Đọc công trình của Thomas Piketty: TƯ BẢN Thế kỷ XXI

Nguyễn Quang

Trái ngược với mọi dự đoán, năm nay cuốn sách best-seller ăn khách nhất thế giới lại là một cuốn sách về kinh tế học chính trị dày cộm và chi chít những bảng số và biểu đồ. Bản in tiếng Pháp gần một nghìn trang, cộng thêm khoảng một trăm trang phụ lục kỹ thuật công bố trên mạng, hiện nay đã được dịch ra 25 thứ tiếng. Bản tiếng Pháp đã bán được 120.000 cuốn, đứng đầu loại sách tài liệu – tiểu luận; bản tiếng Anh 450.000 cuốn: trong mấy tuần lễ liền, đó là tác phẩm bán chạy nhất so với tất cả các loại sách, kể cả cuốn Game of Thrones! Song song với thành công về xuất bản, là cuộc “lưu diễn” rất ư là siêu sao nhạc rock của tác giả tại các trường đại học lớn nhất nước Mỹ, giảng đường nào cũng chật ních, với những lời ca ngợi của những giải Nobel kinh tế học (Krugman, Solow, Stiglitz), và cũng như Alexis de Tocqueville (Về nền dân chủ Mỹ), Thomas Piketty đã được mời tới Nhà Trắng. Do tính kỹ thuật giả định của tác phẩm (về tư bản đầu thế kỷ XXI) và sự khô khan (cũng) giả định của luận đề cơ bản (là sự tái hiện những bất bình đẳng xã hội ở thế kỷ XXI), có thể nói không ngoa rằng cái mốt “pikettymania” quả là một hiện tượng trí thức của thập niên này. Có lẽ đây chuyện Zeitgeist – tinh thần của thời đại – có sự trùng hợp giữa tác phẩm và tâm trạng xã hội của thời đại: với cuộc khủng hoảng 2008 và những hậu quả của nó, trước những quá trớn của chủ nghĩa tư bản tài chính và sự bất cẩn của một tập đoàn tài phiệt thiểu trị, người dân bình thường cảm thấy một cách mơ hồ mà sâu đậm rằng sự bất bình đẳng ngày càng gia tăng, đe dọa phá vỡ “khế ước xã hội” của nền dân chủ. Điều này không hề làm suy suyển chất lượng tác nghiệp của một công trình nghiên cứu đã phân tích tới mức cạn kiệt (khiến người đọc cũng kiệt lực luôn) sự bùng phát những bất bình đẳng về tài sản và thu nhập diễn ra trong 25 năm cuối của thế kỷ XX ở các nước phát triển, với nguy cơ đưa thế kỷ XXI quay trở lại tình trạng man rợ của chủ nghĩa tư bản vào cuối thế kỷ XIX. Đối với nhiều người, đây là một sự phát hiện. Thậm chí Bill Moyers, một nhà báo Mỹ, còn dùng danh từ epiphany, tức là sự linh hiện, mặc khải theo nghĩa tôn giáo!

Diễn biến của sự phân phối của cải, liên quan tới sự tích lũy và tập trung tư bản, vốn là đối tượng nghiên cứu ưu tiên của Piketty từ khi ông bắt đầu bước vào kinh tế học. Nhưng trước ông, có những người, lại là những học giả tầm cỡ (Galbraith, Krugman, Stiglitz) đã viết về bất bình đẳng rồi. Cái mới của Tư bản thế kỷ XXI thể hiện ở ba cấp độ:

· tiếp cận thực nghiệm: trở lại và đề cao nghiên cứu thống kê của những giai đoạn dài, cùng với khoảng ba chục cộng tác viên (đặc biệt, Emmanuel Saez ở Mỹ và Anthony Atkinson ở Anh) xây dựng một ngân hàng khổng lồ, chứa đựng những số liệu lịch sử về thu nhập, đưa lên mạng dưới tên tắt WTID (World Top Incomes Database / Cơ sở dữ liệu các thu nhập cao nhất toàn thế giới), sắp tới sẽ được bổ sung thành WWID (World Wealth and Income Database / Cơ sở dữ liệu về của cải và thu nhập toàn thế giới), tích hợp thêm những dữ liệu về tài sản.

· tổ chức và nghiên cứu những chuỗi thống kê đã thu thập được, từ đó, tác giả đã đưa ra hai nhận xét cơ bản, tóm tắt bằng hai đường cong biểu thị hình chữ U cho thấy rõ tích lũy tư bản đã tăng vọt trở lại (xem biểu đồ I.2 ở dưới) cũng như sự tập trung thu nhập (biểu đồ I.1) ở mức tương tợ như cuối thế kỷ XIX.

· diễn giải hai xu hướng cấu trúc đó bằng quy luật phân kỳ” (có tính chất thực nghiệm), thể hiện bằng bất đẳng thức r > g, trong đó r chỉ tỉ suất lợi tức của tư bản và g tỉ suất tăng trưởng thu nhập quốc dân.

Công trình đồ sộ này, bao gồm các khâu thu thập, trình bày, phân tích và diễn giải các chuỗi số liệu thống kê thực ra một phần lớn đã được trình bày trong những bài nghiên cứu mà tác giả và các cộng tác viên đã công bố (xem [PZ]). Một số kết quả đã được những tác giả khác khai thác (xem [P] chẳng hạn), nhưng họ khai thác một cách rõ ràng là “ấn tượng chủ nghĩa” và vụn vặt, chứ không trình bày một cách thuần nhất, nhất quán và chi li cạn kiệt như Tư bản thế kỷ XXI. Đến đây, với mục đích dẫn giải về phương pháp luận, chúng tôi xin phép đưa ra một bình luận: với tác phẩm đồ sộ này, Piketty đã khẳng định chỗ đứng của mình trong dòng dõi các nhà kinh tế học “trường phái sử quan Đức” cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, lấy tiếp cận thực nghiệm làm ưu tiên, và phân tích các hiện tượng trong bối cảnh lịch sử và định chế của chúng. “Trong khoa học xã hội […], tham vọng của việc nghiên cứu không phải là biến cải kinh tế học, xã hội học và sử học thành những khoa học chính xác. Mà, bằng cách kiên nhẫn xác định những sự kiện, ghi nhận những nét điều hòa đều đặn, bình tĩnh phân tích những cơ chế kinh tế, xã hội và chính trị khả dĩ phản ánh trung thực, sự nghiên cứu có thể góp phần làm cho cuộc thảo luận dân chủ được thông tin tốt hơn, tập trung vào những vấn đề thích đáng” (tr. 18). Theo Robert Boyer, “đóng góp quan trọng nhất của tác phẩm này, không nghi ngờ gì nữa, là đưa lịch sử kinh tế và xã hội trở lại vị trí trung tâm của bộ môn kinh tế học”. Có thể nói hẳn ra: vốn cảnh giác đối với “tham vọng của kinh tế học nhằm đạt tới tính khoa học”, tác giả đã kiên định với phương pháp luận chủ đạo là: đưa (trở lại) phương pháp khoa học thực nghiệm vào bộ môn kinh tế. Trong chừng mực có thể so sánh khoa học vật lý với khoa học xã hội, ta hãy ví “ca Piketty” với “ca Kepler”. Trong lịch sử thiên văn học, vào đầu thế kỷ XVII, Johann Kepler đã phát hiện ra hai quy luật vận động của các hành tinh chung quanh mặt trời (Arthur Koestler đã kể lại rất lý thú trong [K]; ở đây chúng tôi không nói tới quy luật thứ ba, được phát hiện mãi về sau): cũng một cung cách làm việc cặn kẽ để thu thập dữ liệu thực nghiệm; cũng một cung cách tổ chức và kết cấu để nhận ra rằng quỹ đạo của các hành tinh đều là đường ellip; cũng một trực quan và tư duy để tìm ra “định luật diện tích” quy định sự di chuyển hành tinh trên quỹ đạo. Chúng ta sẽ thấy rõ, trong khuôn khổ những định nghĩa mà Piketty đề ra và những số liệu thống kê mà ông đã tích lũy, các dữ liệu thực nghiệm (nghĩa là các sự kiện) của Piketty là không thể chê trách vào đâu. Và các đối thủ của Piketty, cũng không ai có một lời công kích, ngoại trừ vụ bài báo Financial Times (xem khung). Các “định luật” mà Piketty rút ra, cũng như trong trường hợp Kepler, đều là những định luật thực nghiệm, nghĩa là những sự điều hòa, đều đặn được nêu rõ cho thấy, hoàn toàn không có sự “mô hình hóa” hay “lý thuyết hóa” nào cả.

clip_image001 clip_image002

Hình bìa nguyên tác tiếng Pháp và bản dịch tiếng Anh (Mỹ).
Thấy rõ sự câu khách hay khiêu khích của bản dịch: chữ “TƯ BẢN” in to, đỏ chót, làm người đọc liên tưởng ngay tới tác phẩm của Marx.

1 – Sự tích lũy tư bản

Trung thành với lôgic phương pháp luận của khoa học thực nghiệm, chúng tôi sẽ trình bày các kết quả và luận chứng của Piketty theo một trình tự hơi khác trình tự của cuốn sách: chúng tôi sẽ bắt đầu bằng sự tích lũy tư bản, thông qua sự tập trung tư bản và tập trung thu nhập, rồi mới đi tới những hậu quả có thể về “phân kỳ” xã hội phát sinh từ bất bình đẳng. Cũng xin báo trước: sự tổ chức và sắp xếp lớp lang các dữ liệu thống kê (cũng như mọi dữ kiện thực nghiệm trong các lãnh vực khác) nhất thiết phải sử dụng ngôn ngữ toán học. Dưới đây, bạn đọc sẽ thấy xuất hiện một vài công thức toán học, ở mức độ tối thiểu, cụ thể là sẽ dùng những phân số, nghĩa là áp dụng quy tắc tam suất mà mọi người đã quen dùng ở trường tiểu học. Để cho dễ hiểu, trước tiên xin nhắc lại một vài khái niệm cơ bản:

Thu nhập thực chất là một luồng (chảy). Thu nhập quốc gia liên hệ chặt chẽ với khái niệm tổng sản phẩm quốc nội (produit intérieur brut / PIB, viết tắt tiếng Anh là GDP), thường được dùng trong các cuộc tranh luận công cộng, nhưng khác nhau ở hai điểm quan trọng. GDP là số lượng sản phẩm và dịch vụ được sản xuất mỗi năm trong phạm vi lãnh thổ của một nước. Muốn tính ra thu nhập quốc gia, thì trước hết phải lấy GDP trừ đi sự mất giá của tư bản đã tạo ra sản xuất đó (chủ yếu là sự hao mòn các loại thiết bị đã sử dụng trong sản xuất), sự mất giá này không phải là thu nhập của tác nhân kinh tế nào cả. GDP trừ đi sự mất giá này gọi là tổng sản phẩm quốc nội thuần (NDP), thường thường bằng 90% GDP. Nhưng trong thời đại các công ti đa quốc gia, còn phải tính tới sự tham gia đan chéo giữa các nước, nghĩa là phải cộng thêm (hay trừ đi) những thu nhập nhận được từ (hay gửi ra) nước ngoài. Tóm lại, nếu ta gọi là R thu nhập quốc gia:

R = tổng sản phẩm quốc nội thuần + thu nhập (dương hay âm) nhận được từ nước ngoài

Trong các phần nói trên đã thấp thoáng khái niệm tư bản. Bản chất tư bản là một thứ kho. Trong khuôn khổ công việc của mình, Piketty định nghĩa tư bản là tập hợp các tài sản không phải con người, khả dĩ sở hữu hay trao đổi trên thị trường. Định nghĩa này loại trừ “vốn con người”, nghĩa là sức lao động, trình độ tác nghiệp, đào tạo, khả năng cá nhân… vì “vốn con người không thể do người khác sở hữu, không thể trao đổi trên thị trường, ít nhất trên cơ sở thường trực (và trong một xã hội hiện đại)” (tr. 83). Nhưng tư bản bao gồm cả “vốn phi vật thể”, thí dụ như các bằng sáng chế, quyền sở hữu trí tuệ. Định nghĩa “tư bản” mà Piketty sử dụng đại để cũng trùng hợp với định nghĩa “chính thức” (trên thực tế) trong các thống kê của Liên Hiệp Quốc, song cũng cần lưu ý là một số trường phái muốn dành chữ “tư bản” để chỉ các hình thái di sản do con người tích lũy (nhà cửa, trang thiết bị…), loại trừ đất đai, tài nguyên thiên nhiên, và những thành phần di sản trực tiếp được sử dụng trong quá trình sản xuất. Để đơn giản hóa sự trình bày, Piketty còn sử dụng “tư bản” và “di sản” như là hai danh từ hoàn toàn đồng nghĩa với nhau, có thể thay thế lẫn nhau. Ở đây, cũng nên ghi nhận là trong di sản quốc gia, có phần di sản và di sản công, nhưng hiện nay, tại các nước phát triển, thành phần di sản công rất nhỏ bé (thậm chí là âm, khi mà nợ công vượt quá tài sản công cộng), thành thử trên thực tế, danh từ tư bản hầu như đồng nghĩa với tư bản tư nhân từ đây trở đi trong bài. Thực ra, như vậy là từ “tư bản” dùng trong bài này hầu như đồng nghĩa với khái niệm “tư bản bất biến” của Marx. Do đó, cũng nên làm rõ vai trò thu nhập của tư bản trong thu nhập quốc gia trong công thức dưới đây:

R = thu nhập của tư bản + thu nhập của lao động

Trong từ vựng mác-xít, thu nhập của tư bản chính là “giá trị thặng dư”, ký hiệu là P (đây là một quy ước, không mang màu sắc ý thức hệ). Công thức viết tắt là: R = P + V.

Cuộc tranh luận với báo Financial Times

Như đã nói trong phần mở đầu, các số liệu thống kê, biểu đồ và bảng trong cuốn sách, do tính chất thực nghiệm của chúng, là những gì không thể tranh cãi, và thực ra không thấy ai phản bác một cách nghiêm chỉnh. Trừ một lần, với tờ báo Financial Times, trước đó báo này đã đăng một bài ca ngợi công trình của Piketty. Cuộc bút chiến kéo dài trong một tuần lễ, và kết thúc bằng sự tiu nghỉu củaFinancial Times. Dưới đây, chúng tôi trích dịch tường thuật của Wikipedia về cuộc luận chiến và bổ sung bằng một vài thông tin (chữ nghiêng):

Ngày 23.5.2014, nhà báo Chris Giles công bố trên Financial Times trên trang nhất của số báo cuối tuần>] một bài chỉ trích những dữ liệu do Piketty thu thập và phê phán một loạt những sai lầm trong các phích Excel mà tác giả công bố trên trang mạng của mình. Chris Giles thấy rằng thành phần của cải trong tay 10% những người giàu nhất [ở Vương Quốc Anh>] là 44% theo Office for National Statistics trong khi Piketty đưa ra con số 71%. Giles còn nêu ra những sai lầm và nhiều điểm không chính xác khiến người ta phải nghi ngờ hai kết luận cơ bản của cuốn sách: bất bình đẳng về tài sản tăng lên từ 30 năm nay; bất bình đẳng về tài sản ở Hoa Kỳ lớn hơn ở Châu Âu. Trong những sai lầm mà Giles nêu ra, có những sai lầm về sao lục, chẳng hạn về bất bình đẳng ở Thụy Điển năm 1920; những sửa đổi không căn cứ, thí dụ về ước tính các bất bình đẳng về tài sản ở Pháp vào thế kỷ XIX lấy từ sổ sách thừa kế; những lựa chọn đáng phê phán về phương pháp luận, chẳng hạn như khi Piketty tính trung bình giản đơn những con số ước tính về Anh, Pháp và Thụy Điển mà không quan tâm tới tỉ trọng dân số của mỗi nước; những nội suy quá đáng, thí dụ về phần tài sản của 10% người Mỹ giầu nhất trong thời kỳ 1910-1950. [Nham hiểm hơn, Giles còn so sánh một cách vô lối Piketty với vụ Reinhart-Rokoff, hai nhà kinh tế học danh tiếng, đã công bố một bài viết về tăng trưởng và nợ công, bài báo làm cho họ bị mất tín nhiệm vì một sai lầm trong bảng Excel do một sinh viên năm thứ nhất phát hiện.] Ngay ngày hôm ấy, Piketty đã trả lời [ông chỉ được Financial Times thông báo trước đó hai ngày] bằng cách nhấn mạnh rằng nếu như các dữ liệu hiện tồn về tài sản không đầy đủ, thì ngược lại, dữ liệu trong sổ sách thừa kế lại đáng tin cậy hơn và phù hợp với kết luận của ông. Ông còn nhấn mạnh là các điều chỉ trích của Financial Times không làm thay đổi các kết luận [vì các chỉ trích chỉ liên quan tới những điểm chi tiết, có lẽ chỉ trừ điểm nói về sự phân kỳ trong thống kê về nước Anh; thế mà tất cả các thống kê liên quan tới các nước khác đều xác nhận]. Sau đó, Piketty đã công bố một bài trả lời chi tiết hơn [khoảng 10 trang, trả lời từng điểm một] vào ngày 28.5.2014 trên trang mạng internet [và trong phần phụ lục công bố trên mạng cho cuốn sách] trong đó ông chứng minh rằng phần lớn những điểm mà Chris Giles cho là sai lầm đều là có căn cứ, vả lại phần lớn các điểm này chỉ dẫn tới những thay đổi không quan trọng. Còn đề nghị của Chris Giles về diễn biến của các bất bình đẳng về tài sản ở Vương quốc Anh, Piketty cho rằng chính phương pháp mà Giles chọn lựa mới có vấn đề. Thật vậy, Giles dựa vào số liệu điều tra chứ không sử dụng số liệu thuế khóa. Mà số liệu của các cuộc điều tra thường hạ thấp những tài sản lớn [như cuốn sách đã chỉ rõ; thêm nữa, Giles lại ghép những con số trước năm 1980 của sở thuế với những con số sau 1980 lấy từ các cuộc điều tra, nghĩa là thấp hơn số thực, tất nhiên là bài báo Financial Times đi tới kết luận là gia sản có chiều hướng giảm xuống]. Trên trang blog của mình, Paul Krugman đã bênh vực Piketty và cho rằng cuộc tranh luận như thế là đã kết thúc. Trên mặt báo Washington Post, Matt O’Brien cũng nhận định là Chis Giles có công đọc kỹ những số liệu mà Piketty công bố trên mạng, nhưng đã quá vội vã khi hiểu sai những điều chỉnh mà ông ta coi là sai lầm của Piketty. Trên báo Guardian, nhà kinh tế học Howard Reed chỉ rõ những sai lầm nghiêm trọng của nhà báo Financial Times, và bênh vực những dữ liệu mà Piketty đưa ra [đáng chú ý nhất là tuyệt đại đa số độc giả Financial Times đều cho rằng tờ báo đã trở thành trò cười sau vụ này; có độc giả còn đòi Chris Giles và tổng biên tập phải từ chức. Cũng nên thêm là Financial Times đã đăng bài trả lời thứ nhất của Piketty nhưng không đăng bài thứ nhì. Dẫu sao thì cú chơi xấu đã xảy ra. Nếu mục đích của là gieo rắc sự nghi ngờ, thì họ đã thành công một phần].

1.1 – Đường biểu diễn thứ nhất của Piketty:

Định nghĩa như vậy rồi, theo Piketty nhận xét (tr. 88), “vẫn rất khó định giá cho tư bản. Tuy nhiên, mức độ tổng thể của di sản quốc gia, ở phạm vi cả nước chứ không nói riêng một tài sản cụ thể nào, vẫn tuân theo một số quy luật và có những sự điều hòa đều đặn nhất định” mà ta có thể làm hiện rõ. Có một cách tự nhiên và bổ ích là nghiên cứu tỉ số β = C/R, trong đó C là tư bản quốc gia, R thu nhập quốc gia, và β được tính theo từng năm thu nhập. Ưu điểm của hệ thống đơn vị này là có thể áp dụng cho mọi nước và mọi thời kỳ. Thí dụ, đối với một nước, β = 6 (hay 600 %) có nghĩa là tổng giá trị tư bản quốc gia của nước ấy ngang với 6 năm thu nhập quốc gia của nó. Con số thí dụ này không phải tình cờ: hiện nay tỉ số β của các nước phát triển ở vào mức từ 5 đến 6. Phát kiến quan trọng đầu tiên (theo trình tự trình bày trong cuốn sách, thì đây là phát kiến thứ nhì) là đường cong biểu diễn tỉ lệ tích lũy tư bản β theo thời gian là một đường hình U. Để dễ nhớ, ta sẽ gọi nó là “đường biểu diễn thứ nhất của Piketty”. Dưới đây là hai biểu đồ, biểu đồ thứ nhất ghi nhận những quan sát thực sự trong khoảng thời gian từ 1870 đến 2010, biểu đồ thứ nhì có thêm phần ngoại suy cho đến năm 2100. “Đầu tiên, ta nhận thấy tình trạng đại thịnh vượng của di sản ở Châu Âu trong khoảng thời gian từ cuối thế kỷ XIX sang Thời kỳ Đẹp” (trước Thế chiến 1914): giá trị các di sản tư tương đương với khoảng sáu-bảy năm thu nhập quốc gia, một tỉ số rất cao. Tiếp đó là tụt xuống mạnh trong giai đoạn 1914-1945 (hai cuộc Thế chiến và cuộc Đại khủng hoảng năm 1929): tỉ suất tư bản / thu nhập tụt xuống mức 2-3 năm thu nhập quốc gia. Từ 1950 tỉ suất này tăng liên tục, tới mức sang đầu thế kỷ này, nó đạt tới những đỉnh điểm được khi nhận vào những năm trước Đại chiến Thế giới lần thứ nhất: tỉ suất tư bản / thu nhập trong giai đoạn 2000-2010 ở vào mức năm-sáu năm thu nhập” (tr. 53-54). Sự ngoại suy cho đến năm 2100 dựa vào những “quy luật động lực học” mà ta sẽ xét tới trong một phần dưới đây. Theo sự ngoại suy này có thể dự đoán (một cách khả tín) là cho đến cuối thế kỷ XXI, tỉ suất β sẽ tiếp tục tăng lên tới mức 700 %, nghĩa là tương tợ như tình hình Châu Âu ở “Thời kỳ Đẹp” (gọi là đẹp cho nó đẹp chứ đó cũng là thời kỳ tư bản man rợ). Tóm lại, như đầu đề của một bài báo ký tên Piketty và Zucman [PZ], tư bản đã trở lại.

clip_image004

Biểu đồ I.2. Tỉ suất tư bản / thu nhập ở Châu Âu, 1870-2010

clip_image006

Biểu đồ 5.8. Tỉ suất tư bản / thu nhập trên thế giới, 1870-2100

Câu hỏi tự nhiên được đặt ra: tư bản sẽ tập trung như vậy tới mức nào? Tỉ số β sẽ nhất thiết bị chặn lại không? Và nếu thế, có thể ước tính giới hạn trên của nó là bao nhiêu? Không thể thảo luận một cách nghiêm chỉnh về hàm số β này, về ý nghĩa sâu xa của đường chữ U nếu ta gạt qua một bên giá trị thặng dư P, dưới dạng nào chăng nữa. Ngoài β = C/R, các tham số kinh tế vĩ mô sau đây cũng thường được nêu ra:

· Phần thu nhập của tư bản trong thu nhập quốc gia, tức là tỉ số α = P/R = P/(P+V)

· Tỉ suất lợi tức của tư bản, r = P/C. Chú ý: r khác với tỉ số lợi nhuận được định nghĩa theo quan điểm mác-xít bằng công thức ρ = P/(C+V), trong đó V là “tư bản khả biến”, tức là giá trị của sức lao động đã được huy động trong quá trình sản xuất, từ đó tạo ra “giá trị thặng dư” trong quan niệm của Marx.

· Tỉ suất tăng trưởng g = (∆R/∆t)/R, trong đó ∆R là lượng biến thiên của thu nhập R trong khoảng thời gian ∆t (theo tập tục kế toán, người ta thường lấy ∆t=1, thời gian tính theo năm)

· Tỉ suất tiết kiệm s = (∆C/∆t)/R, trong đó ∆C là lượng biến thiên của tư bản C trong khoảng thời gian ∆t (theo tập quán kế toán nói trên).

Cần nhắc lại là các tham số này (đều là hàm số của thời gian) được định nghĩa theo những tiêu chuẩn kế toán, hoàn toàn không dựa vào những giả định có tính chất ý thức hệ. Tác động hỗ tương giữa chúng với nhau sẽ cho phép ta chẩn đoán sự biến chuyển của tỉ suất tư bản / thu nhập, theo hai “quy luật” mà Piketty gọi là “hai quy luật cơ bản của chủ nghĩa tư bản” (một cách gọi hơi cường điệu, hay là diễu cợt?). Ta hãy xem xét hai kịch bản có thể, nhưng chỉ nêu lên những khía cạnh định tính – các chi tiết kĩ thuật và chứng minh toán học xin để ở phần phụ lục. Để nhớ rằng đó là những hàm số theo thời gian (t), chúng ta sẽ dùng ký hiệu β(t), α(t), v.v. Khi nào những hàm số này là hằng số (không thay đổi theo thời gian), ta mới bỏ bớt ký hiệu t.

Nếu tỉ suất β(t) bị chặn trên – nói theo ngôn ngữ của thị trường chứng khoán “cỏ cây không mọc lên tận trời cao” – ta hãy chú tâm tới phần đường cong Piketty “đi lên” (kể từ năm 1950) tức là đoạn thời gian trong đó hàm số β(t) đồng biến theo thời gian (phần hàm số nghịch biến có thể được xử lý một cách đối xứng). Từ những định nghĩa nói trên, chỉ cần giả định là hàm β(t) đồng biến theo thời gian, ta có thể chứng minh bằng toán học (xem khung ở cuối bài) là hai điều kiện sau đây được thỏa mãn và tương đương với nhau: tư bản tăng nhanh hơn thu nhập quốc gia và bất đẳng thức s(t)/g(t) ≥ β(t) được nghiệm đúng với mọi giá trị của t (bất đẳng thức giữa hai hàm số). Giả thiết hàm số β(t) là đồng biến và bị chặn trên kéo theo hệ quả là đường cong Piketty có thể có những “bậc thang” hoặc những “điểm uốn” (“bậc thang” khoảnh khắc) ở những thời điểm τ sao cho β(τ) = s(τ) / g(τ), nhưng β(t) không thể giảm xuống như trước đó, nó phải tiệm tiến tới sát gần một giá trị “trần”, là một đường thẳng ngang, tung độ cố định. Nói cách khác, khi t tiến đến vô cực, hàm số β(t) tiệm tiến tới một giá trị giới hạn β, cũng là giới hạn của hàm số s(t)/g(t). Đẳng thức tiệm cận đó, Piketty viết dưới dạng β = s/g và đặt tên nó là “quy luật cơ bản thứ nhì của chủ nghĩa tư bản” ở chương 5. Tuy một mặt Piketty nhấn mạnh đẳng thức đó chỉ có giá trị về dài hạn (và cũng phải có thêm một số điều kiện nữa, xem tr. 265 và tiếp theo), ông vẫn sử dụng nó như một “quy luật động lực học” để nghiên cứu sự tích lũy tư bản. Như những người phê phán Piketty đã không quên nhấn mạnh (xem [H] chẳng hạn), đứng về mặt phương pháp luận và khái niệm thì việc này không ổn: đứng vào một giai đoạn β(t) ổn định mà nghiên cứu sự biến thiên của β(t) trong thời gian thì chẳng có mấy ý nghĩa; xin xem thêm khung kỹ thuật để biết thêm về biểu hiện “động lực học” của β(t). Trừ phi, rất có thể là tác giả đặt mình vào tình huống “bậc thang”, trong đó các hàm β(t) và s(t)/g(t) ổn định trong những thời kỳ dài và công thức tiệm cận (vẫn còn giá trị cho từng bậc thang) cho phép ta so sánh các thời kỳ đó với nhau (song tác giả không nói thật rõ, mà chỉ thoáng qua một câu, như ở trang 367: “Trái nghịch với một ý tưởng cho đến gần đây khá phổ biến, quy luật β = s/g không mâu thuẫn với những biến thiên rất lớn của tí suất tư bản / thu nhập theo thời gian và từ nước này sang nước kia”). Tiến hành như thế, đẳng thức tiệm cận β = s/g “thể hiện một thực tế hiển nhiên mà quan trọng: một nước tiết kiệm nhiều mà tăng trưởng chậm (tức là s lớn, g nhỏ) về dài hạn sẽ tích lũy một kho tư bản khổng lồ — và việc này dẫn tới những hậu quả lớn về cấu trúc xã hội và sự phân bố của cải. Có thể nói cách khác: trong một xã hội gần như trì trệ, thì những di sản phát xuất từ quá khứ sẽ đóng một vai trò quan trọng quá mức. Việc tỉ suất tư bản / thu nhập, sang thế kỉ XXI, trở lại mức cấu trúc cao gần như thời thế kỷ XVIII và XIX đương nhiên có thể lí giải là sự tái hiện tình trạng tăng trưởng thấp. Chính sự giảm tăng trưởng – trong đó có giảm tăng trưởng về dân số đã dẫn tới sự trở lại của tư bản”“ (tr. 263).

1.2 – Tích lũy vô hạn hay hữu hạn?

Nếu tỉ suất β(t) không có hạn trên, hay, nói theo ngôn ngữ mác-xít, nếu “tư bản tích lũy vô hạn định” (ca tăng trưởng theo bậc thang mà Piketty đã xem xét, có hay không có hạn trên, đều nằm trong hình thái này), thì phải nói, mặc dầu đây không phải là chủ đề của bài viết này, là không thể không thảo luận về dự báo của Marx “tỉ suất lợi tức có xu hướng giảm”. Không ai phủ nhận tài bút chiến và tầm nhìn của Marx, nhưng suy luận của ông không phải lúc nào cũng sáng sủa. Xin được phép tóm tắt dự báo ấy như thế này: tỉ suất lợi nhuận là phân số

ρ = P/(V+C) = (P/V)/(1+(C/V)) = ε / (1+ω)

trong đó ω = C/V là “cấu thành hữu cơ của tư bản”, còn ε = P/V là “tỉ suất giá trị thặng dư” mà ít nhiều Marx bỏ qua sự bất ổn định có thể; hễ ω tăng là ρ giảm; sự giảm thiểu này được gọi là “xu thế” vì nó không diễn ra một cách máy móc và đều đặn, vì có những xu thế nghịch (tăng tỉ suất bóc lột, giảm giá trị của tư bản bất biến, thay đổi trong cấu thành hữu cơ của tư bản…) – Marx không phủ nhận những xu thế này, nhưng ông cho rẳng tác động của chúng yếu so với xu thế mạnh của ω. Vì vậy Marx tiên đoán là hệ thống này, rốt cuộc, sẽ bị hủy diệt bởi mâu thuẫn nội tại: “Hoặc là các nhà tư bản sẽ xâu xé lẫn nhau vì họ đấu tranh một cách tuyệt vọng chống lại tỉ suất lợi tức có xu hướng giảm  (thí dụ như các cuộc giao tranh giữa các đế quốc); hoặc là họ áp đặt, làm giảm được phần của lao động trong thu nhập quốc gia, và điểu này cuối cũng sẽ dẫn tới cách mạng vô sản và sự truất hữu phổ quát” (tr. 362). Ta có thể suy luận y hệt như vậy mà dùng các tham số α, β và r đã được nghiên cứu trong cuốn sách. Ba hàm số (của thời gian) ấy không độc lập với nhau mà liên thuộc nhau bằng công thức α = r.β mà Piketty gọi là “quy luật cơ bản thứ nhất của chủ nghĩa tư bản” (chẳng qua đây chỉ là một đẳng thức kế toán suy ra từ các định nghĩa). Từ đẳng thức này, ta có thể viết tỉ suất lợi tức dưới dạng r = α/β. Biết rằng α nhỏ hơn 1, ta có thể kết luận như Marx rằng nếu β tăng trưởng vô hạn thì r sẽ giảm dần xuống zero. Còn có thể nhận xét thêm: vì r = P/C = ε/ω nên việc tỉ suất r giảm dần xuống 0 tương đương với việc tỉ suất ρ giảm dần xuống 0. Thế nhưng các dữ liệu của kho WTID (cặn kẽ và đầy đủ hơn nhiều so với những nghiên cứu trước đây về thế kỷ XIX và XX, như của Kaldor) không cho thấy xu thế suy giảm dài hạn nào cả. Ngược lại, ít nhất tại những nước còn giữ được nhiều số liệu lịch sử đáng tin cậy, thì người ta có thể thấy rõ tình trạng tính hầu như ổn định của tỉ suất lợi tức bình quân và lợi tức thuần (tức là trong tư bản đã trừ đi mọi chi phí về quản lý danh mục chứng khoán, chính thức hay không chính thức) trong toàn bộ những giai đoạn dài hai ba thế kỷ. Hai biểu đồ dưới đây liên quan tới Anh và Pháp cho thấy tỉ suất (trước khi nộp thuế) luôn luôn ở trên mức 4-5 % cho đến phần ba cuối cùng của thế kỷ XX, và từ đó đến nay, vẫn xấp xỉ ở mức đó. Piketty còn đưa ra nhận xét hóm hỉnh là trong xã hội tiền công nghiệp của thế kỷ XIX (chính xác là trước khi đường sắt phát triển, khoảng 1840), lợi tức của tư bản đầu tư vào đất đai, nợ công và thương mại ổn định tới mức trong các tiểu thuyết của Jane Austen (Price and Prejudice, 1813) hay của Balzac (Le Père Goriot, 1835), người ta chỉ cần đong đếm gia tài của mỗi nhân vật bằng tiền tô hàng năm, “sự tương đương giữa tư bản và tô, với tỉ suất lợi tức 5% (hiếm lắm mới xuống 4%), là một điều tuyệt đối hiển nhiên” (tr. 327). Trở lại câu chuyện suy giảm xu thế của tỉ suất lợi tức, làm sao hóa giải được mâu thuẫn giữa số liệu thống kê và tiên đoán mác-xít (cũng phải nói ngay là không phải tất cả những người mác-xít đều chấp nhận, xem [J] chẳng hạn)?

clip_image008

Biểu đồ 6.3  Lợi tức thuần của tư bản ở Anh, 1770-2010.

clip_image010

Biểu đồ 6.4  Lợi tức thuần của tư bản ở Pháp, 1820-2010.

CHÚ THÍCH: Trên trục tung độ (thẳng đứng) có nói tới “rendement du travail” (năng suất lao động), nhưng thực ra các đường biểu diễn chỉ liên quan tới lợi tức của tư bản thôi.

Sách vở về kinh tế đương đại bàn về các nhân tố tăng trưởng dài hạn đã quá dồi dào, một người không phải chuyên gia cũng chẳng nên thêm mắm thêm muối. Nhưng cũng phải nói là cách suy luận trình bày ở trên, về cơ bản không sai, nhưng rõ ràng là không đủ, vì nó không tính tới sự liên thuộc thể hiện trong đẳng thức α = r.β, nhờ đó mới có những tình huống β tăng mà α cũng tăng (tr. 350), hoặc là β tăng trong khi mà cả r lẫn α đều giảm (tr. 341); trong tình huống vừa nói, khi đẩy tới giới hạn thì công thức α = r.β sẽ cho một dạng thức bất định 0/0, loại bỏ được bất định hay không là tùy vận tốc biến thiên tương đối của ba tham số. Mặt khác, trong một giai đoạn mà r bị chặn trên (như trong các biểu đồ), công thức α = r.β cho thấy không thể có sự tích lũy vô hạn của tư bản; nói chính xác hơn, β có thể tăng, sau đó ổn định trong một thời gian, rồi lại tiếp tục tăng: đó là tình huống có những bậc thang (đã nói ở trên) β nhảy từ bậc này lên bậc kia ngày càng khó khăn vì có “lực kéo lại” do r giảm xuống, cứ như thế cho đến đường tiệm cận tột cùng. Đứng về mặt thuần túy toán học, mặc dầu không thiếu những mô hình quá giản đơn xây dựng trên tiên đề ổn định dài hạn của sự phân chia tư bản – lao động (thí dụ như hàm số sản xuất của Cobb-Douglas), hiện nay chúng ta chưa biết gì mấy về cấu thành hữu cơ của tư bản cũng như về tỉ suất thặng dư giá trị, hay về tư bản khả biến V, thứ “hổ lốn” chắc phải chứa đựng trăm thứ bà rằn: đầu tư về vốn con người, giáo dục, đào tạo. Về điểm cụ thể này, Marx không biết gì hơn vào thời ông: “Cũng như các tác gia Malthus và Ricardo trước ông, Marx hoàn toàn bỏ qua khả năng có tiến bộ kĩ thuật kéo dài, và năng suất tăng trưởng liên tục, [đó là một “lực kéo lại”] nhờ đó có thể cân bằng – trong một chừng mực nhất định – quá trình tích lũy và tập trung ngày càng cao của tư bản tư nhân […] Trong đầu óc của Marx, cũng như của tất cả các nhà kinh tế học thế kỷ XIX, đàu thế kỷ XX, và nói chung cho đến khi có các công trình của Solow (vào những năm 1950-60), bản thân khái niệm tăng trưởng liên tục và có tính cấu trúc, do tăng trưởng năng suất thường trực và dài lâu, chưa được xác định và nhận chân rõ ràng” (tr. 28 và 328). Thêm nữa, cho dù Marx cũng cố gắng huy động tối đa bộ máy thống kê còn thô sơ của thời ấy (báo cáo nghị viện những năm 1820-1840 để lấy tư liệu về sự khổ cực của giai cấp vô sản, thống kê về thuế “phân loại” (impots cédulaires) đánh vào tiền lời để chứng minh là lợi nhuận công nghiệp đã tăng vọt lên trong những năm 1840-50, thống kê về thừa kế để vạch ra sự tăng tiến mạnh mẽ của những gia tài lớn nhất từ thời các cuộc chiến tranh của Napoléon…), Marx “thường chỉ tiếp cận một cách lặt vặt, thiếu hệ thống […] khiến cho ông đã ngoại suy thành xu thế dài hạn và có giá trị phổ quát những diễn biến mà ông quan sát được trong những khoảng thời gian ngắn và trong những thời đoạn đặc biệt” (tr. 363). Dẫu sao đi nữa thì “nguyên lý tích lũy vô hạn mà Marx bảo vệ hàm chứa một trực giác cơ bản để phân tích tình thế kỷ XXI cũng như thế kỷ XIX, còn đáng ngại hơn cả nguyên lý về sự khan hiếm mà Ricardo thiết tha kiên trì. Một khi mà cả tỉ suất tăng trưởng dân số cũng như tỉ suất tăng trưởng năng suất tương đối đều thấp, thì những tài sản tích lũy trong quá khứ trở thành quan trọng quá mức và mang lại sự bất ổn định trong các xã hội liên quan. Nói cách khác, một sự tăng trưởng yếu kém rất khó làm cân bằng nguyên lý mác-xít về sự tích lũy vô hạn: từ đó dẫn tới một sự cân bằng không đến nỗi tai họa như Marx tiên đoán, nhưng cũng đủ để gây rối ren. Tích lũy khựng lại ở một điểm hữu hạn, những điểm ấy có thể rất cao và gây ra bất ổn định” (tr.29)

1.3 – “Phân kỳ Piketty”:

Thế là đặt ra bài toán các mối quan hệ giữa tỉ suất lợi tức r và tỉ suất tăng trưởng g, vấn đề mà các nhà kinh tế học rất quan tâm, bằng chứng điển hình là “quy tắc vàng về tích lũy tư bản” của Edmund Phelps (chúng tôi sẽ trở lại chuyện này). Hay hơn cả là biểu thị hai tỉ suất ấy một cách tương đồng về mặt “phạm trù” (hiểu theo nghĩa triết học), tức là r = ε/ω (hay hơn nữa, ρ = ε / 1+ω, xem ở trên) và g = tỉ suất biến thiên của V + tỉ suất biến thiên của (1+ε). Sự hình thức hóa bằng toán học phải ngừng ở đây vì ta không biết gì về vận tốc biến thiên của các hệ số – cái không biết này chính là tử huyệt của những mô hình lí thuyết quy giản hay “đèn cù” (tautologic) chẳng hạn như “mô hình chuẩn về chân trời vô cực” tự nhận có khả năng định ra một giá trị cân bằng cho r tùy theo g, “tỉ suất ưa thích hiện tại” và tùy theo tính lõm của một “hàm số lợi ích”! (tr. 571). Độc đáo của Piketty ở chỗ là, một cách hệ thống, ông quay trở về các dữ liệu thực nghiệm: tập hợp một số lớn những chuỗi thống kê từ thế kỷ XVIII cho thấy tỉ suất tăng trưởng toàn cầu vẫn luôn luôn ở mức 1,5 %/năm, ngoại trừ thời kỳ ta gọi là “Ba mươi năm vinh quang”, nó lên tới mức 4,5 %.

image

Trong các cuộc tranh luận hiện nay, dường như người ta coi thường những tỉ suất tăng trưởng dưới 1%. Trên mặt báo này, chúng tôi đã có dịp nhắc lại là tỉ suất tăng trưởng mô tả một quá trình tiến triển lũy thừa chứ không phải tuyến tính, mà bảng trên đây cho ta những con số kết quả “chóng mặt”: với tỉ suất tăng trưởng toàn cầu 4-5% mỗi năm (đó là tỉ suất trong “Ba mươi năm Vinh quang”), cứ thế liên tiếp mãi, thì không thể có một nền kinh tế lâu bền nào. Bài học lớn nhất có thể rút ra từ các chuỗi thống kê không nằm trong giá trị tuyệt đối của các tỉ suất r và g, mà ở trong sự đối sánh r > g mà, để thuận miệng, ta sẽ gọi là sự “phân kỳ Piketty” (song cũng phải nhấn mạnh đây là mối quan hệ có tính chất thực nghiệm) mà các biểu đồ dưới đây cho thấy rõ:

clip_image012

Biểu đồ 10.9: Lợi tức của tư bản và tỉ suất tăng trưởng trên phạm vi thế giới từ Cổ đại đến năm 2100.

Cách đọc: tỉ suất sinh lời của tư bản (chưa tính thuế) bao giờ cũng cao hơn tỉ suất tăng trưởng toàn cầu; trong thế kỷ 20, khoảng cách giữa hai tỉ suất đã giảm đi, sang thế kỷ 21 có cơ tăng trở lại. NGUỒN: piketty.pse.ens.fr/fr/capital21c

clip_image014

Biểu đồ 10.10: Lợi tức của tư bản (sau khi nộp thuế) và tỉ suất tăng trưởng toàn cầu từ thời Cổ Đại đến năm 2100.

Cách đọc: tỉ suất lợi tức của tư bản (sau khi trừ tiền thuế và mất mát vốn), trong thế kỷ 20 đã xuống dưới mức tỉ suất tăng trưởng, nhưng sang thế kỷ 21, có thể sẽ vượt lên trên trở lại.

CHÚ Ý: Các tỉ suất từ năm 1700 trở về trước là những con số ngoại suy bằng luật lũy thừa dựa trên địa tô và ước tính dân số. Độ chính xác như vậy rất thấp, nhưng quan trọng là mức đại lượng và xu hướng diễn tiến chung. Trên biểu đồ thứ nhì, để ý sự song song hiển nhiên giữa hai đường biểu diễn trong đoạn 1913-1950 – có lẽ điều này phản ánh kết quả những chính sách công và các định chế được đặt ra ở nhiều nước để điều chỉnh quan hệ tư bản / lao động (mặc dù đây là những con số bình quân cho cả thế giới; về vấn đề này, xin xem lý thuyết điều tiết).

Dựa trên những dữ liệu thực nghiệm, trong khuôn khổ những định nghĩa chính xác, đứng ngoài mọi toan tính lí thuyết hay ý thức hệ, bất đẳng thức r > g có thể được coi như là một “hiện thực lịch sử không thể tranh cãi”, cho dù đó không nhất thiết là một nhân tố thuần túy kinh tế học, mà còn tùy thuộc cả vào những chính sách đã được thi hành, đặc biệt về mặt thuế má: “Trong chủ yếu lịch sử loài người, có một sự kiện lớn là: tỉ suất lợi tức của tư bản luôn luôn cao ít nhất mười – hai mươi lần tỉ suất tăng trưởng của sản xuất và của thu nhập” (tr. 561). Đúng là có một giai đoạn biệt lệ, đại để bắt đầu với Thế chiến lần thứ nhất và kéo dài tới cuối thời kỳ “Ba mươi năm vinh quang” (đầu những năm 1970). Trong giai đoạn đặc biệt này, khoảng cách giữa tỉ suất tăng trưởng và lợi tức thô đã thu hẹp lại, thậm chí bất đẳng thức (với r thuần) đã đảo ngược (xem biểu đồ), nhưng trong kịch bản trung tâm mà Piketty lưu giữ, nghĩa là trong bối cảnh hiện nay (chính sách liberal, tranh đua giảm thuế má, với tỉ suất tăng trưởng bình quân ở mức 1,5%) thì khoảng cách giữa r và g vào đầu thế kỷ XXI có cơ trở lại mức thế kỷ XIX. Đương nhiên người ta có thể hỏi: ngoài thời kỳ lâu dài mà Piketty quan sát, không biết (r – g) biến thiên ra sao? Bài toán này chưa có giải đáp về mặt lý thuyết, nhưng với những giải thiết đơn giản, người ta có thể đi tới “quy tắc vàng” mà Phelps đã phát biểu vào năm 1961, r = g, hao hao như “chiến lược bão hòa”, nghĩa là tích lũy tư bản để giảm bớt tỉ suất lợi tức (xem 1.2) cho tới giới hạn dưới g. Công thức tiệm cận β = s/g dẫn tới hệ quả là: r = g nếu, và chỉ nếu s = α, điều này cụ thể có nghĩa là tổng số các thu nhập của tư bản trong một năm phải tiết kiệm và cho vào kho tư bản. Để “bão hòa” tư bản, có phải trữ kho khoảng 10-15 năm thu nhập quốc gia hay hơn nữa (đây chỉ là một ước tính thực nghiệm), thành thử “quy tắc vàng” trở thành phi hiện thực, cho dù lôgic của nó tương thích với lôgic của các phần 1.1 và 1.2.

Piketty trình bày sự phân kỳ (r – g) như là tác nhân trung tâm trong sơ đồ ông sử dụng để giải thích động lực của các bất bình đẳng. Trước đây đã thấy rõ (xem 1.1) rằng sự tích lũy tư bản, nghĩa là tăng tỉ số β khiến cho vốn tư tăng nhanh hơn thu nhập quốc gia. Còn bất đẳng thức r > g có nghĩa là các di sản tích tụ từ quá khứ tái tư bản hóa nhanh hơn sự tăng trưởng kinh tế, ngay cả trong trường hợp hoàn toàn vắng bóng thu nhập của lao động (ở trên đã ký hiệu là V). Cụ thể, giả dụ g = 1% và r = 5%, “chỉ cần tiết kiệm một phần năm thu nhập của tư bản – và tiêu thụ bốn phần năm còn lại – là khối lượng tư bản do thế hệ trước để lại có thể tăng tiến cùng nhịp độ với toàn bộ nền kinh tế. Nếu người ta tiết kiệm nhiều hơn […], thì di sản sẽ tăng trưởng nhanh hơn mức trung bình của nền kinh tế, và các bất bình đẳng về di sản sẽ có xu hướng tăng lên, mà không cần tới tác động của thu nhập lao động. Cho nên, chỉ đứng về mặt lôgic mà xét, ta thấy đó là những điều kiện lý tưởng để một xã hội con ông cháu cha phát đạt, đặc điểm của xã hội này là tập trung di sản cao độ, và khối lượng di sản to lớn ấy trường tồn trong thời gian, kéo dài từ thế hệ này sang thế hệ khác” (tr. 558). Nên lưu ý là bất đẳng thức r > g chẳng liên quan gì tới sự không hoàn hảo của thị trường (hiểu theo nghĩa kinh tế học), cho dù thị trường có tự do hơn, nhiều cạnh tranh hơn, cũng chẳng giải quyết được gì.

Tóm lại: Xem xét các chuỗi thống kê tương ứng với những thời gian dài, ta thấy nổi lên hai hiện tượng có thể được gọi là những dữ liệu thực nghiệm của sự tích lũy tư bản. Hai hiện tượng này coi như kéo theo xu thế gia tăng của sự tập trung của cải:

· đường chữ U của Piketty cho thấy, sau cuộc suy thoái mà các cuộc chiến tranh và cuộc khủng hoảng kinh tế đã khoét sâu, thì “tư bản đã trở về” những mức độ tích lũy to tát, có thể so với Thời kỳ Đẹp

· sự phân kỳ của Piketty là một hiện thực lịch sử chỉ bị đảo ngược trong những thời đoạn đặc biệt trong đó khoảng cách (r – g) rút ngắn lại vì những nguyên nhân tình thế (tái thiết sau chiến tranh trong trường hợp các nước phát triển, còn ở các nước đang trỗi dậy thì là thời đoạn cất cánh và bắt kịp nước khác)

Nghiên cứu chuỗi như trên mang lại cho ta nhiều điều bổ ích để hiểu động lực của sự tích lũy tư bản, nhưng không mấy bổ ích về động lực của những sự bất bình đẳng, mà dưới đây chúng ta sẽ phải phân tích sâu hơn.

(còn tiếp)

Tháng 7.2014

Nguồn: http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/doc-tu-ban-the-ky-xxi-cua-thomas-piketty

Comments are closed.