Đọc lại Hùng ca Diên Hồng của nhà văn Nguyễn Khắc Phục

NKP-Trang Thanh_thumb[2]Nhà văn Nguyễn Khắc Phục sinh ngày 24/8/1947 tại Sài Gòn, quê quán thôn Hương Cát xã Trực Thành (nay là thị trấn Cát Thành), huyện Trực Ninh – Nam Định. Sau gần một năm chống chọi với bệnh ung thư, đã từ trần hồi 3 giờ 45 phút ngày 20/5/2016 (tức ngày 14 tháng Tư Bính Thân), hưởng thọ 70 tuổi.

Lễ viếng từ 9 giờ đến 11 giờ ngày Chủ nhật 22/5/2016 tại Nhà Tang lễ Viện Quân y 103, đường Phùng Hưng – Hà Đông – Hà Nội. Truy điệu và hỏa táng tại Đài Hóa thân Hoàn Vũ. An táng tại quê nhà, thôn Hương Cát, thị trấn Cát Thành, huyện Trực Ninh – Nam Định.

Nguyễn Khắc Phục đã viết 13 tiểu thuyết, 70 kịch bản sân khấu, 12 kịch bản phim nhựa và hàng chục kịch bản truyền hình, lễ hội… Ngoài ra, ông còn có nhiều thơ, tiêu biểu là trường ca Kể chuyện ăn cốm giữa sân viết năm 1973 ở chiến trường khu Năm.

Tiểu thuyết cuối cùng Hỗn độn, được viết trong thời gian ông đang chữa bệnh ung thư, dài hơn 600 trang, với phụ bản là tranh vẽ của Nguyễn Khắc Phục và chân dung ông do bạn bè vẽ.

Cuối năm 2007, khi Trung Quốc công khai xây dựng “thành phố Tam Sa” trên đảo Hoàng Sa xâm chiếm của Việt Nam, nhà văn Nguyễn Khắc Phục đã viết Hùng ca Diên Hồng, theo thể Hịch. Bài viết bộc lộ lòng người yêu nước nồng nàn của một tài năng văn chương đích thực, ngập tràn cảm hứng chống ngoại xâm và nội xâm. Từ đó đến nay, Trung Quốc ngày càng bộc lộ dã tâm với Việt Nam, không chỉ trên biển đảo mà ngay cả trên đất liền, vào tận bếp ăn của mỗi nhà dân…

Đọc lại bản Hùng ca này, là cách thương tiếc và tưởng nhớ nhà văn sâu sắc nhất…

Văn Việt

 

HÙNG CA DIÊN HỒNG

(bắt chước thể Hịch)

(Đây là bản thảo trọn vẹn từ đoạn 1 đến đoạn 6. Tha thiết cầu xin Quý Bạn Đọc chia sẻ và chỉ giáo để tác giả có đủ tỉnh táo, hiểu biết thấu đáo hơn đặng hoàn chỉnh toàn bộ bản Hùng Ca. Những chữ in nghiêng trích lời, mượn ý tiền nhân, thi sĩ hoặc tục ngữ, thành ngữ Việt Nam. NKP) 

1

Con dân nước Việt

Biết mình đang ở đâu trong thế giới

Sông ngắn hơn Amazôn

Núi thấp hơn Êvơrét

Việt Nam

Tay làm hàm nhai

Thạo cày cuốc, chăn tằm và chài lưới

Sức không đủ bao trùm mấy cõi

Chí không xa mong dẫn dắt loài người

Chỉ cốt ấm ba tháng hè, no ba ngày tết

Tuần chay nào cũng có nước mắt

Bán anh em xa mua láng giềng gần

Thương người như thể thương thân

Việt Nam

Chín bỏ làm mười

Cười như thở cả buồn vui hờn giận…

2

Con dân nước Việt

Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh

Giặc vừa tan đã nhấm nháp chiến công

Há miệng chờ sung

Say ngất ngưởng mơ rừng vàng biển bạc

Vua sướng đằng vua, quan sướng đằng quan

Bán tước mua danh

Mở quốc khố lấy tiền đi đánh bạc

Khép cửa biển, ngại giao thương xứ khác

Ngồi trong xó khen nhau trích cú tầm chương

Mặc trăm họ đói rét, lầm than, oan khuất

Cha già mẹ héo, vợ góa con côi  

Tiếng khóc than tận hang cùng ngõ hẻm

Kẻ sỹ bịt mắt bưng tai

Hết chầu chực thềm rồng chờ ban lộc

Lại véo von ca ngợi thủơ vàng son

Quanh cút rượu bỗng dưng mau nước mắt

Khóc người cũ muôn năm

Khóc cho cả những giấc mộng anh hùng đã chết

Bậc thức giả dã tràng xe cát

Bao nhiêu “Thất trảm sớ” bị bỏ quên

Bao nhiêu ” Thiên hạ đại thế luận” bị giễu cợt

Bên hồ Gươm không còn ai bàn chuyện vua Lê…

3

Con dân nước Việt

Biết nhà dột từ nóc

Dù những ông vua hiền minh đã bỏ ngai vàng

Lên núi cao tìm Phật

Không cứu nổi những vương triều tụt dốc

Đất nước rối ren, vua mới lại đăng quang

Béo cò khi đục nước

Mềm nắn rắn buông

Trước Nam sau Bắc

Muốn lấy phải cho

Thời thế đổi thay

Bụng dạ thiên triều chẳng khác

Sai bầy sứ nghênh ngang

Đi giữa Thăng Long

Coi triều đình như cỏ

Mắt cú vọ hau háu ngắm mồi ngon

Rồi hùng hùng hổ hổ

Quân xâm lược tràn sang

Nhân danh thiên mệnh

Nhân danh “diệt tà, phò chính”

Nhân danh “dạy văn hiến cho ngoại man”

Chụp mũ quốc vương lên những đầu Chiêu Thống

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ

Đất tổ tiên lại quay về quận huyện

Mồ cha ông vó ngựa giặc giày tan

Tháp Báo Thiên bị cưa đổ máu còn loang

Lũ thái thú ngồi đếm ngọc trai, sừng voi và tê giác

Đồ cống nạp sũng máu người, nỗi hổ nhục cha ông

Lá cờ rũ như tay người hấp hối…

4

Con dân nước Việt

Ghét giặc như nhà nông ghét cỏ

Hào kiệt thời nào cũng có

Một cây làm chẳng lên non

Chụm lại thành hòn núi lớn

Thuận vợ thuận chồng biển Đông tát cạn

Hổ dữ cũng sợ bầy trâu

Lấy chí nhân thay cường bạo

Nước thắng Lửa

Yếu thắng Mạnh

Biết lấy đoản binh vượt qua trường trận

Biết dẹp bỏ những nghi kị bất hòa, tháo mũi sắt ra khỏi đầu gậy chống

Biết mở cửa hoàng cung đón bô lão trả lời vua

Hòa hay Đánh?

Bản hùng ca Diên Hồng tiếp lửa bến Bình Than

Cọc Bạch Đằng đã sừng sững trồi lên!

Máu cháy sôi trong hốc mắt những hồn oan

Giục người sống cầm gươm đi chiến đấu

Những trận đánh để đời Đống Đa, Vạn Kiếp, Chi Lăng…

Đánh một trận sạch không kình ngạc

Đánh hai trận tan tác chim muông

Đánh cho biết nước Nam anh hùng, có chủ

Trăng Như Nguyệt chớp lòe hùng khí

Nam Quốc Sơn Hà

Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đầu tiên dựng thế trận Diên Hồng hùng vĩ

Xã tắc hai phen lao ngựa đá

Non sông muôn thuở vững âu vàng!

5

Con dân nước Việt

Biết thế kỷ hai mươi giông bão

Biết nhà thơ gọi đúng bệnh mà đau

Dân hăm nhăm triệu ai người lớn  

Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ thơ

Lịch sử hôm nay có đi lại lối mòn

Nước đến chân mới nhảy

Đáng giận không, Đấng Nhân chủ Loa Thành

Phải đợi thần Kim Quy hiện lên mới biết giật mình

Giặc ở ngay sau lưng bệ bạ!

Giặc có phải Mỵ Châu đâu

Sao nỡ chém bay đầu tình cốt nhục

Giặc ở ngay sau lưng người cầm cân nẩy mực

Mắt mải ngắm đám quần thần nịnh hót

Tai mải nghe tiếng xưng tụng vang trời

Mũi mải ngửi mùi phấn son cung nữ

Óc mơ màng lưu danh thiên cổ

Mà trái tim không đập nhịp với lương dân

Chí đã nhụt như giáo gươm rỉ sét

Tâm càng mờ mịt

Đại vận mệnh quốc gia

Ngàn cân treo sợi tóc

Quên mối lo giặc áp sát hiên nhà

Chỉ nhăm nhe tượng đồng bia đá

Càng không hay đã đánh mất nỏ thần

Là sức mạnh của toàn dân cố kết

Khi đã lìa xa thế trận Diên Hồng

Ắt như kiến loay hoay trong chảo lửa

Trút tội tình lên cô gái đáng thương

Mỵ Châu ơi máu của nàng không phải nuôi trai bể

Mà sôi lên nhức nhối nỗi đau đất nước giết oan nàng…

6

Con dân nước Việt

Biết chọn đường đi là việc khó muôn trùng

Giữa thế giới ngổn ngang muôn lối rẽ

Đi về hướng tây hay trực chỉ phía đông

Đón mặt trời lên hay ngắm ánh sao hôm

Muốn đi hướng nào cũng phải ra tới bể

Cuộc chiến đầu tiên là lột xác chính mình

Phải thoát ra cái bóng mấy nghìn năm đè nặng

Du du bất tức

Quẩn quanh không thở được

Lấy chính cuộc vật lộn của mình trong bão táp

Để lường xem con tàu Việt Nam chịu sóng cấp bao nhiêu

Đi theo hải trình nào là tốt nhất

Lựa ngọn triều nào mau đến được tương lai

Với một chiếc la bàn chỉ hướng: Ngày Mai

Người thuyền trưởng khôn ngoan có khi phải chọn đường vòng

Tránh đá ngầm hay ghé các bến bờ tiếp lương và nước ngọt

Nhưng bên tai luôn văng vẳng tiếng tiền nhân

Mọi con sông đều chảy từ một nguồn và hướng về một bể

Đồng nguyên và đồng quy sẽ mở cửa Diên Hồng

Xưa tam giáo mà nay nhiều hơn thế

Đi với Bụt mặc áo cà sa đi với ma mặc áo giấy

Xanh vỏ đỏ lòng

Muốn ăn oản thì năng lễ Phật

Đi ngày đàng học sàng khôn

Vẫn không ra ngoài cách vượt vũ môn

Cá chép hóa rồng

Bầu thương bí

Nhiễu điều phủ giá gương

Gạn đục khơi trong

Của chồng công vợ

Của cho là của nợ

Thiên hạ đãi chân giò

Ngày mai phải thò chai rượu

Nước nghèo, thuyền yếu

Vượt đại dương sẽ mắc nợ cỡ đại dương

Buôn có bạn bán có phường

Liệu cơm gắp mắm

Con rô cũng tiếc con giếc cũng ham

Tham thì thâm

Chỉ tội nghiệp đời cháu đời con kéo cày giả nợ…

Bụt chùa nhà không thiêng

Người biết việc thành nộm rơm

Giả điếc giả câm

Rồi điếc thật, câm thật

Thuyền đua thì lái cũng đua

Trống đánh xuôi kèn thổi ngược

Quân hồi vô phèng

Trong nhà chưa tỏ ngoài ngõ đã hay

Mười ba cũng ừ mười tư cũng gật

Sư bảo sư phải vãi bảo vãi hay

Một tấc tới giời

Rồng leo cây nghệ

Quạ khoác lông công

Mặt trời mọc phía đông

Lại quang quác bài ca phương khác

Tham con săn sắt bỏ con cá rô

Khôn nhà dại chợ

Không biết sợ bút sa gà chết

Kí một chữ buông xuôi đã mắc nợ tổ tiên

Quên bài học Cổ Loa giặc ở sau lưng

Lộng giả thành chân

Nhìn gà hóa cuốc

Cha dạy học con đốt sách

Ừ, thì lịch sử giao ta phải thắng trận này

Máu xương bao triệu triệu người mới có được hôm nay

Sao vội quên lời dặn dò trong Đại Cáo

“Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới…”

Sự kiêu ngạo đã biến chiến công thành tử huyệt

Tự cô lập mình giữa trùng điệp vòng vây

Những quyết sách chết người tàn phá nốt những gì đạn bom chưa kịp phá

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Bỏ ngoài tai lời dạy của tiền nhân

Lắm vãi không ai đóng cửa chùa

Bóc ngắn cắn dài

Dòn cười tươi khóc

Pháo hoa chưa tàn dân tán loạn vùng biên

Lớp chết ngoài khơi thây vùi bụng cá

Lớp chết đói chết đau chết đạn chết mìn

Ếch kêu trong vũng tre ngâm

Tiếng thét Diên Hồng có thấu tới trời xanh?

(Thứ sáu ngày 19/12/2008)

Comments are closed.