft (mà theo các nhà quan sát, S. Jobs sáng tạo hơn B. Gates rất nhiều), và nhỏ gấp 3 lần gia tài của bà Bettencourt (bà này nổi tiếng nhất là vì những món quà mà bà đã ban phát cho đám nịnh thần và lợi dụng, theo những tiết lộ trong “vụ Bettencourt”)” (tr. 703). Khi Mervyn King, thống đốc Ngân hàng Vương quốc Anh, biện minh cho sự giàu có của người giàu bằng may mắn, học vấn và tài năng, thì rõ ràng ông ta chưa đọc cuốn sách của Piketty cho đến trang chót. Thậm chí không biết nhà tài chính vĩ đại này có hiểu gì về khái niệm “nợ xã hội” mà triết gia Léon Bourgeois (thế kỷ XIX) đã trình bày. Nợ xã hội, là toàn bộ sự vật vật thể và trí tuệ mà mỗi cá nhân sống trong một xã hội có thể (phải) sử dụng: nền nông nghiệp nuôi sống anh ta, nhà cửa cho anh ta nương náu, trường học dạy dỗ anh ta, y tế chăm lo sức khỏe, tri thức khoa học và triết học đưa anh ta lên khỏi trình độ của thiên nhiên hoang dã. Những điều kể trên không phải là lý thuyết, mà là thực tiễn của sự tập luyện và tiến bộ. Ngay từ lúc chào đời, mỗi con người xã hội vô hình trung đã đứng trên vai những người khổng lồ tiền bối, nói theo hình ảnh của Newton. Cá nhân như thế, doanh nghiệp cũng vậy: sự phát triển kinh tế, dù đứng ở quan điểm “tự do chủ nghĩa” chăng nữa, không xuất phát từ hư vô, mà dựa trên những cơ sở hạ tầng xã hội của một Quốc gia, cung cấp vốn con người (giáo dục, y tế) và những định chế (thị trường có tổ chức, Nhà nước pháp quyền), không có những thứ đó thì tư bản chỉ là một đống tiền nằm ngủ. Thử hỏi những “tài năng” mà thống đốc Kings ca ngợi có thể làm nên cơm cháo gì ở một nơi khỉ ho cò gáy thiếu vắng mọi cơ sở và định chế, thí dụ như vùng Laponie. Tóm lại, không ai sống trong xã hội, không một doanh nghiệp hoạt động trong xã hội lại có thể nói mình không dính dấp gì với những quan hệ tương tác giữa con người với nhau cả. Thế mà trong sự tôn sùng tài cán và thành đạt của trường phái “tân tự do”, lại ẩn tàng ý tưởng giải trừ mọi quan hệ liên đới.

– Thuế má là một vấn đề cộng tồn với tô tức và thừa kế. Trong cái lôgic của “nước chảy ròng xuống”, sự tái phân phối được tiến hành một cách tự nhiên theo luật chơi của tiêu thụ và đầu tư của tư nhân, và những người thụ hưởng những thu nhập cao không hề chiếm đoạt của cải làm tổn hại những người thu nhập thấp, họ chỉ thực hiện việc phân chia chúng mà không có sự can thiệp của Nhà nước. Trong viễn tượng ấy, việc có thể giảm thuế (kể cả đối với những người dư dả nhất) có thể giảm bớt mà không ảnh hưởng thực sự gì tới sự tái phân phối của cải cho số đông người dân. Có cả những mô hình lý thuyết u minh được giới thiệu là chúng “chứng minh” tại sao phải miễn thuế, thậm chí trợ cấp cho người giàu – trong phần phụ lục công bố trên mạng, Piketty đã đưa danh sách một vài “mô hình” ấy. Nhưng thực ra, nói theo cách diễn tả của Joseph Stiglitz, “nước chảy ròng” chưa xuống tới dưới thì đã “bốc hơi” sang đảo Caïman và các “thiên đường trốn thuế” mất rồi. Ta có thể nhận thức được quy mô của hiện tượng này khi thấy cán cân toàn cầu về tài sản có và tài sản nợ bao giờ cũng chênh lệch một cách hệ thống, tưởng như bình quân hành tinh Trái Đất do Hỏa tinh nắm giữ, như Piketty nói mỉa mai. Piketty đưa ra thí dụ cuộc khủng hoảng năm 2013 ở đảo Chypre, trong đó “các nhà đương cuộc châu Âu cũng như Quỹ tiền tệ IMF thực sự không hề biết những ai là người nắm giữ các tích sản tài chính ở Chypre, nhất là con số chính xác về tài sản của từng người, vì vậy mà họ đã triển khai những giải pháp thô thiển và vô hiệu […] Đòi lèo lái hiệu quả một cuộc khủng hoảng tài chính thế giới kinh qua một đám sương mù thống kê như vậy thì quả là không nghiêm chỉnh cho lắm” (tr. 842). Như thế đã mất đi bao nhiêu điểm bách phân cho sự tăng trưởng vì những thiên đường trốn thuế mà năm 2008, Nicolas Sarkozy đã oai phong lẫm liệt, tuyên bố là “từ nay đã chấm dứt”? Gabriel Zucman, một trong những người cùng viết những bài nghiên cứu với Thomas Piketty, ước tính tổng số những tích sản tài chính ẩn náu ở các thiên đường trốn thuế vào khoảng giữa 4600 và 6400 tỉ €, nghĩa là trốn được khoảng 130 tỉ € tiền thuế trên toàn thế giới. Đối với Liên hiện Châu Âu, thì Ủy ban Châu Âu ước tính mất 1000 tỉ € do trốn thuế, tham nhũng và rửa tiền.

3.2 – Cái được-mất về mặt dân chủ:

Được mất về thuế má chỉ là một trong những khía cạnh của sự được mất, rộng lớn hơn, về mặt dân chủ. Sự bình đẳng về quyền công dân đã được tuyên cáo rao giảng, nhưng trên thực tế nó đụng phải sự đối nghịch của sự bất bình đẳng trong điều kiện sinh sống bị phủ nhận bởi sự bất bình đẳng trong cuộc sống thực tế, cho nên chấp nhận “khế ước xã hội” đòi hỏi phải có sự đồng thuận ít nhất trên một vài nguyên lý phổ quát. Lơ là những nguyên tắc ấy dẫn tới lơ là khế ước xã hội, từ đó là sự suy sụp về dân chủ, điều này sẽ ảnh hưởng ngay tới ứng xử của người công dân cũng như sự vận hành của các thiết chế. Ta hãy lấy ví dụ nguyên tắc “tài năng trị” (méritocratie). Từ Tocqueville trở đi, “dân chủ không phải chỉ là một chế độ chính trị mà, sâu xa hơn, đó là một trạng thái xã hội, trong đó các thành viên tự coi nhau là có vị trí đồng đẳng. Đó là một lý tưởng, muốn thực hiện được lý tưởng ấy thì phải đặt được một sự công bằng xã hội” (([AE], tr.70). Mặc dù ý tưởng “người cai trị phải là người tài năng, xứng đáng” đôi khi chỉ được dùng để biện minh cho sự duy trì những bất công vẫn tồn tại (xem đoạn nói về Emile Boutmy ở trên), song “các chính thể dân chủ của chúng ta dựa trên quan niệm tôn vinh tài năng, hay ít nhất là hi vọng vào tài năng, tin tưởng vào một xã hội trong đó sự chênh lệch là do tài năng và công lao, hơn là do dòng dõi và kế thừa” (tr. 671). Điều này trái nghịch hẳn với xã hội của người thực lợi và thừa tự đã trường tồn suốt thế kỷ XIX và đang tái hiện vào đầu thế kỷ XXI. Cái xã hội ấy đã được tóm tắt tuyệt vời trong những lời của Vautrin nói với Rastignac trong tiểu thuyết Le Père Goriot của Honoré de Balzac: đại ý Vautrin bảo Rastignac “thành đạt trong xã hội bằng học hành, tài năng và lao động là chuyện hão. Vautrin nói cho Rastignac thấy sẽ có thể thăng tiến theo những hoạn lộ như thế nào nếu cậu ta tiếp tục đi học, chẳng hạn như học luật hay y, hai lãnh vực mà theo nguyên tắc, người ta đi lên là do tài năng, nghiệp vụ chứ không dựa vào gia tài cha ông để lại. Vautrin còn cho biết tường tận là theo con đường ấy, cậu ta có thể hi vọng hàng năm kiếm được bao nhiêu tiền” (tr. 387). Kết luận, dứt khoát, không thể phản bác, là: cho dù thành đạt xuất sắc, con đường hoạn lộ thần tốc tới đâu – mà muốn thế tất phải luồn cúi, hệ lụy – cũng không bằng vớ được một cô tiểu thư giàu có. Điều kinh hoàng nhất trong những lời thuyết giảng của Vautrin, theo Piketty, là nó mô tả chính xác và cung cấp những số liệu trung thực của xã hội thế kỷ XIX; bức tranh ấy vẫn còn đúng cho thế kỷ XXI, với điều kiệu là bên cạnh thành phần con ông cháu cha, phải thêm cả thành phần “phần trăm” có thu nhập cao nhất. Tín điều của Vautrin, trong một thế giới bị đồng tiền chi phối, gặp sự tương ứng trong thời nay: “Bất bình đẳng xã hội đã phản đạo lý, bất chính đến như vậy, tại sao không đi tới tận cùng của sự vô đạo, bằng cách chiếm đoạt tư bản bằng mọi phương tiện?” (tr. 381). Chỉ có thế mới giải thích được sự xy-nic phi đạo lý của cái đám trader, golden boy mà thiên hạ đều nghe nói tới, dù đó là những nhân vật trong phim Scorcese hay Oliver Stone, hay người thực việc thực ở Wall Street. Trong số những nhân vật đầu cơ trúng quả, không ít người dám ăn nói bạt mạng, khi họ gọi những lời phê phán thành phần “1% chóp bu” là mang tính “phát xít”, là “Đức Quốc xã”, khi họ so sánh những dự định đánh thuế thu nhập tài chính với việc Hitler xâm lăng Ba Lan (xem [St]). Cũng giống như các lãnh chúa phong kiến ngày xưa, bọn siêu giàu ngày nay coi đặc quyền của họ là những quyền tự nhiên, và khi đặc quyền của họ gặp sự phản đối, thì họ không ngần ngại vượt biên với của nả vốn liếng – mà trường hợp tục tĩu nhất là “người tị nạn thuế má” Pháp đã được Putin trao tận tay tấm giấy quốc tịch Nga.

Theo Piketty, rất khó đối phó với sự li khai chính trị của các tài sản lớn (thực sự đã bắt đầu) vì nó có xu hướng xóa nhòa khái niệm quốc tịch, do đó, muốn ngăn chặn nó, phải có sự phối hợp quốc tế chặt chẽ giữa những quốc gia vốn quen thói cạnh tranh với nhau (tr. 743). Nhưng sự li khai về tài sản còn chứa đựng một nguy cơ to lớn hơn nhiều đối với nền dân chủ: sự phân kỳ theo loại hình tập đoàn thiểu trị (divergence de type oligarchique), nghĩa là, “một quá trình khiến cho các nước giàu trở thành sở hữu của các tỉ phú, hay đúng hơn, các nước nói chung – kể cả Trung Quốc và các nước dầu mỏ, tất nhiên – bị tỉ phú và đủ thứ đa triệu phú trên thế giới chiếm hữu đại trà” (tr. 741). Chuyện chính trị – dự tưởng chăng? Cần thấy là một số gia tài lớn nhất (xem biểu đồ) hiện nay đã tương đương với thu nhập của một nước nhỏ; nhưng quan trọng hơn nữa, phần nghìn (0,1%) cao nhất gồm 4,5 triệu người lớn (nửa triệu ở Pháp; 2,6 triệu ở Hoa Kỳ), “một số dân đủ đông để cấu trúc nên cảnh quan xã hội và trật tự chính trị, kinh tế toàn cục” (tr. 398).

clip_image008

Biểu đồ 12.3: Phần sở hữu của những thiểu số có tư sảnlớn nhất thế giới, 1987-2013.

Diễn giải: Từ năm 1987 đến năm 2013, tỉ suất tài sản của 20/1000000 (hai mươi phần triệu) người giàu nhất, từ 0,3% đã lên tới 0,9% tổng tài sản thế giới; của 100/1000000 (trăm phần triệu) người giàu nhất, từ 0,1% đã lên tới 0,4% tổng tài sản thế giới.
Nguồn; piketty.pse.ens.fr/fr/capital21c

Theo từ điển Wikipedia, danh từ mà chúng tôi dịch là thiểu trị, tiếng Pháp gọi là oligarchie (từ tiếng Hi Lạp cổ, oligarkhí, phái sinh từ chữ olígos, nhỏ, ít, và árkhô, chỉ huy) là hình thái cai trị trong đó quyền hành nằm trong tay một nhúm nhỏ, hợp thành tập đoàn thống trị: đó có thể là những người xuất sắc nhất (quý tộc, hiểu theo nghĩa từ nguyên), những nhà khoa học và kỹ thuật (chế độ kỹ trị), những trưởng thượng (lão trị / gérontocratie), nhà giàu (chế độ tài phiệt / ploutocratie)… Ở đây ta không xét tới chế độ thiểu trị đã được định chế hóa như nền đề nhất cộng hòa Pháp, trong đó chỉ có những người có đủ tiền nộp thuế cử tri mới có quyền bỏ phiếu (régime censitaire); mà xét tới những chế độ thiểu trị trên thực tế, nghĩa là những chính thể (có cả chính thể dân chủ nữa) trong đó quyền quyết định thực sự nằm trong tay một thành phần “tinh hoa” gồm những lãnh đạo chính trị, những người cầm đầu đại doanh nghiệp, những nhà tài chính, những nhà báo có ảnh hưởng… tạo thành một đẳng cấp trong đó các thành viên bàn bạc giữa họ với nhau, đưa ra những quyết định áp dụng cho toàn thể dân chúng, nhưng mục đích chỉ là để phục vụ lợi ích cá nhân của họ. Trên thực tế, tập đoàn thiểu trị cầm quyền thông qua sự câu kết giữa đại biểu chính trị và giới cầm đầu kinh tế, tài chính, nhằm thỏa mãn lợi ích hội tụ của họ, bất chấp lợi ích chung (theo Hervé Kempf). Như mô tả ở trên, phương tiện hành động chủ yếu của họ giống y hệt vận hành của các lobby vận động tại các nước dân chủ Tây phương, nhất là ở Hoa Kỳ, là nơi mà họ mặc sức thao túng đời sống chính trị, đặc biệt ở cấp địa phương. Điển hình là sức mạnh của hộiNational Rifle Association, đã chặn đứng được mọi nỗ lực của chính quyền liên bang nhằm hạn chế việc bán và mang súng ống, mặc dầu đã có biết bao cuộc tàn sát ở nơi công cộng, trường học, khuôn viên đại học… Không kém ý nghĩa là lobby của các ngân hàng Mỹ, nhờ đó mà sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, phố Wall vẫn qua mặt được dư luận công chúng; lobby của các ngân hàng Châu Âu mà báo Le Monde vừa đây (01.07.2014) đã tiết lộ sự can thiệp của họ vào cuộc đàm phán TAFTA (hiệp ước thương mại xuyên Đại Tây Dương) đang tiến hành, nhằm mục đích giảm bớt áp lực của những cơ quan điều tiết của Hoa Kỳ trên các hoạt động của họ ở Hoa Kỳ (luật “Fatca”). Nếu muốn đi xa hơn những ấn tượng chung và có một ý niệm rõ rệt hơn về cơ cấu hành động của các tập đoàn thiểu trị, ta có thể xem bảng tổng hợp dưới đây của Robert Boyer ([B], tr.13) .

clip_image010

Chú dẫn: Sự tập trung quyền lực kinh tế và chính trị giải thích chủ yếu tại sao bất bình đẳng ngày càng tăng ở Hoa Kỳ

3.3 – Điều tiết tư bản:

Một vài nhà bình luận (như Allègre và Timbeau) nghĩ rằng khi ông “mô tả một xã hội thực lợi (ngồi mát ăn bát vàng) chiếm đóng nền tảng của dân chủ, lèo lái pháp luật và cơ quan hành chính phục vụ cho quyền lợi riêng, vơ vét bất cứ cái gì có thể vơ vét được, đẩy chúng ta tiến tới một cuộc bùng nổ xã hội” thì Piketty đã phơi bày tâm trạng bi quan cố hữu ([AE], tr.66). Dường như Piketty muốn phản bác ngay từ trước những lời buộc tội như vậy, ông đã dành phần thứ tư cũng là phần cuối tác phẩm để đưa ra một số đề nghị nhằm điều tiết tư bản thế kỷ XXI. Không biết tác giả tin tưởng tới đâu, dưới đây chúng tôi sẽ tập trung nói về dự án “hải đăng” của ông về thuế lũy tiến đánh vào tư bản trên phạm vi toàn cầu nhằm bảo vệ các xã hội dân chủ chống lại xu thế li khai của các phần tử siêu-phú (đây cũng là đề nghị của Piketty bị công kích dữ dội nhất).

Tuy nhiệt tình chủ trương áp dụng thuế lũy tiến trên thu nhập, Piketty cũng không đề nghị tăng thuế suất cho những thu nhập quá cao. Ở Pháp chẳng hạn, thuế thu nhập mãi đến tháng bảy 1914 mới ban hành, nhằm ủng hộ nỗ lực chiến tranh, nhưng thuế suất đánh vào thu nhập cao nhất cũng không quá 2%; sau chiến tranh, nó tăng lên nhiều, năm 1920 là 50%, năm 1925 lên 72%; từ 1940 đến những năm 1980, nó ở mức 50% (trong khi ở Đức lên tới 70%). Lưu ý là dưới thời tổng thống Hollande, dự án thuế suất 75% đã bị Hội đồng bảo hiến phán định là “có tính chất tịch thu”. Tại Hoa Kỳ, thì thuế suất này từ 8% trước chiến tranh 14-18, sau chiến tranh lên 77%. Ngay trước cuộc khủng hoảng tháng mười 1929, thuế suất cho thu nhập cao được tổng thống Hoover hạ xuống còn 25%. Đến năm 1933, ngay năm đầu của nhiệm kỳ tổng thống, Roosevelt đưa lên 63%, rồi cứ tăng dần, năm 1944 lên đến 94%. Thuế suất cao này được duy trì ở mức 90% cho đến giữa thập niên 1960; và cho đến giữa thập niên 1970, nó vẫn giữ ở mức 80%. Năm 1972, khi ra tranh cử tổng thống, thượng nghị sĩ dân chủ McGovern đề nghị đưa thuế suất này lên hẳn 100%, nhưng người thắng cử là Nixon: thuế này giảm dần, sang đầu thập niên 1980 còn 70%, thì Reagan hạ xuống 60%. Cuối thập niên 1980 còn 40%, sang triều đại G. W. Bush 35%. Điểm lại diễn trình này, có thể rút ra mấy điều:

· trái với thành kiến của nhiều người, “thuế tịch thu” là do chính người Mỹ đặt ra và áp dụng ở mức cao (hay rất cao) từ năm 1930 đến 1980, mà nền kinh tế Mỹ xem ra vẫn “phây phây”.

· việc giảm hẳn thuế suất đối với thu nhập cao từ thập niên 1980 trở đi đã dẫn tới tăng vọt lương bổng của lãnh đạo cao cấp của các doanh nghiệp và tỉ suất tài sản của 1% dân số giàu nhất (xem 2-2).

· một thông tin nữa: trong những năm chiếm đóng Đức và Nhật sau Thế chiến lần thứ hai (1946-48), Mỹ đã buộc hai nước này đưa thuế suất cho thu nhập cao lên trên mức 90%, với chủ ý là thuế lũy tiến gắn liền với sự kiến lập một chính thể dân chủ. Không xa ý kiến của Piketty!

Kết luận của Piketty: muốn có kết quả thực chất, phải đặt mức thuế suất rất cao (hơn 80%) đối với những phần thu nhập trên mức nửa triệu hay một triệu đô la; 50 hay 60% đối với phần thu nhập ở trên mức 200.000 USD. Vì vậy, Piketty chủ trương đánh thuế năm trên tư bản (chứ không đánh trên thu nhập của tư bản), áp dụng một cách thường trực, với một tỉ suất do đó vừa phải. Ông đưa ra ba biến tướng thuế lũy tiến:

· Biến tướng 1: thuế suất 0% cho tư bản dưới 1 triệu €; 1% cho tư bản từ 1 đến 5 triệu €; 2% cho trên nữa.

· Biến tướng 2: thêm một loại cho tư bản trên 1 tỷ €: thuế suất 5 hay 10%.

· Biến tướng 3: thêm một loại cho phía dưới: dưới 200 000 € thuế suất 0,1%, từ 200 000 € đến 1 triệu, 0,5%.

Đối tượng của thứ thuế này là 2,5% dân số và có thể mang lại cho ngân sách một số tiền tương đương với 2% GDP Châu Âu. Thuế suất ở vào khoảng từ 1 đến 2% (biến tướng 1), trong khi mà các tài sản lớn đã tăng trưởng với nhịp độ 6-7% trong những thập niên vừa qua, như thế nó không thể tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Tuy nhiên tác giả cũng không nuôi ảo tưởng là đề nghị của mình sẽ nhanh chóng được áp dụng: “Thuế toàn cầu về tư bản là một sự không tưởng: trong ngắn hạn, khó tưởng tượng được rằng các nước đều đồng ý định đoạt và thiết lập một bảng thuế có thể áp dụng cho mọi tài sản trên thế giới, rồi sau đó phân phối một cách hài hòa tiền thuế thu được giữa các nước. Không tưởng, nhưng đó là một không tưởng có ích”.

Kết luận: Với chủ tâm “cạn kiệt” các vấn đề, Piketty đã dồn vào tác phẩm đồ sộ này nhiều trang sách, đề cập và phát triển nhiều vấn đề khác nữa, chẳng hạn sự thừa kế, những bất bình đẳng trong sản xuất và phân chia, “đấu tranh tuổi tác” thay thế (hay không thay thế) đấu tranh giai cấp, tiền hưu bổng, Nhà nước xã hội, vân vân, nhưng chúng ta cũng đã đề cập khá đủ để thấy tầm quan trọng của Tư bản thế kỷ XXI, về những phát hiện của tác giả cũng như về phương pháp luận đã giúp ông đi tới những phát hiện đó. Robert Solow, giải Nobel kinh tế năm 1987, vốn là người kiệm lời, mà cũng đã phá lệ để chào đón công trình của Piketty như sau: “Tôi có người bạn, một nhà đại số học xuất sắc. Mỗi lần khen ai, bạn tôi thường dùng tính từ “nghiêm chỉnh”. Bạn tôi thường nói: “Z là một nhà toán học nghiêm chỉnh”, “bức họa này nghiêm chỉnh đấy”. Vậy đó, đây là một cuốn sách nghiêm chỉnh” ([So], tr.2). Những người ủng hộ cũng như những người chê bai Piketty, mỗi người một cách, đều nhận thức được sự “nghiêm chỉnh” ấy. Như chúng tôi đã viết ở đầu bài, những người chỉ trích Piketty không phản đối được các con số (ngoại trừ vụ bút chiến của báo Financial Times, xem khung) nên họ chỉ tập trung phê phán chữ nghĩa, cụ thể là những đề nghị về chính sách trình bày ở chương cuối tác phẩm (khoảng 1/5 cuốn sách), với một giọng điệu thường khá bạo liệt, đôi khi hận thù. Như thường xảy ra, một bộ phận phái hữu có thói quen chỉ trích cá nhân, đánh “dưới thắt lưng”. Dù bỏ qua những cái gì quá đà, người ta cũng không khỏi ngạc nhiên trước sự thiếu lương thiện của một vài “giáo chủ” độc chiếm các media: có vị ở Pháp gọi tác phẩm này là “mác-xít chợ huyện”, chứng tỏ ông ta chưa hề đọc ngay cả phần mở đầu; một quý bà ở Mỹ thì nói ngay là chưa đọc cuốn sách, nhưng sẽ không ngần ngại bầm dập nó… Điều thú vị là phần lớn những phê bình về nội dung lại đến từ các nhà kinh tế học phái tả (Boyer, Husson, Galbraith…) họ trách Piketty khiếm khuyết về “thiết bị lí luận”, chẳng hạn như khi nghiên cứu về sự phân bố các bất bình đẳng, Piketty không xét tới những xung đột về phân phối chung quanh quan hệ lương bổng, cũng không nói tới sự bất đối xứng cơ bản hay tới quan hệ thống trị đặc biệt của tổ chức sản xuất trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa… Cho dù một số phê phán là có cơ sở, song tôi cho rằng họ đã nhầm đối tượng. Như đã nói ở đầu bài, công trình của Piketty thuộc thể loại thực nghiệm và quy nạp, nghĩa là ở một giai đoạn coi như không có lý thuyết. Để lấy lại sự ví von (trong phạm vi có thể) với Kepler, việc phát hiện các quỹ đạo hình bầu dục và quy luật diện tích không phải là sự xác nhận một mô hình chuẩn xuất phát từ một lý thuyết lớn nào cả, nó “đơn thuần” là sự ghi nhận cái đều đặn, điều hòa trong một loạt sự kiện, và lập quy nó dưới dạng những quy luật để mô tả nó. Lý thuyết là chuyện về sau, công việc của Newton… Trong khi chờ đợi, chỉ trong vòng vài tháng, và hầu như không ai ý thức được điều này, Piketty đã “áp đặt” một cách phân tích của cải và những sự bất bình đẳng “làm thay đổi diễn ngôn kinh tế học của chúng ta” (P. Krugman). Còn Diễn đàn kinh tế Davos – ai học được chữ ngờ! – thì viện dẫn thống kê (của WTID) để xếp sự “phân tán” thu nhập vào vị trí thứ 2 trong các nguy cơ lớn cuả thế giới (tháng 11.2013). OECD – ai dám tiên đoán – thì công bố một loạt bảng và biểu đồ (lấy từ WTID) về thành phần thu nhập quốc gia, về tỉ suất thuế (tháng năm 2014). Ngoài việc gặt hái, tập hợp một khối lượng to lớn những kết quả thực nghiệm để các nhà kinh tế học từ nay nghiên cứu, công lao bộ “Tư bản” của Piketty là “cung cấp cho chúng ta một cái khung có tổ chức để tư duy sự diễn biến các bất bình đẳng và sự diễn biến của cải” (J. Stiglitz). Tất nhiên, những xem xét phê phán (đàng hoàng) cần được tiếp tục, nhưng không phải ngày một ngày hai mà một nhà nghiên cứu có diễm phúc đề xuất một ý hệ (paradigme) mới như thế.

Tháng 7.2014

NGUYỄN QUANG

(Nguyễn Ngọc Giao dịch, Nguyễn Đôn Phước và Trần Hải Hạc hiệu đính

Về động lực của tỉ số tư bản / thu nhập

Ta hãy xét các hàm số (tính theo thời gian t) đã được định nghĩa trong bài: tỉ số tư bản / thu nhập β(t) = C(t)/R(t), tỉ suất tiết kiệm s(t) = C’(t)/R(t) và tỉ suất tăng trưởng  g(t) = R’(t)/R(t), kí hiệu (.)’ là đạo hàm của (.). “Quy luật cơ bản thứ nhì” mà Piketty dùng ở chương 5 là một công thức “tiệm cận” hiểu theo nghĩa như sau: nếu giả sử các hàm s(t) và g(t) ổn định, nghĩa là tiến tới giới hạn s và g, thì hàm số β(t) cũng tiến tới một giới hạn β sao cho  β = s/g. Công thức này, gọi là công thức Harrod-Domar-Solow (viết tắt HDS) được chứng minh bằng một phương pháp “sơ đẳng” ở trang 268, “song với điều kiện là giá của các tích sản bình quân diễn biến như là giá cả tiêu dùng trong một thời gian dài hạn”. Về sự hội tụ của s(t) và g(t), Piketty dẫn phần phụ lục kỹ thuật, trong đó dẫn bài báo [PZ], bài báo này đưa ra những ví dụ ổn định với những giả thiết về các hàm số sản xuất (Cobb-Douglas, v.v.) hay là về bản chất thị trường (mô hình có một hay hai sản phẩm, v.v.). Trong bài viết, ta đã thấy rằng, tuy công thức HDS thuộc loại hình tiệm cận và có những giả thiết về ổn định, Piketty vẫn dùng công thức này để nghiên cứu động lực của β(t) trong trường hợp có “bậc thang” (dường như thế), nghĩa là hàm số ổn định ở mỗi bậc thang, nhưng từ bậc này lên bậc kia, có thể biến thiên lớn. Để giải quyết chỗ bất tiện này, xin đề nghị là, trong trường hợp này (đây là một quan sát thực nghiệm), ta sẽ dùng toán học để nghiên cứu động β(t), như vậy sẽ có cơ sở chính xác cho phương pháp luận của Piketty, mà không phải vướng víu với những điều kiện thêm thắt về kinh tế (tất nhiên những điều kiện này không vô dụng: nhờ đó mà người ta đã thiết lập được tình huống “có thềm bậc thang” dù không biết tại sao sự thể lại diễn ra như vậy; đây cũng là vấn đề của các bộ môn khoa học thực nghiệm).

Xuất phát từ các định nghĩa, ta chỉ cần tính đạo hàm là chứng minh được rằng trong khoảng thời gian J, hàm số β(t) là nghiệm của phương trình vi phân tuyến tính cấp một:

β'(t) = s(t) – β(t)g(t) (*)

Như đã nói trong bài, ta có thể thu hẹp vào trường hợp hàm β(t) là đồng biến và bị chặn trên trong một khoảng thời gian J đã cho. Đó là những giả thiết duy nhất mà ta cần.

Sự đồng biến của β(t) có nghĩa đạo hàm của nó là dương, tức là s(t) ≥ β(t)g(t)  với mọi t ở trong J, hay là  s(t)/g(t) ≥  β(t) nếu g(t) không bằng 0. Sau đó, ta mặc nhiên loại ra khỏi J những điểm t mà g(t) = 0 – điều này không tác động tới bài toán nếu tập hợp các zéro này của g là một tập hợp mà “độ đo” bằng không. Bởi vì β'(t)/β(t) = C'(t)/C(t) – R'(t)/R(t), sự đồng biến của β(t) có nghĩa là γ(t) ≥ g(t), trong đó γ(t) là tỉ suất tăng trưởng C'(t)/C(t) của tư bản, nói khác đi, tư bản tăng nhanh hơn thu nhập quốc gia. Như thế ta đã chứng minh được những bất đẳng thức nói trong bài, phần I.1. Các bậc thang hay các điểm uốn diễn ra tại những thời điểm τ tại đó đạo hàm triệt tiêu, tức là s(τ) – β(τ)g(τ) = 0.

Nếu giả thiết thêm là β(t) bị chặn trong đoạn J, thì nhất thiết nó có một đường tiệm cận, nghĩa là nó ắt phải hội tụ tới một giới hạn mà ta kí hiệu là β; đường tiệm cận là một đường thẳng mà độ dốc bằng 0, nên đạo hàm β'(t) ắt phải tiến về zéro, do đó, theo phương trình (*), tỉ số  s(t)/g(t) cũng tiến tới giới hạn β. Sự hội tụ này của tỉ số, tiên thiên, không cho phép ta nói gì về sự hội tụ riêng rẽ của s(t) và g(t), nhưng nếu ta giả sử là một trong hai hàm số ổn định (nghĩa là tiến tới một giới hạn) thì hàm số kia cũng ổn định, và chúng ta tìm lại được công thức HDS.

Nhưng động lực thực thụ của β(t), kể cả ở bên ngoài các bậc thang, được mô tả bởi phương trình (*), độc lập với mọi giả thiết về β(t). Lấy tích phân của phương trình (*) bằng những phương pháp thông dụng, và để ý rằng log R(t) là một nguyên hàm của g(t), và lấy 0 là thời điểm đầu,  ta có biểu thức “động lực” – cũng không dễ khai thác – của tỉ suất tư bản / thu nhập:

β(t) = (1/R(t)).{β(0)R(0) + ∫0t((s(τ)/g(τ)dR} (**)

Lưu ý: ta có thể tìm ra phương trình này một cách trực tiếp (và nhanh hơn) nếu đi từ định nghĩa:

R(t)β(t) = C(t) = C(0) + ∫0t C'(τ)dτ = C(0) + ∫0t ((s(τ)/g(τ))R'(τ)dτ

Khi lấy tích phân từng phần, ta còn thấy là phương trình động lực (**) có liên quan tới d(s/g), tức là tới các đạo hàm cấp hai của R và C, hai đại lượng này cho đến nay không thấy xuất hiện trong những đo đạc thống kê (xem nhận xét ở phần đầu của I.3).      

Tuy nhiên, ta có thể loại bỏ mọi giả thiết về ổn định bằng cách thay thế các giá trị tiệm cận (không phải lúc nào cũng tồn tại) bằng giá trị trung bình của các hàm số liên quan. Thật vậy, hãy quay trở lại giả thiết một hàm số β(τ) bị chặn trên trong quãng thời gian J = [0, t[. Theo phương trình (*), giá trị trung bình trong quãng J của hàm số s(τ) – β(τ)g(τ) là bằng (1/t).(β(t) – β(0)), vậy giả thiết về β(τ) có hệ quả là giá trị trung bình này tiến tới zéro khi t tăng tới vô cực, nói khác đi, các giá trị trung bình của β(τ) và của s(τ)g(τ) là bằng nhau về dài hạn. Nếu ta giả thiết thêm là tỉ suất tăng trưởng g(τ) bị chặn dưới (tức là trường hợp đề cập trong sách trong suốt thời kỳ dài), thì các giá trị trung bình của s(τ)/g(τ) bằng nhau, nói khác đi, công thức HDS có giá trị về mặt dài hạn và tính theo trung bình, mà không cần có thêm một giả thiết ổn định nào cả.

Sách báo tham khảo:

[AE] “Alternatives Economiques”: Inégalités, la révolution Piketty, numéro 336, juin 2014

[B] R. Boyer: Le Capital au 21ème siècle – De l’analyse historique comparative à une théorie du capitalisme? , Exposé EHESS, Paris, 21/05/2014

[H] M. Husson: Le Capital au 21ème siècle – Richesse des données, pauvreté de la théorie, Contretemps, 10/02/2014

[J] P. Jorion: Marx et la baisse tendancielle du taux de profit, Press Lib’, 25/11/2010

[K] A. Koestler: Les Somnambules, Livre de Poche, 1967

[P] T. Pech: Le Temps des Riches – Anatomie d’une Sécession, Seuil, 2011

[PZ] T. Piketty, Zucman: Capital is back – Wealth-income ratios in rich countries, 1700-2010, Paris School of Economics, 2013

[So] R. Solow: Thomas Piketty is right, New Republic, 22/04/2014

[St] J. Stiglitz: Inequality is not inevitable, NY Times, 07/07/2014

* Trung bình (moyenne) và trung vị (médiane): thí dụ thu nhập trung bình là 2 500 € và thu nhập trung vị 2 000 €. Để tính ra thu nhập trung bình: người ta tổng cộng thu nhập của mọi người trong nước, rồi chia tổng số đó cho số dân. Thu nhập trung vị 2 000€ có nghĩa là: số người có thu nhập từ 2 000 €/tháng trở lên là một nửa dân số và 50% số dân còn lại, có thu nhập hàng tháng thấp hơn 2 000 €.

Sách báo tham khảo:

[AE] «Alternatives Economiques»: Inégalités, la révolution Piketty, numéro 336, juin 2014

[B] R. Boyer: Le Capital au 21ème siècle – De l’analyse historique comparative à une théorie du capitalisme? , Exposé EHESS, Paris, 21/05/2014

[H] M. Husson: Le Capital au 21ème siècle – Richesse des données, pauvreté de la théorie, Contretemps, 10/02/2014

[J] P. Jorion: Marx et la baisse tendancielle du taux de profit, Press Lib’, 25/11/2010

[K] A. Koestler: Les Somnambules, Livre de Poche, 1967

[P] T. Pech: Le Temps des Riches – Anatomie d’une Sécession, Seuil, 2011

[PZ] T. Piketty, Zucman: Capital is back – Wealth-income ratios in rich countries, 1700-2010, Paris School of Economics, 2013

[So] R. Solow: Thomas Piketty is right, New Republic, 22/04/2014

[St] J. Stiglitz: Inequality is not inevitable, NY Times, 07/07/2014

Nguồn: http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/doc-tu-ban-the-ky-xxi-cua-thomas-piketty

Comments are closed.