Nhìn lại âm nhạc miền Nam 1954-1975 (kỳ 16)

Nguyễn Phú Yên

CHƯƠNG XV

TRUYỆN CA VÀ TRƯỜNG CA

Bên cạnh nguồn cảm hứng về tình yêu quê hương, tình yêu đôi lứa, các nhạc sĩ miền Nam còn tìm đến cảm xúc được gợi lên từ những câu chuyện dân gian đã ăn sâu trong tâm thức người Việt qua nhiều thế hệ hoặc là những câu chuyện đẹp từ trong văn chương. Đó là những bài truyện ca dạy con người bài học về đạo đức, về cái đẹp của tình yêu, của tình nghĩa vợ chồng, tình huynh đệ, nỗi thèm khát vĩnh cửu, niềm mơ ước bất tử…

Ngoài ra có những bài hát dài hơi được đúc kết trong một tổ khúc gồm nhiều bài có thể hát riêng hoặc hát kế tục nhau gọi là trường ca. Mỗi bài trong trường ca được diễn tả theo nội dung câu chuyện và theo cấu trúc giai điệu của mỗi bài tùy theo nguồn cảm hứng của tác giả. Ngoài các tác phẩm trường ca được nhắc đến dưới đây, còn có một số tác phẩm không phổ biến rộng rãi hoặc thất lạc như Triều vui thế hệ, Máu hồng sử xanh, Ngày trọng đại, Tiếng trống Diên Hồng của Hoàng Thi Thơ; Lửa thiêng, Hàn Giang dậy sóng, Con đường trước mặt, Những dòng sông anh em, Thêm một lần hoa nở… của Phạm Thế Mỹ.

I. TRUYỆN CA

1. Trầu cau

Ngày xưa, người nông dân Việt Nam đều biết đến sự tích Trầu Cau. Sự tích này đã được nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu kể lại trong bài hát Trầu Cau viết vào năm 1940. Đó là chuyện hai anh em nhà quan lang họ Cao rất giống nhau và thương yêu nhau thắm thiết. Người anh tên Tân Sinh và người em là Lang Sinh. Cả hai xin học nhà đạo sĩ họ Lưu và được thầy yêu mến và muốn gả con gái cho. Người con gái đem lòng yêu mến, muốn lấy người anh làm chồng, nhưng không phân biệt được ai là anh, ai là em. Một hôm, người con gái lấy một bát cháo và một đôi đũa mời hai người ăn. Thấy người em nhường người anh ăn, người con gái mới phân biệt được. Khi người anh có vợ thì người em rất buồn, nhưng người anh vô tình không biết. Một hôm hai anh em đi làm, tối mịt mới về; người vợ chạy ra vội ôm chầm lấy người em vì chàng bước vào nhà trước. Đúng lúc ấy, người anh cũng bước vào nhà, thấy vậy sinh nghi người em. Từ đấy người anh càng hững hờ với em hơn trước. Một buổi chiều, người em ngồi một mình buồn tủi, vội đứng dậy ra đi:

Ngày xưa có hai anh em nhà kia
Cùng yêu thương ở cùng nhau

Bỗng đâu chia lìa.
Vì hai người cùng yêu mến

Một cô gái làng bên
Nhưng người anh

Được kết duyên cùng nàng.
Vì như thế nên người em

Lòng buồn rầu bỏ đi khỏi làng…

Chàng đi mãi cho đến khu rừng rồi đi thẳng vào rừng âm u. Trời bắt đầu tối, chàng vẫn cứ bước đi rồi dừng chân bên một con suối. Chàng ngồi nghỉ bên bờ, khóc thổn thức, cho đến khi sương lạnh thấm dần, chàng chết đi rồi biến thành một tảng đá:

Ôi ta buồn ta đi lang thang bởi vì đâu?
Kìa sông sâu dòng êm réo như gợi mối sầu
Nhìn nước cuốn lệ rơi tuôn

Biết sao vơi niềm riêng
Kìa mây sầu giăng chơi vơi
Làm sao dừng cho nhắn đôi lời.
Dòng nước lờ trôi mây trắng cùng trôi

Qua chốn nào nơi xa xôi

Anh say sưa cùng ai

Đang xe mối tình duyên.
Thôi hết rồi giấc mơ huyền.
Qua bao nhiêu ngày

Ta đi lang thang bởi vì đâu?
Ôi ta buồn ta đi quyên sinh cũng vì ai…

Tang tính tình

Tính tang tính tình bên sông sâu
Tình Lang sinh thành phiến đá

Sầu thương theo ngày qua.

Người anh về nhà không thấy em đâu, lẳng lặng đi tìm. Chàng đi mãi, sau cùng đến con suối xanh biếc đành ngồi bên bờ suối, tựa vào tảng đá. Chàng ngồi trong sương lạnh và khóc than hồi lâu, ngất đi và chết cứng, biến thành một cây mọc thẳng ngay bên cạnh:

Trông ngóng chờ tin

Không biết vì sao nên Tân sinh
Ra đi mong tìm em thương yêu

Nỗi niềm thương nhớ.
Qua bao ngày ta đi

Lang thang cố tìm em
Dòng sông êm đềm trôi cuốn

Như vương tiếng buồn.
Nhìn nước cuốn lệ rơi tuôn

Biết sao ngăn niềm thương
Trời xanh cùng mây bay cao rừng sâu

Tìm em biết phương nào?
Nhìn chốn rừng hoang

Nghe tiếng rừng vang
Trong gió ngàn như than van
Bao nhiêu đau lòng

Sao ta đâu thấy hình em
Thôi hết rồi phút êm đềm.
Qua bao nhiêu ngày ta đi

Lang thang cố tìm em
Ôi ta buồn ta đi

Quyên sinh cũng vì em.
Tang tính tình tính tang tính tình

Tang tính tình bên sông sâu
Người Tân sinh gần phiến đá

Thành cây cau trồi lên.

Ở nhà, người vợ nóng lòng vội đi tìm chồng. Nàng đi mãi, cuối cùng gặp con suối sâu. Nàng không còn đi được nữa, ngồi tựa vào gốc cây than khóc. Chưa đầy nửa đêm mà nàng đã mình gầy xác xơ, thân mình biến thành một cây leo quấn chặt lấy cây không cành bên tảng đá:

Trông ngóng chờ tin không biết

Chồng sao nên bâng khuâng
Trong yêu thương nàng ra đi

Mong kiếm chồng yêu mến.
Đây cây rừng

Thông reo vi vu bóng chồng đâu
Dòng sông ơi

Nào ai sớt cho vơi mối sầu.
Nhìn nước cuốn lệ rơi tuôn
Biết sao vơi niềm thương
Làn mây chiều đang giăng tơ
Nhìn mây lòng man mác mong chờ.
Kìa gió rừng lên xao xuyến lòng em

Thương nhớ chàng ôi sao quên?
Mây ơi xin đừng bay

Cho ta nhắn vài câu.
Cho thấy chồng bớt nguôi sầu.
Ôi đây cây rừng

Thông reo vi vu biết làm sao?
Đây hương hồn

Em xin theo anh đến trời cao.
Tang tính tình tính tang tính tình

Tang tính tình bên sông sâu,

Niềm tương tư nàng chốc biến

Thành ra dây trầu xanh.
Lưu luyến tình xưa

Âu yếm trầu leo quanh thân cau
Qua bao năm tình thiêng liêng

Thắm cùng mưa nắng…

Câu chuyện làm ai nấy đều thương xót. Người dân gọi cây thẳng đứng là cây cau, cây dây leo là cây trầu, lại lấy tảng đá đem về nung cho xốp để ăn với trầu cau, cho miệng thơm và môi đỏ. Tình duyên của ba người vẫn keo sơn, thắm thiết, và tục ăn trầu của người dân Việt có từ đó. Về mặt âm nhạc, NS Phan Huỳnh Điểu sử dụng thang âm ngũ cung Bắc thuần nhất để gần gũi với tâm hồn người Việt hơn.

2. Thiên Thai

Trong truyền thuyết Trung Hoa (Lưu Thần và Nguyễn Triệu) cũng như trong cổ tích Việt Nam (Từ Thức) kể rằng có người trần gian đi lên núi hái thuốc và gặp được tiên nữ rồi ở lại cung tiên. Câu chuyện đẹp này được nhiều nhạc sĩ kể thành ca khúc.

Chẳng hạn, trong bài hát Thiên Thai, Văn Cao kể chuyện Lưu Thần và Nguyễn Triệu là hai chàng trai rủ nhau đi lên núi Thiên Thai. Cảnh đẹp thiên nhiên đã cuốn hút hai chàng trai:

Tiếng ai hát chiu nay vang lng trên sóng

Nh Lưu Nguyn ngày xưa lc ti Đào nguyên

Kìa đường lên tiên,

Kìa ngun hương duyên

Theo gió tiếng đàn xao xuyến.

Phím tơ lưu luyến

Mấy cung u huyn

My cung trìu mến

Như nước reo mn thuyn.

Âm ba thoáng rung cánh đào rơi

Nao nao bu sương khói ph quanh tri.

Lênh đênh dưới hoa chiếc thuyn lan

Quê hương dn xa lp núi ngàn

Bâng khuâng chèo khua nước ngc tuyn

Ai hát trên b Đào nguyên…

Trong thiên nhiên tuyệt đẹp ấy, hai chàng gặp tiên nữ rồi cùng hai nàng kết duyên thành vợ chồng, sống bên nhau đầm ấm trong tiếng nhạc Nghê thường say đắm:

Thiên Thai chốn đây hoa xuân

Chưa gặp bướm trần gian
Có một mùa đào dòng ngày tháng

Chưa tàn qua một lần
Thiên tiên chúng em xin dâng

Hai chàng trái đào thơm
Khúc nghê thường này

Đều cùng múa

Vui bầy tiên theo đàn.
Đèn soi trăng êm

Nhạc lắng tiếng quyên

Dây đó nỗi lòng mong nhớ
Này khúc bồng lai

Là cả một thiên thu

Trong tiếng đàn chơi vơi.
Đàn xui ai quên đời dương thế
Đàn non tiên đàn khao khát

Khúc tình duyên.

Sau khi ở cảnh tiên một thời gian thì hai chàng chợt nhớ quê nhà, muốn về thăm. Khi trở lại quê hương thì cảnh vật hoàn toàn đổi khác, hỏi ra mới biết đã bao nhiêu đời đã đi qua. Người xưa không còn ai, lòng buồn vô hạn, hai chàng tìm đường trở lại nhưng than ôi, đường xưa lạc lối nên không tìm được cõi tiên nữa. Từ đó người ta chẳng còn thấy hình bóng hai chàng nơi nao.

Thế giới thần tiên đúng là nỗi thèm khát vĩnh cửu của con người:
Thiên Thai! Ánh trăng xanh mơ

Tan thành suối trần gian
Ái ân thiên tiên em ngờ phút

Mê cuồng có một lần
Gió hắt trầm tiếng ca

Tiếng phách ròn lắng xa
Nhắc chi ngày xưa đó

Đến se buồn lòng ta
Đào Nguyên trước

Lưu Nguyễn quên trần hoàn
Cùng bầy tiên đàn ca bao năm
Nhớ quê chiều nào xa khơi

Chắc không đường về

Tiên nữ ơi!
Đào Nguyên trước

Lưu Nguyễn khi trở về
Tìm Đào Nguyên,

Đào Nguyên nơi nao?
Những khi chiều tà trăng lên
Tiếng ca còn rền trên cõi tiên.

Ngoài Văn Cao, còn có các nhạc sĩ khác cũng lấy câu chuyện này làm nguồn cảm hứng nhưng không phải để kể lể nội dung câu chuyện mà chỉ để diễn tả thiên nhiên tươi đẹp mà tác giả mường tượng ra bằng những giai điệu êm ái. Chẳng hạn Phạm Duy trong bài hát Tiếng sáo thiên thai:

Xuân tươi êm êm ánh xuân nng

Nâng niu sáo bên rng,

Dăm ba chú Kim đng

(Hò xàng xê) Tiếng sáo,

Nh nhàng lướt c nng

Nhc lòng đưa hiu ht,

Và bun xa bun vng

Mênh mông là bun!

Tiên nga, buông lơi

Tóc bên ngun

Hiu hiu lũ cây tùng

Ru ru tiếng trên cn.

(Hò ơi) làn mây ơi!

Ngp ngng sau đèo vng,

Nhìn mình cây nhum nng,

Và chiu như chìm lng,

Bóng chiu không đi…

Nhạc sĩ Võ Đức Thu thì phổ nhạc bài thơ Tống biệt của Tản Đà bằng nhịp điệu tango:

Lá đào rơi rắc li thiên thai

Sui tin oanh đưa nhng ngm ngùi

Na năm tiên cnh mt bước trn ai

Ước cũ duyên tha có thế thôi.

Ðá mòn rêu nht nước chy huê trôi

Cái hc bay lên vút tn tri

Tri đt t nay xa cách mãi

Ca đng đu non đường li cũ

Nghìn năm thơ thn bóng trăng chơi.

3. Trương Chi

Một câu chuyện tình diễm lệ khác trong cổ tích Việt Nam cũng được NS Văn Cao kể bằng những giai điệu tuyệt đẹp của dòng nhạc lãng mạn, đó là bài hát Trương Chi. Chuyện kể ngày xưa có nàng Mỵ Nương xinh đẹp tuyệt trần, con một vị đại thần. Nàng sống cô đơn trong cảnh trướng phủ màn che nhưng lòng luôn buồn bã. Cha nàng cho xây một căn nhà nhỏ bên bờ sông để nàng khuây khỏa. Hằng ngày nàng ra đó để thêu thùa, đọc sách, nhất là để nghe tiếng sáo của chàng Trương Chi, một thanh niên làng chài ven sông:

Mt chiu xưa trăng nước chưa thành thơ

Trm trm không gian mi rung thành tơ

Vương vt heo may hoa yến mong ch

Ôi tiếng cm ca thu ti bao gi.

Lòng chiu bơ vơ lúc thu va sang

Chp chùng đêm khuya thc ai phòng loan

Mt cánh chim rơi trong khúc nhc vàng

Đây đó tng song the hé đi đàn.

Bỗng một thời gian Mỵ Nương không còn nghe tiếng sáo, vì quá thương nhớ tiếng sáo mà sinh bệnh. Không có ai chữa được bệnh của nàng.

Tây hiên Mỵ Nương khi nghe tiếng ngân
Hò khoan mơ bóng con đò trôi
Giai nhân cười nép trăng sáng lả lơi,

Lả lơi bên trời.
Anh Trương Chi,

Tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung

Anh thương nhớ,

Oán trách cuộc từ ly não nùng.
Đò trăng cắm giữa sông vắng

Gió đưa câu ca về đâu?
Nhìn xuống đáy nước sông sâu

Thuyền anh đã chìm đâu!

Vô tình cha nàng biết được nguyên nhân của căn bệnh của con gái chính là tiếng sáo của Trương Chi. Ông liền mời chàng đến, thấy chàng xấu xí ông lệnh chỉ được thổi sáo từ ngoài sân vọng vào. Mỵ Nương nghe thấy tiếng sáo quen thuộc thì khỏi bệnh, xin được gặp người thổi sáo. Vừa thấy Trương Chi, Mỵ Nương đã vô cùng thất vọng vì dung mạo của chàng. Trương Chi về nhà bỗng thầm yêu trộm nhớ Mỵ Nương nhưng không được đền đáp. Chàng thất vọng và đau buồn cho thân phận nghèo hèn của mình, mang bệnh tương tư, rồi sầu héo dần mà chết. Người làng mang xác chàng đem chôn. Khi bốc mộ mọi người thấy một khối cầu trong suốt bèn đem gắn vào mạn chiếc thuyền cũ của chàng. Tình cờ, cha Mỵ Nương thấy viên hình cầu đẹp như ngọc liền mua về làm thành chiếc chén uống trà. Mỵ Nương muốn dùng thử. Nhưng vừa rót trà vào, nàng thấy trong

chén trà hiện lên hình bóng Trương Chi, và tiếng sáo năm xưa hiện lên như than như trách. Nàng chạnh lòng nhớ lại mối tình đã qua. Một giọt nước mắt của nàng rơi xuống chén và chiếc chén bỗng tan tành.

Lòng bâng khuâng theo mưa đưa canh tàn
Về phương xa ai nức nở và than
Cùng với tiếng gió vương
Nhìn thấy ngấn nước

Lấp lánh in bóng đò xưa…

Kết thúc câu chuyện, Văn Cao gieo một nỗi buồn nhân thế như là một bài học dân gian:
Đàn đêm thâu

Trách ai khinh nghèo quên nhau
Đôi lứa bên giang đầu
Người ra đi với cuộc phân ly
Đâu bóng thuyền Trương Chi?

Nhạc sĩ Mạc Phong Linh và Mai Thiết Lĩnh cũng viết bài Chuyện tình Trương Chi – Mỵ Nương từ câu chuyện trên:

Ngày xưa Trương Chi sống cô đơn

Lênh đênh với con đò giữa dòng sông sâu
Khách qua nơi đây mấy kẻ hay

Cuộc đời anh nghệ sĩ giọng tiêu ngàn sầu.
Ngày tháng trôi đi như vô tư

Ngờ đâu cung cấm Mỵ Nương

Từng đêm nghe cung tiêu
Tha thiết canh thâu như rót vào tim

Bao nhiêu nỗi buồn vô bờ…

Tủi thân Trương Chi số vô duyên

Tim anh chết đi rồi kết thành ngọc châu
Biết tin đau thương ấy Mỵ Nương

Liền tìm viên ngọc quý tiện chung dùng trà.
Nào có ai hay trong chung kia

Hình Trương Chi bóng đò hiện lên

Như bao đêm xưa. Đau xót cho ai

Thương tiếc tình duyên

Nên nát ngọc vì lệ rơi.

Cũng với câu chuyện này, nhạc sĩ Phạm Duy không kể lể nhưng cũng bày tỏ cảm xúc với những giai điệu nhẹ nhàng, thắm thiết trong bài hát Khối tình Trương Chi viết năm 1952:

Đêm năm xưa khi cung đàn lên tơ

Hoa lá quên gi tàn

Mây trng bay tìm đàn

Hn người thn thc trong phòng loan.

Đêm năm xưa nghe cung đàn gây mơ

Âu yếm nâng tà qut, hôn gió đưa v thuyn

Tưởng người trên sóng du thn tiên…

Đêm năm xưa tương tư người hò khoan
Ôm ấp bao mộng vàng

Cho tới khi gặp chàng
Thì đành tan vỡ câu chờ mong.
Đêm năm xưa trên con thuyền lẻ loi
Khi trót yêu người rồi xa cách nhau vì đời
Tủi hờn duyên kiếp bao giờ nguôi…
Đêm năm xưa ôm mối tình dở dang
Chôn đáy sông hồn cầm

Ai chết đêm nguyệt rằm
Nợ tình còn đó chưa đền xong.
Đêm năm xưa chưa nguôi lòng yêu ai
Duyên kiếp trong cuộc đời,

Đem xuống nơi tuyền đài
Để thành ngọc đá mong chờ ai.
Đêm năm xưa yêu dấu người xa xăm
Nâng chén trong lầu buồn,

Thương nhớ nơi ngàn trùng
Lệ sầu rơi xuống câu hò khoan.
Ôi duyên kia ai đã trả cho ai
Cho mắt rơi lệ rồi,

Cho chén tan thành lời
Để thành bài hát ru lòng tôi.

4. Chú Cuội

Chú Cuội là một hình ảnh nên thơ từ trong truyện cổ tích được lưu truyền nên thành câu ca dao “Thằng Cuội ngồi gốc cây đa/ Để trâu ăn lúa, gọi cha ời ời/ Cha còn cắt cỏ trên trời/ Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên/ Ông thời cầm bút cầm nghiên/ Ông thời cầm tiền đi chuộc lá đa”. Câu chuyện được mọi người nhắc đến trong ngày rằm tháng tám. Nhìn lên mặt trăng, người ta thấy một vết đen rõ hình một cây cổ thụ có người ngồi dưới gốc, người ta gọi cái hình ảnh ấy là hình chú Cuội ngồi gốc cây đa….

Trong ngày Trung Thu, chú Cuội và chị Hằng là hai nhân vật chính mà các em nhỏ quan tâm tới. Câu chuyện trong truyện cổ tích được thiếu nhi yêu thích, khêu gợi cho các em sự tưởng tượng phong phú phù hợp với lứa tuổi của các em cũng được các nhạc sĩ đan dệt thành những giai điệu êm ái:

Bóng trăng trắng ngà có cây đa to
Có thằng Cuội già ôm một mối mơ.
Lặng yên ta nói Cuội nghe
Ở cung trăng mãi làm chi.
Bóng trăng trắng ngà có cây đa to
Có thằng Cuội già ôm một mối mơ.
Gió không có nhà gió bay muôn phương
Biền biệt chẳng ngừng trên trời nước ta.
Lặng nghe trăng gió bảo nhau
Chị kia quê quán ở đâu?
Gió không có nhà gió bay muôn phương
Biền biệt chẳng ngừng trên trời nước ta.
Có con dế mèn suốt trong đêm khuya
Hát xẩm không tiền nên nghèo xác xơ
Đền công cho dế nỉ non
Trời cho sao chiếu ngàn muôn.
Có con dế mèn suốt trong đêm khuya
Hát xẩm không tiền nên nghèo xác xơ.
Sáng rơi xuống đồi sáng leo lên cây
Sáng mỏi chân rồi, sáng ngồi xuống đây.
Cùng trông ánh sáng cười vui
Chị em ta hãy đùa chơi.
Sáng rơi xuống đồi sáng leo lên cây
Sáng mỏi chân rồi, sáng ngồi xuống đây.
Các em thích cười muốn lên cung trăng
Cứ hỏi ông Trời cho mượn cái thang.
Mười lăm tháng tám trời cho
Một ông trăng sáng thật to
Các em thích cười muốn lên cung trăng
Cứ hỏi ông Trời cho mượn cái thang.

(Lê Thương, Thằng Cuội)

Cũng như nhạc sĩ Lê Thương, nhạc sĩ Phạm Duy cũng chỉ kể câu chuyện thoáng qua bằng những giai điệu nhẹ nhàng để các em vui chơi:

Thằng Cuội yêu chị Hằng Nga
Nói dối ông bà lên tới Mặt trăng
Ố tang tình tang! Ố tang tình tình!
Kể từ khi Cuội ra đi
Làng xóm không ngờ cũng nhớ Cuội ghê
Ố tang tình tang! Ố tang tình tình!
Cuội thì sau cuộc phiêu du
Cuội ngồi thương nhớ quê nhà xa xôi
Ố tang tình tang! Ố tang tình tình!
Cuội ngồi dưới ngọn cây đa
Để trâu ăn lúa kêu cha ời ời
Ố tang tình tang! Ố tang tình tình!…

(Phạm Duy, Một đàn chim nhỏ, 1957)

Trong một bài khác, Phạm Duy cũng kể câu chuyện thơ mộng này nhưng dành cho lứa tuổi lớn đầy mơ mộng hơn với nhịp điệu luân vũ:

Trăng soi sáng ngời treo trên biển trời
Tình ơi một đàn con trai
Rủ đàn con gái ra ngồi nhìn trăng.
Ra nghe chú Cuội ngồi gốc cây đa
Cuội ơi để trâu ăn lúa
Nhìn mây theo gió miệng ca bời bời.
Ta yêu cô Hằng đêm xưa xuống trần
Nàng ơi nàng về dương gian
Tìm người nuôi nấng cung đàn Hằng Nga
Xin đôi cánh vàng mượn chiếu mây non
Cuội ơi Cuội theo ánh sáng
Cuội lên cung vắng Cuội không về làng.
Ánh trăng vàng bên người đẹp yêu chồng
Khúc Nghê thường

Quên đường về dương gian
Ánh trăng vàng kìa là ánh trăng vàng
Đời dương thế có người trong đêm tối
Chờ sao chiếu mối tình của Hằng Nga
Đời đời mọc trăng tơ sáng lóa.
Trăng soi tóc thề đưa trai gái về
Tình ơi nửa đường thôn quê
Gặp đàn em bé hát vè một câu.
Câu thơ chú Cuội mà lấy tiên nga
Cuội ơi để trâu ăn lúa
Ngồi trên lưng gió tình yêu mặn mà.

(Phạm Duy, Chú Cuội, Chợ Neo, Thanh Hóa, 1948)

Nhạc sĩ Phạm Đình Chương nhân một đêm trăng bỗng liên tưởng đến câu chuyện chú Cuội nhưng được thêm thắt nhiều chi tiết thơ mộng để lôi cuốn các em hơn:

Đêm nay trăng chiếu qua làng

Có người ra ngắm trăng màng màng mơ

Trăng quê như lúa lên tơ

Ta ngồi nhặt ánh trăng thơ ngát tình.

Ai hay trăng sáng trong lành

Ấp ủ một mối duyên tình ngàn thu

Ai ơi say với trăng thâu

Lại đây mà lắng nghe câu chuyện này…
Ngày xưa, ngày xửa, chứ ngày xưa
Có chàng mục tử dối quê (mà) dối làng
Dối cha dối mẹ họ hàng
Trời đày anh sống Cung Hằng xa xa.
Anh mang tên Chú Cuội Già
Trăm năm ở với Hằng Nga yêu kiều
Tính tình tang.

Đàn tình reo (ớ ơ) vang ơ hờ…
Một hôm chàng bỗng thấy yêu
Và liều ăn cắp rất nhiều để cho
Rượu tiên, châu báu, hoa thơm
Đàn vàng, thơ ngọc để dâng Hằng Nga.
Ngọc Hoàng giận phạt Cuội ta
Đày xuống dương thế

Khiến xa lìa người thương
Để anh xa cách người thương
Khóc than mối tình

Trên đường trần gian.
Cho nên khi xuống dương trần
Sống đời mưa gió, âm thầm lẻ loi.
Anh đi gieo rắc muôn nơi
Cung đàn ai oán cho vơi nỗi buồn.
Đêm nao trăng sáng trăng tròn
Có mình anh đứng ôm đàn để mơ
Anh nay nói dối hơn xưa,
Vì mong lại kiếp Cuội Già gần em.

(Phạm Đình Chương, Kiếp Cuội già,1953)

5. Ngưu Lang – Chức Nữ

Ngưu Lang – Chức Nữ là truyện cổ tích có liên quan đến các sao Chức Nữ (Vega) và sao Ngưu Lang (Altair), dải Ngân hà và hiện tượng mưa ngâu. Trong truyện cổ tích Trung Hoa cũng có nhắc tới câu chuyện này nhưng nội dung không giống với truyện của Việt Nam. Ngưu Lang là vị thần chăn trâu của Ngọc hoàng Thượng đế, vì say mê một tiên nữ phụ trách việc dệt vải tên là Chức Nữ nên bỏ bê việc chăn trâu. Chức Nữ cũng vì mê tiếng tiêu của Ngưu Lang nên bê trễ việc dệt vải. Ngọc hoàng giận dữ, bắt cả hai phải ở cách xa nhau, người đầu sông Ngân, kẻ cuối sông, cho hai người mỗi năm được gặp nhau vào ngày bảy tháng bảy âm lịch khi cầu Ô Thước do chim ô (quạ) và chim thước (chim khách) kết cánh tạo ra. Khi tiễn biệt nhau, Ngưu Lang và Chức Nữ khóc sướt mướt. Nước mắt của họ rơi xuống trần hóa thành cơn mưa và được người dưới trần gian đặt tên là mưa ngâu.

Câu chuyện này được nhạc sĩ Thẩm Oánh từ rất sớm viết thành ca khúc thuộc loại tình buồn vì xa cách. Âm nhạc dìu dặt chạy trên cung thứ với nhịp điệu tango, đôi lúc có nốt biến hóa để thêm âm sắc cho phong phú giai điệu:

Một tuần ngâu mưa rơi buồn reo

Lá tung sầu theo nhớ nhung tiêu điều

Cơn cơn nơi phương trời

Tình tan vỡ muôn đời

Rầu rầu năm năm

Chức Nữ khóc Ngưu Lang

Niềm hận thương tràn khắp nhân gian.

Đều đều giọt mưa

Giọt mưa đều rơi suốt đời u ám

Nhịp cầu mong manh

Ô Thước bắc ghềnh

Vợ chồng ngâu buồn tủi trông nhau.

Ngồi xa mây gió

Vương mang hàng lệ thương

Trút nên mưa gieo sầu xuống đời

Một ngày gang tấc

Thôi Nam Bắc đôi nơi

Chàng với nàng ngậm ngùi chia phôi.

Câu chuyện thương tâm đem lại cho người trong cuộc những giọt lệ ngân cũng là những giọt mưa buồn tủi gieo chút xót thương cho người nghe mãi mãi đời sau:

Ngoài xa mưa gió, khóc vợ chồng ngâu

Vàng trút ngàn lá, ai nhớ ai sầu.

Một tuần ngâu sầu lắng canh thâu

Ngàn muôn kiếp sau khôn ngừng khóc nhau

Ôi duyên ngang trái thắm có chừng thôi

Ngân giang muôn đời còn nhiều lệ rơi.

(Thẩm Oánh, Vợ chồng ngâu)

Phạm Duy cũng viết một bài tình buồn vì chia lìa đôi lứa nhưng người nghe vẫn thấy được nhạc sĩ lấy cảm hứng từ câu chuyện Ngưu Lang-Chức Nữ:

Một người ngồi bên kia sông

Im nghe nước chảy về đâu
Một người ngồi đây trông hoa

Trôi theo nước chảy phương nào.
Trời thì mưa rơi mưa rơi

Không ngưng suối tuôn niềm đau
Người thì hẹn nhau sang sông

Mong cho chóng tạnh mùa ngâu.
Cuộc đời làm cho đôi bên

Yêu nhau cách một biển sâu
Hẹn hò tàn thu sang xuân

Bên nhau biết thuở ban đầu
Dù tình không nguôi

Đôi ta xin cho hứa vui về sau
Trời còn làm cho mưa rơi

Mưa rơi cách biệt dài lâu…
Nước vẫn trôi mau mắt vẫn hoen sầu
Đành để hồn theo nước trôi không màu
Số kiếp hay sao, không cho bắc cầu
Thì xin sông nước sẽ cho gần nhau.
Một người bèn ra ven sông

Buông theo nước cuồn cuộn mau
Một người chìm sâu trong khi mưa ngâu

Bỗng ngừng ngang đầu
Cuộc tình thương đau

Êm êm trôi theo nước xuôi về đâu
Hẹn hò gặp nhau thiên thu

Cho phong phú đời người sau.

(Phạm Duy, Hẹn hò)

6. Trác Văn Quân

Tình sử Trung Hoa nói về Tư Mã Tương Như, tự Tràng Khanh (179 TCN117 TCN), người ở Thành Đô đời nhà Hán. Người rất đa tài, văn hay, đàn giỏi. Khi lìa quê lên Tràng An để lập công danh, đến con sông đầu làng, Tương Như viết trên cầu một câu: "Bất thừa cao xa tứ mã, bất phục quá thử kiều" (Không ngồi xe cao bốn ngựa, không qua lại cầu này nữa). Vốn con người hào hoa rất mực, ông mua được một chức quan nhỏ; làm quan trong ít lâu, chán, cáo bệnh, qua chơi nước Lương, rồi trở về nước Thục. Đến đâu, Tương Như cũng dùng bút mực và cây đàn để giao thiệp bằng hữu. Trong khi đến đất Lâm Cùng, Tương Như vốn sẵn quen với Vương Cát là quan lệnh ở huyện, nên đến chơi. Cát lại mời Tương Như cùng đi dự tiệc ở nhà Trác Vương Tôn, vốn là viên ngoại trong huyện. Nghe tiếng Tương Như đàn hay nên quan huyện cùng Trác Vương Tôn yêu cầu đánh cho một bài.

Họ Trác vốn có một người con gái rất đẹp tên Văn Quân, còn nhỏ tuổi mà sớm góa chồng, lại thích nghe đàn. Tương Như được biết, định ghẹo nàng, nên vừa gảy đàn vừa hát khúc "Phượng cầu hoàng" (Chim phượng trống tìm chim phượng mái).

Trác Văn Quân nghe được tiếng đàn, lấy làm say mê, đương đêm bỏ nhà đi theo chàng. Đôi trai gái đó mở một quán nấu rượu. Vợ chồng cùng cặm cụi làm ăn. Sau Hán Vũ Đế đọc bài Tử hư phú của Tương Như, khen tài mới vời vào triều, ban chức tước. Lại sai chàng cầm cờ tiết, thay nhà vua về Ba Thục chiêu an bọn phụ lão tùng phục nhà Hán. Lần này thỏa chí bình sinh, Tương Như áo gấm vinh quy được người đón rước long trọng. Nhưng làm quan ít lâu, lại chán, cáo bệnh lui về quê. (4)

Từ câu chuyện trên, nhạc sĩ Phạm Duy Nhượng đã bày tỏ cảm xúc quý mến về chuyện tình của hai người để viết thành bài ca với giai điệu êm đềm và tiết tấu dìu dặt của điệu luân vũ:

Có những chiều hoa, nồng nhạt say liên hoan
Bên những người hoa, ngạt ngào hương tóc phấn
Một chàng phiêu lãng, ôm đàn tới giữa đời
Đàn hôn làn tóc, người đẹp tươi nét môi
Mộng vương tà áo, nhạc giao tình chơi vơi!

Ta gửi về người ôi mấy cung đàn Tư Mã xưa

Yêu đôi mắt huyền xinh như dáng thuyền

Ai nhẹ lay màn the thấp thoáng?

Nàng nhẹ đôi gót hài dừng bên mái ngoài

Văng vẳng tiếng ai cười như mộng đời xa xôi.

Tư Mã người ơi, dừng đàn bên Văn Quân

Nâng phím hào hoa, kề làn môi giai nhân

Về nhà bên suối, cung đàn ấp má đào

Mộng chưa tàn khúc, Phượng Cầu lưu luyến nhau

Phượng ôi, đàn vắng tìm chim hoàng nơi nao?

(Phạm Duy Nhượng, Tà áo Văn Quân)

7. Thiếu phụ Nam Xương

Nhạc sĩ Thẩm Oánh trong bài hát Thiếu phụ Nam Xương đã kể lại câu chuyện cảm động bằng bài hát đầy kịch tính. Chuyện kể về người con gái Nam Xương, có tên là Vũ Thị Thiết, thường được gọi là vợ chàng Trương. Nàng là người có dung hạnh vẹn toàn, chồng là Trương Sinh tính tình hay ghen. Vũ Nương sắp đến kỳ sinh nở thì chồng bị gọi đi lính. Ở nhà Vũ Nương sinh con và chăm nom mẹ chồng rất mực chu đáo. Vì nhớ thương con, mẹ chồng nàng ngày càng ốm nặng rồi mất, nàng lo tang ma chu đáo như với cha mẹ đẻ mình. Để đỡ nhớ chồng, nàng hay đùa với con bằng cách chỉ cái bóng của mình lên vách và nói với con đó là cha Đản.

Ai đời còn nhớ chăng?

Xóm Nam Xương có một nàng

Lòng trinh muôn đời muôn kiếp

Mang đến tuyền đài cam ức ôm hờn.

Ôi đến bao tan.

Từ chồng ra đi chiến tranh phân kỳ

Rầu rầu chiếc thân tàn canh soi bóng

Ôm con nhớ thương ngợp lòng

Chờ ngày khang thái,

Tái lai rực hồng ánh dương.

Con thơ chiều đêm hoài kêu nhớ cha

Khi ánh đăng soi mờ bóng nhòa

Chỉ bóng tường dụ dỗ dối con thơ

Rằng:"Đây chính cha

Đêm tối mới về cùng con".

Từ chiến trường trở về, Trương Sinh đau buồn ra thăm mộ mẹ, bế Đản theo. Ra đến đồng đứa trẻ quấy khóc vì đứa bé bảo Trương không phải là cha Đản, cha Đản đêm nào cũng đến, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.

Rồi từ đó ánh đèn tàn đêm,

Hình nàng in trên vách tường,

Con giỡn đùa nô bóng cha rộn ràng

Nào ngờ đâu vì đó ly tan.

Người cha sau ít lâu hồi hương

Một sáng quang minh chim ngàn kêu đàn

Mừng mừng tủi tủi mang mang.

Nàng bế con ra:"Đây bố đã về cùng con"

Thằng bé kêu rằng:

"Không không bố tôi đêm tối mới về

Không không bố tôi đêm tối mới về

Không không bố tôi đêm tối mới về".

Không cần hỏi cho rõ ngọn ngành, Trương đã nổi cơn ghen đánh đuổi Vũ Nương đi, không ai có thể khuyên can được. Không thể thanh minh được, Vũ Nương đành nhảy xuống sông tự vận, lấy cái chết để minh oan cho mình.

Ôi đau thương, ôi ly tan

Đau đớn cho nhau,

Chua xót cho nhau chim thương lìa đàn.

Ôi đau thương, ôi nguy nan

Cuồng ghen sôi máu

Phũ phàng dày đạp nát tan.

Trời thấu cho lòng thiếp chăng

Trinh chuyên mang oan phụ chàng!

Xin đem thân như hoa tàn trôi đi

Trôi khuất xuôi với nước dòng Hoàng Giang.

Trương Sinh tuy giận nhưng vẫn thương xót. Một buổi tối Đản chỉ vào cái bóng trên tường và nói “Đấy, cha Đản lại đến kia kìa”. Trương Sinh ân hận vô cùng nhưng việc đã rồi (5). Người đời sau lập miếu thờ bà trên bờ sông Hoàng Giang thuộc làng Vũ Điện, huyện Nam Xương (nay thuộc huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam).

Bóng đêm mờ đèn khêu u uất

Chàng bồng con thơ in bóng lên tường.

Thằng bé vui mừng:

"Đây đây bóng cha đêm tối đã về,

Đây đây bóng cha đêm tối đã về

Đây đây bóng cha đêm tối đã về".

Ôi nghi oan, ôi ly tan

Đau đớn cho nhau,

Chua xót cho nhau chim thương lìa đàn.

Ôi nguy nan, ôi đau thương

Cuồng ghen sôi máu lỡ rồi tình đã nát tan.

Bồng con đứng trông theo

Dòng Hoàng Giang

Tình oan ngập mây u ám,

Muôn năm mối hờn

Bao tan nơi cửu tuyền

Cho đời còn nhớ quên?

Nghe câu chuyện này, vua Lê Thánh Tông có làm bài thơ cảm tác về cái chết của vợ chàng Trương. Bài thơ này nhà vua cho khắc vào bia đá trước miếu bà: Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương/ Miếu ai như miếu vợ chàng Trương/ Ngọn đèn dầu tắt đừng nghe trẻ/ Làn nước chi cho lụy đến nàng/ Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt/ Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng/ Qua đây mới rõ nguồn cơn ấy/ Khá trách chàng Trương khéo phụ phàng.

8. Hoa thủy tiên

Ngày xưa, có một ông phú hộ sinh được bốn người con trai. Khi biết mình sắp qua đời, ông gọi bốn người con đến, dặn dò các con phải chia gia tài của cha làm bốn phần đều nhau. Bốn người con hứa tuân lời cha trối lại, tuy nhiên vừa chôn cất cha xong thì ba người con đầu giành phần gia tài nhiều hơn người em út. Họ chỉ chia cho đứa em út một mảnh đất khô cằn. Người em út rất buồn, vừa thương nhớ cha, vừa buồn các anh xử tệ với em. Đang ngồi khóc một mình trước mảnh đất khô cằn, thì người em bỗng thấy

một bà Tiên từ mặt ao gần đó hiện lên bảo:
– Này con, thôi đừng khóc nữa. Khoảnh đất này của con có chứa một kho tàng mà các anh con không biết. Kho tàng này chứa nhiều mầm của một loại hoa quý vô giá. Mỗi năm, cứ đến mùa xuân thì hoa đâm chồi nẩy lộc, nở từng hàng chi chít trên đất đai của con. Con sẽ hái hoa, đem bán rất được giá. Nhờ đó, chẳng bao lâu thì con sẽ giàu có hơn các anh.

Quả thật, đến mùa xuân ấy, đúng như lời bà Tiên nói, mảnh đất khô cằn của người em bỗng nhiên mọc lên từng hàng hoa trắng, hương thơm ngào ngạt. Để nhớ đến ơn lành của bà Tiên, người em đặt tên cho loại hoa này là hoa Thủy Tiên.
Những người thích hoa, chơi hoa và những người giàu thi nhau đến mua hoa thủy tiên hiếm quý với giá rất đắt. Chẳng bao lâu, người em trở nên giàu có. Rồi cứ mỗi năm Tết đến, người em út lại giàu thêm, hơn ba người anh tham lam kia.
Người ta tin rằng hoa Thủy Tiên mang lại tài lộc và thịnh vượng. Do vậy, mỗi dịp Tết đến, chơi hoa thủy tiên trở thành một tục lệ đón Xuân. Những ngày cuối năm, thủy tiên được chăm sóc để hoa nở đúng giao thừa, hy vọng mang đến tài lộc sung túc và may mắn trong năm mới.

Câu chuyện dân gian như thế nhưng nhạc sĩ Lê Thương trong bài hát Hoa thủy tiên thì kể một câu chuyện khác. Về âm nhạc, tác giả hoàn toàn sử dụng thang âm ngũ cung xuyên suốt cả bài, ngoại trừ một nốt nhạc nằm ngoài ngũ cung nhưng cũng không kéo dài:

Một nghìn năm trước

Trong đời Trần Nam quốc

Có cô công chúa lòa

Cả đời nuôi nấng hoa.

Trời làm nắng gió

Sau một chiều giông tố

Các hoa trên gác lầu

Phải một cơn đớn đau.

Nàng bạch mẫu đơn

Trôi lạc mất con

Khấn xin công chúa lòa

Tạ đền nụ hoa cho bà.

Lòng nàng công chúa

Thương người và hoa quá

Đến đêm xin khấn trời

Xin đền nụ hoa đã rơi.

Nàng bày trên gác

Ước chừng mười tô nước

Khấn xin ba tháng ròng

Nhưng trời chỉ cho nước trong.

Ngày tháng chóng qua thu hè đã xa

Cuối đông năm đó

Trời cho nàng Thủy Tiên xuống đời.

Nằm chìm trong nước

Đang chờ thời gian lướt

Thấy cô công chúa lòa,

Cô nàng Thủy Tiên tiến ra

Trình bày trên bát

Ba lòng vàng thơm ngát

Khiến cho đôi mắt lòa

Của nàng công chúa sáng ra

Nàng mở mắt xong

Trông vào tô nước trong

Thấy xuân năm đó

Trời cho nàng Thủy Tiên xuống đời.

(Lê Thương, Hoa thủy tiên)

9. Huyền Trân công chúa

Huyền Trân công chúa (1287-1340) là công chúa đời nhà Trần, con gái của vua Trần Nhân Tông. Năm 1306, Huyền Trân công chúa được gả cho Quốc vương Chiêm ThànhChế Mân (Jaya Sinhavarman III) để đổi lấy hai châu Ô, (từ đèo Hải Vân, Thừa Thiên – Huế đến phía bắc Quảng Trị ngày nay). Một năm sau, Chế Mân chết, Huyền Trân công chúa được Trần Anh Tông sai Trần Khắc Chung đưa về nước.

Câu chuyện này được nhạc sĩ Nguyễn Hiền đưa vào âm nhạc với ca khúc Huyền Trân công chúa, nhưng chủ yếu để nói về tình cảm yêu thương của nàng công chúa khi bắt đầu rời quê hương để về xứ lạ. Đoạn đầu mang tính chất kể chuyện, âm điệu buồn man mác của một cung thứ:

Ngày xưa có nàng Huyền Trân công chúa 
Giữa lúc xuân thì đang độ thắm tươi mặn mà 
Đành lòng ra đi ôm một mối tình ban đầu 
Ô, Lý hai châu duyên nợ phấn son về đâu. 
Thuyền quyên má hồng vì yêu quê hương 
Đáp tiếng non sông

Xa một bóng người tình chung 
Dù ngàn sơn khê vẫn mơ đến ngày sum vầy 
Muôn dặm xa xôi biệt ly người ơi… từ đây.

Nàng yêu quê hương đất nước, dù chia ly nhưng nàng vẫn mơ một ngày trở lại để được đoàn viên, được sống trong thanh bình và để trọn lời thề với người mình nặng lòng son sắt. Âm nhạc chuyển sang cung trưởng, giai điệu mang chút tin yêu và hy vọng:

Duyên kia lỗi hẹn thôi biết bao giờ 
Tìm lại nhịp đàn yêu thương 
Kinh kỳ hoàng hôn in bóng. 
Yêu ai trót nặng lời thề chưa phai 
Vẫn một lòng son sắt hoài 
Dù nổi trôi kiếp hoa rơi 
Muôn chim tiễn nàng công chúa lên đường 
Vượt ngàn trùng dặm quê hương 
Thanh bình khỏi cơn chinh chiến 
Giang san cách trở mịt mờ cô liêu 
Bóng nàng nhòa theo bóng chiều 
Mà lòng còn vương niềm yêu.

(Nguyễn Hiền, Huyền Trân công chúa)

10. Lòng mẹ Việt Nam

Câu chuyện một bà mẹ Việt Nam cho bốn người con trai ra đi để giành lại độc lập cho nước nhà trong thời kháng chiến chống Pháp đã được nhạc sĩ Lê Thương kể lại với nhiều xúc cảm trong bài hát Lòng Mẹ Việt Nam. Những giai điệu nhẹ nhàng chạy trên ngũ cung, những ca từ dung dị để ca ngợi người mẹ anh hùng trong quá khứ:

Bà Tư bán hàng có bốn người con
Thằng Hai đã lớn ba em hãy còn
Học theo các trường nay đã thành khôn
Năm loạn lạc kia trong nước Việt Nam
Mấy con của bà đều lên lối đường
Đầu quân chiến trường

Theo chí người dân
Đem thân lên đường

Xông pha chiến trường
Đành lòng bỏ xa gia đình từ đó.

Thế là người con đầu lên đường theo lý tưởng người trai quên thân cứu nước, mong ước một ngày về vinh quang:

Kiếp sống tung hoành

Quên thân xác mình
Hằng mong ước

Thành công lớn về sau
Mưu sự tại nhân thành sự tại thiên
Suốt ba năm liền bà Tư mẫu hiền
Ngày đêm khấn nguyện

Cho mấy người con.

Nhiều năm liền mẹ thương nhớ đàn con, nguyện cầu cho con được bình an. Nhưng rồi tin dữ đưa về, đứa con của mẹ đã hy sinh ngoài chiến trường. Khi còn chiến đấu, người con nghĩ đến mẹ hiền nên viết thư nhờ bạn chiến đấu nếu sau này trở về gặp mẹ xin giấu tin xấu kẻo mẹ đau lòng:

Bà Tư nóng lòng đêm nhớ đàn con
Gần đây vài tháng có nghe tiếng đồn
Người con lớn bà đang sống ngoài xa
Nhân cuộc hành binh

Tháng chín vừa qua
Đứa con của bà chẳng may mắc nạn
Ngày nay đã nằm trên chiến địa xa.
Đem hung tin về người kia lỗi thề
Vì người con trai ước rằng khi chết
Chớ nói cho bà tin anh vĩnh biệt
Kẻo đem nói thiệt thân mẫu tủi thân.
Anh để một thư nhờ người gửi đưa
Chiếc thư mong chờ ngày sau độc lập
Rằng con sẽ gặp mẹ đứng chờ con.

Mẹ hiền vẫn ngày đêm cầu nguyện cho đàn con. Ba lá thư của mẹ lại được gửi về thăm mẹ, còn mẹ thì một lòng hiến dâng con mình cho nước non:

Bà Tư thắp đèn cầu khấn người con
Bà xin cho mấy đứa em hãy còn
Ở trong núi rừng anh dẫn về cho.
Song một ngày kia ba lá tình thư
Nói con bây giờ đường xa cách trở
Vậy xin kính thờ đôi chữ bình an.
Thương con bao tình đem ba tấm hình
Bà thề nguyện dâng con mình cho nước
Thân con lưu lạc mẹ xin phó mặc
Đời con muốn đặt Tổ quốc ở trên.
Thư rằng mẹ xin thành mẹ Việt Nam
Có con sa trường chỉ mong ước rằng
Ngày sau nước còn công ấy nhờ con.

Nhạc sĩ ngợi ca lòng mẹ thương con bao la biển trời không chỉ với một người mẹ mà ông còn khái quát đó là hình ảnh của tất cả bà mẹ Việt Nam:

Nguyện dâng tấm lòng mẹ vẫn chờ mong
Để đàn em bé mai sau nhớ rằng
Đời con đó là tất cả tình thương.
Sau ngày lìa nôi đến nấm mộ hoang
Đã sinh con rồi là thương suốt đời
Mà thương tất cả lầm lỗi của con
Qua bao nhiêu thời can qua ngóng đợi
Từng thằng con qua bao mùa chinh chiến
Khi con trở về can qua đã nguội
Chỉ còn con người sống sót mà thôi.
Thương về Việt Nam hàng vạn thằng con
Đã hi sinh đời qua bao chiến thời
Mẹ xin nhắn lời tưởng nhớ từng con.

11. Nàng Bân

Nàng Bân là con gái của Ngọc Hoàng nhưng khác với nhiều chị em của mình, nàng Bân chậm chạp và có phần vụng về. Tuy nhiên, nàng Bân vẫn được cha mẹ yêu chiều. Ngọc Hoàng và Vương Mẫu thương con thua em kém chị nhưng không biết làm cách nào, mới bàn nhau lấy chồng cho nàng để nàng biết thêm công việc nội trợ trong gia đình.

Chồng nàng Bân, cũng là một người trên thế giới nhà trời. Nàng yêu chồng lắm. Thấy mùa rét đã đến, nàng định tâm may cho chồng một cái áo ngự hàn. Nhưng nàng vụng về quá, khi bắt đầu rét, nàng Bân đã bắt đầu công việc song cứ loay hoay mãi, tìm được cái nọ thì thiếu cái kia, se được chỉ thì chưa có kim, đưa sợi vào dệt thì thoi, suốt lại hỏng. Đến nỗi trời đã sắp sang xuân rồi mà chỉ mới may trọn được đôi cổ tay.

Nhưng nàng Bân vẫn không nản chí. Nàng may mãi qua tháng giêng rồi hết tháng hai, cho tới khi áo may xong thì vừa lúc trời hết rét. Nàng Bân buồn lắm. Thấy con âu sầu, Ngọc Hoàng gạn hỏi. Khi biết chuyện Ngọc Hoàng cảm động bèn làm cho trời rét lại mấy hôm để chồng nàng mặc thử áo.

Từ đó thành lệ, hàng năm vào khoảng tháng ba tuy mùa rét đã qua, mùa nóng đã tới nhưng có lúc tự nhiên rét lại mấy hôm, người ta gọi cái rét đó là rét nàng Bân. Tục ngữ có câu: "Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc, tháng ba rét nàng Bân" là vì thế.

Từ câu chuyện này, nhạc sĩ Thẩm Oánh đã viết thành ca khúc Nàng Bân, ngợi ca tấm lòng trung trinh của người phụ nữ. Bài ca viết theo lối recitativo, âm điệu chậm buồn, tiết tấu tự do kể lể:

Ngày xưa có một năm

Trời làm rét buốt căm căm

Trần gian khôn xiết cơ hàn
Nàng Bân thương xót cho thân chồng

Hai sương một nắng

Băng giá vì trời đông.
Cam quyết bền tâm nguyện

Thề khuya sớm chăm dệt áo
Trời sinh vốn tay vụng về,

Chí bền rồi thành có sao.

Đến đây âm nhạc được đưa vào nhịp luân vũ, tiết tấu có nhanh hơn:

Nghe chăng cuộn tơ rền,

Canh khuya dệt tơ mềm
Buồng tơ nhịp say quay đều trìu mến
Canh khuya một bóng

Canh khuya một đèn
Tơ vương rối tơi bời

Tay se buốt xương rời.
Nhân thế nghe chăng

Tiếng thoi đưa suốt mùa giá
Ðây buồng óng tơ ngà

Ánh trăng mờ vương nét hoa
Say sưa mối duyên thơ

Kết nên tơ giữa ánh mơ
Man mác vương hương thề

Nhắc cho đời nghĩa phu thê.

Sau âm điệu buồn, từ đây âm nhạc tươi sáng hơn vì được tác giả chuyển sang cung trưởng, diễn tả niềm yêu thương tha thiết của người vợ đối với chồng:

Chăm chút dệt tơ, đêm tiếp đêm

Lòng vẫn ước nguyện
Cầu mong chóng xong

Áo ngự hàn khoác cho chồng
Rồi kim thất lạc đường tà

Mặc ngày tháng nước dần điều hòa
Thời gian như thoi đưa

Vụt thoăn thoắt qua
Nàng Bân gắng công cùng sức

Hết đêm sang ngày lo lắng

Mong suốt trong mùa đông

Cần xong áo tình chung.

Âm nhạc lại trở về lối kể lể chậm buồn như lời than thở, tuy có lúc le lói một chút tươi sáng nhưng rồi cũng trở lại như cũ:
Ngày lướt qua ngày hết rồi mùa đông
Nàng Bân may áo cho chồng chưa xong
Bóng khuya một canh đèn tắt trời giá
Tay kim rã rời, tơ rối tơi bời.
Xuân về đưa thắm, muôn hoa phô cười
Xuân về oanh yến hót ca mừng vui
Xuân về quang minh nắng reo màu ấm
Áo chồng miệt mài may vẫn chưa xong.

Câu chuyện vẫn theo giọng kể lể và kết thúc trong niềm vui sướng của người vợ cuối cùng cũng thỏa được ước mơ của nàng. Âm nhạc có màu sắc sáng sủa hơn để rồi kết thúc bằng lời ngợi ca của người đời dành cho nàng Bân:

Nhân thế nghe chăng

Tiếng kim châm rút tà áo
Ôi mềm đống tơ ngà

Ánh trăng mờ vương nét hoa
Say sưa mối duyên thơ

Kết xe tơ rực ánh mơ
Man mác vương hương

Thề nhắc cho đời nghĩa phu thê.
Hôm nao cuộn tơ rền

Canh khuya dệt tơ mềm
Cuộn tơ nhịp say quay đều trìu mến
Hôm nay xuân tới, ngày đông qua rồi
Tâm can rối tơ lòng,

Bao lâu áo chưa xong.
Nàng Bân xót xa thương chồng,

Giận mình u mê ngu tối

Không chút tinh anh
Một đông ba tháng đêm ngày hoài công
Cố may áo chồng, xuân rồi chửa xong.
Mau gấp tay kim

Xuân ấm tươi sang rồi đây
Chiều xuân còn vương gió se hàng cây
Tha thiết van xin

Xuân rét thêm cho vài tuần
Cầu trời ban phúc cho áo mau xong.
Nhân thế nghe chăng

Tiếng kim châm rút tà áo
Ðây mềm gấm tơ ngà

Ánh xuân mờ vương nét hoa
Say sưa mối duyên thơ

Kết xe tơ rực ánh mơ
Man mác vương hương thề

Nhắc cho đời nghĩa phu thê.

Ngọc Hoàng trông xuống trần gian

Thấy tấm lòng kiên trinh hiếm có
Bèn ban thêm một ngày gió buốt hơn đông
Cho nàng Bân sung sướng

Khoác áo cho chồng.
Từ đó dưới trần tháng ba mỗi cuối mùa xuân

Lại thêm có hôm cực rét
Cho đời nhắc đến nàng Bân.
Muôn đời gương kiên trinh treo cao trong sáng
Tích áo ngự hàn.

12. Chuyện tình Lan và Điệp

Một chuyện tình rất phổ biến sau khi tác phẩm Tắt lửa lòng, một tiểu thuyết lãng mạn nổi tiếng của nhà văn Nguyễn Công Hoan, ra đời. Soạn giả Trần Hữu Trang đã biên kịch lại và chuyển thể thành vở cải lương Lan và Điệp vào năm 1936. Riêng về âm nhạc, hai nhạc sĩ Mạc Phong Linh & Mai Thiết Lĩnh đã dựa vào câu chuyện này để viết thành ba ca khúc mang tên Chuyện Tình Lan Và Điệp 1, 2, 3.

Lan và Điệp là tên hai nhân vật trong tác phẩm – hai cái tên trở thành huyền thoại từ đó. Truyện kể về cuộc tình lãng mạn, bi ai giữa chàng học trò nghèo tên Điệp và cô gái cùng quê tên Lan. Hai gia đình hứa gả con và kết tình thông gia với nhau, tình cảm hai nhà gắn bó keo sơn:

Tôi kể người nghe đời Lan và Điệp

Một chuyện tình cay đắng
Lúc tuổi còn thơ

Tôi vẫn thường mộng mơ

Đem viết thành bài ca.
Thuở ấy Điệp vui như bướm trắng

Say đắm bên Lan
Lan như bông hoa ngàn

Thương yêu vô vàn
Nguyện thề non nước sẽ không hề lìa tan.
Chuông đổ chùa xa, chiều tan trường về

Điệp cùng Lan chung bước
Cuối nẻo đường đi, đôi bóng hẹn mùa thi

Lan khóc đợi người đi
Lần cuối gặp nhau,

Lan khẽ nói thương mãi nghe anh
Em yêu anh chân tình

Nếu duyên không thành
Điệp ơi Lan cắt tóc quên đời vì anh.

Điệp sau khi thi lần đầu bằng Thành Chung bị trượt, đến khi thi lần hai thì gặp ông Phủ Trần là bạn học khi xưa với bố của Điệp, ông Phủ có hứa giúp đỡ Điệp đỗ kỳ thi này và còn tìm việc làm cho tại Phủ. Điệp bị mắc lừa khi ông ta tìm mọi cách ép Điệp cưới con gái ông để tránh mọi dị nghị của xã hội. Gia đình Lan và Điệp hết sức buồn rầu vì việc này. Biết chuyện lỡ làng, Lan đành cắt tóc vào chùa đi tu:

Nhưng ai có ngờ, lời xưa đã chứng minh

Khi tình tan vỡ
Lan đau buồn quá khi hay Điệp đã

Đi xây mộng gia đình.
Ai nào biết cho ai,

Đời quá chua cay duyên đành lỡ vì ai
Bao nhiêu niềm vui cũng vùi chôn từ đây

Vùi chôn từ đây.
Lỡ một cung đàn, phải chăng tình đời

Là vòng dây oan trái
Nếu vì tình yêu Lan có tội gì đâu

Sao vướng vào sầu đau.
Nàng sống mà tim như đã chết
Riêng bóng cô đơn đôi môi xinh phai tàn
Thương thay cho nàng
Buồn xa nhân thế náu thân cửa Từ Bi.

Nhưng chỉ sau vài tháng thì Điệp ly dị rồi đi tìm ngôi chùa nơi Lan tu và giật chuông hỏi thăm nhưng Lan không tiếp, còn cắt dây chuông.

Tôi viết vào đây, chuyện nối tiếp

Tình yêu hai mái đầu
Ước mộng đẹp tươi, tuổi đương xuân

Mà sao chia lứa đôi
Từng đêm Lan khóc thầm trong cay đắng
Sớm ly tan vì duyên kiếp dở dang

Hoa thơm mau tàn
Ai hay cho nàng, cánh chim lìa đàn.
Lan gói niềm riêng tìm quên lãng

Ngày qua bên mái chùa
Sớm chuông chiều kinh mặc thời gian

Dần trôi trong tái tê
Nàng không sao xóa tình yêu xưa cũ
Dẫu cho con thuyền neo bến đường tu
Lan không mong chờ, nhưng Lan bây giờ

Mấy ai nào ngờ.
Những chiều phai nắng, nàng thường ra

Ngồi bên gốc bồ đề
Đem bao tâm sự gửi vào hư vô

Vì Lan cố tìm quên
Nhưng một ngày kia nàng bắt bướm

Đặt kề bên cánh lan
Hoa cùng với bướm, ép chung một trang sách

Chôn cùng một nấm mồ.
Ai đã từng yêu, cảm thông nỗi niềm

Đau thương với nàng
Mối tình đầu tiên nàng đành chôn vùi

Theo đôi bướm hoa
Sầu cho thân gái, tình duyên ngang trái
Tiếng chuông đêm dài như tiếng thở than
Như đem tin buồn, như gieo hoa tàn

Đến cho đời nàng.

Nàng sống cô đơn, buồn tủi. Điệp lại đến thăm, hai người không nói gì, chút ân tình thôi đành để lại kiếp sau:

Chiều kia lũ chim trên cành buồn không ca

Chim hỡi xót thương ai
Hàng cây đứng im âm thầm nhìn mây bay

Che tím phía chân trời.
Một con đò vắng đứng bơ vơ bên kia sông
Nước trôi lững lờ

Nghe chừng mang bao thương tâm
Rồi một thân lữ khách lên đò

Qua bến sông nét mặt u sầu.
Chiều nay cũng như bao lần rồi

Lan ra sân đứng khóc cô đơn
Chợt nghe tiếng chuông

Reo từng hồi xa xa

Ai đến viếng thăm chùa,
Trời vô tình đã khiến xui nên cơn ly tan
Cớ sao vẫn còn

Xui người yêu đi thăm Lan
Điệp nhìn Lan không nói
Đôi lòng chung đắng cay

Ứa lệ không lời.
Điệp ơi, duyên lỡ làng rồi

Thôi đành chờ kiếp sau
Đừng đem ân tình thương nhớ

Đến đây chỉ thêm sầu.
Cánh cửa trần tu, khép lại rồi

Mà chuông còn reo mãi
Lan giận đời nên nàng

Cắt đứt dây chuông từng lưu luyến.

Điệp buồn bã ra đi, quyết chí gầy dựng cơ nghiệp. Sau đó Điệp làm việc ở bệnh viện, tình cờ nhận được một bệnh nhân sắp chết là Lan. Điệp khi đó mới biết rằng Lan vì quá

buồn nên ôm hận mà sinh bệnh rồi qua đời.
Đời Lan khác chi

Như một cành hoa xuân

Hương sắc sớm phai mau
Một đêm gió mưa

Bên ngọn đèn quạnh hiu

Lan đã trút linh hồn.

Ngoài xa từng tiếng cuốc kêu thương

Ôi thê lương, gió than não nề

Trong màn đêm nghe đau thương
Từng hồi chuông ngao ngán

Ngân dài như khóc than

Tiễn một linh hồn.

Những giai điệu buồn thương xuyên suốt bài hát đã để lại những cảm xúc đậm đà, sâu lắng cho biết bao thế hệ người nghe chứng tỏ được tài năng của người nghệ sĩ.

II. TRƯỜNG CA

1. Lịch sử loài người

Có lẽ nhạc sĩ Lê Thương là người viết trường ca sớm nhất. Đó là bài Lịch sử loài mgười, gồm hai đoạn được Ban Tiếng Thùy Dương của Đài Phát thanh Việt Nam biểu diễn với các ca sĩ Lê Thương, Châu Kỳ, Đức Quỳnh, Thái Thanh (đoạn 1) và Lê Thương, Đức Minh, Đức Quỳnh, Thái Thanh (đoạn 2). Ngoài bài hát còn có lời diễn giải của tác giả.

Đoạn 1:
Trông trời mờ ám
Dòng nước xanh vẫn trôi ra ngoài,

Ra khơi ngoài
Trong khuya vắng
Nhìn cố hương thêm tủi niềm thương
Như buồm đời gió
Lòng héo khô trong cơn mong chờ
Gửi mơ hồ mù khoan
Nhờ tháng năm trôi theo xa xăm.

Đó là tiếng than của đoàn người đau khổ sống cùng cực trên một dải trường giang từ trước. Họ là đám vong thần nhà Lê thường bị tên thuyền trưởng hành hạ. May thay cô con gái thuyền trưởng, nàng Mộc Lan, lại là hiện thân của lòng thương xót. Tại một bến kia, để an ủi đám tù nhân, nàng Mộc Lan kể cho họ nghe một câu chuyện. Đó là lịch sử của loài người, mà cũng là lịch sử của lòng thương xót trải ba nghìn năm lịch sử. Câu

chuyện ấy như sau:
Hồi thiên địa còn hoang mang
Người tiên sống cạnh đám người phàm
Ai không nhà ở núi đá
Uống nước nguồn ngửi hương hoa
Đời an hòa cuộc sống thiết tha
(Đời an hòa cuộc sống thiết tha).
Loài cỏ cây nhiều khi biết nói
Các muông cầm sum hòa đùa vui
Với giống người nhởn nhơ suốt đời
(Với giống người nhởn nhơ suốt đời).
Rồi sau trời lìa núi với non
Rồi sau trời lìa thác với sông
Bắt giống cầm thả lên không trung
Bắt thú rừng đuổi nơi sơn lâm
Bắt giống người vào thế gian mênh mông.
Mưa gió mưa gió
Giông tố giông tố, nguy biến nguy biến đó…
Một đời nguy khó, núi với non

Thú muôn cây rừng
Tiết đông lạnh lùng.
Trải bao thiên thu, trải bao thiên thu
Đời đông dân cư, đời đông dân cư
Chia nhau sống riêng tộc đoàn
Lập nên giang san, lập nên giang san
Lập nên quê hương, lập nên quê hương.
Sau đông đúc như chim ngàn
Rải trong dương gian,

Người đi muôn phương.
Mưa gió mưa gió, giông tố giông tố
Nguy biến nguy biến đó, một đời nguy khó
Suốt tháng năm sống trong nhọc nhằn
Sống trong tật nguyền.
Từ năm sơ khai, từ năm sơ khai
Ngược sang tương lai

Ngược sang tương lai
Đem mong ước đi tung hoành
Bày ra đua tranh, bày ra đua tranh
Bày ra đao binh, bày ra đao binh

Đem đâm chém nhau tan tành
Trải bao trăm năm, đời bao thương tâm.

Đoạn 2:

Đó là lịch sử đau xót của loài người. Đó cũng là số phận của muôn vật muôn loài từ

ngàn xưa. Từ lúc:
Người đi tìm hạt giống trồng cây
Người đi tìm mảnh đá làm dao
Từ khi người tìm ra lửa đào
Đến khi làm được súng giết nhau
Lòng con người cũng

Chưa nguôi ác tàn đâu.
Không, loài người không phải tự nhiên mà tàn ác mà chính vì lẽ sinh tồn. Vì một số mạng khắt khe run rủi mà loài người phải tranh đấu diệt trừ lẫn nhau đó thôi. Nhưng cũng lắm khi vì những lẽ tham ô, những mộng bá đồ mà trở nên tàn ác. Thôi, nói làm chi

nhiều những chuyện buồn thảm đó:
Xuân qua rồi dẫn thu qua
Rồi đông đưa lại dẫn xuân về
Dương gian còn mãi dương gian
Hận dân sinh còn vẫn chưa hàn
Mây tan thành nước mưa trôi
Rồi bay lên về kiếp tan hồi.
Đi trong cuộc sống gian truân
Bàn chân ta dầy nếp phong trần.
Luật đời từ xưa

Buộc ta phải luôn tranh đấu
Tranh đấu để chống thời gian
Tranh đấu để tránh lầm than
Tranh đấu để kiếm bạc vàng.
Từ cơn đớn đau tình duyên
Ngả sang khát khao bạc tiền
Đời ta không lúc nào yên
Đời ta không lúc nào yên.
Đường trường vạn lý

Bước đi dặm muôn trùng
Nhìn vào sử ký

Bước chân ra hãi hùng
Qua bao thác ghềnh

Đi tìm một ngày mai
Thắng bao nghịch cảnh

Vẫn còn đi suốt đời.
Trông trời mờ ám
Dòng nước xanh vẫn trôi ra ngoài,

Ra khơi ngoài
Trong khuya vắng nhìn cố hương

Thêm tủi niềm thương
Như buồm đời gió lòng héo khô

Trong cơn mong chờ
Gửi mơ hồ khoan nhờ tháng năm

Trôi theo xa xăm.

Rồi chiếc thuyền chở đoàn người đau khổ trôi mãi trên dải trường giang. Về đến quê cha đất tổ về hạnh phúc đơn thuần. Hay về cõi vô chừng của biến đổi.

2. Trường ca sông Lô

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chiến dịch Thu-Đông năm 1947 đã có được nhiều chiến công rực rỡ, trong đó có chiến công của pháo binh tại dòng sông Lô, một trong năm con sông lớn nhất miền Bắc. Ngày 24 tháng 10 năm 1947, tại đoạn sông Lô gần ngã ba sông Lô – sông Chảy đã diễn ra trận chiến đấu ác liệt của bộ đội pháo binh và dân quân du kích địa phương bắn cháy hai tàu chiến của giặc, gây thiệt hại các tàu chiến khiến khác, tiêu diệt hàng trăm tên lính Pháp.

Chiến công rạng rỡ này đã là nguồn cảm hứng dồi dào cho nhiều nhạc sĩ viết nên những tác phẩm nổi tiếng. Chính trong năm 1947 này, liên tiếp nhiều ca khúc thấm đẫm chất anh hùng ca ra đời. Đó là Lô Giang của Lương Ngọc Trác, Chiến sĩ sông LôBình ca của Nguyễn Đình Phúc, Chiến thắng Việt Bắc của Phạm Ngữ, Đoàn quân sông Lô của Lưu Hữu Phước, Tiếng hát trên sông Lô của Phạm Duy và Trường ca Sông Lô của Văn Cao.

Vào thời gian ấy, Văn Cao có chuyến đi lên Việt Bắc vào đúng lúc giặc Pháp thua trận đang trên đường rút quân trở về. Nhạc sĩ đã chứng kiến những xóm làng ven sông bị địch đốt phá và cảm nhận những niềm vui trên khuôn mặt người dân sau chiến thắng sông Lô. Họ trở về với xóm làng, dựng lại nhà cửa trong những đêm gió rét mùa đông.
Dòng sông Lô bình dị, hiền hòa bao nhiêu năm nay giờ đây trở nên hùng vĩ, bao la và rực sáng trong lòng người nghệ sĩ. Những cảm xúc dâng tràn trong lòng nhạc sĩ khiến Văn Cao đã viết nên Trường ca Sông Lô.

Bài hát như một khúc hùng ca và bi ca xen lẫn trong tâm tưởng người nghệ sĩ. Mở đầu là giai điệu dàn trải trong một tình cảm xót xa nhưng không bi lụy khi nhạc sĩ khắc họa nên hình ảnh những bờ lau cháy loang lổ bên những xóm làng tàn tạ trong màu xám của khói súng chiến tranh:

Sông Lô sóng ngàn Việt Bắc

Bãi dài ngô lau núi rừng âm u
Thu ru bến sóng vàng từng nhà mờ biếc

Chìm một màu khói thu
Sông Lô, sóng ngàn kháng chiến

Cháy bờ lau thưa đã tàn thôn trang
Ai qua bến nắng hồng

Lặng nhìn màu nước sông Lô xưa.

Nếu đoạn nhạc mở đầu khoan thai với cung re trưởng vừa chấm dứt thì tác giả chuyển đoạn sang cung sol trưởng với tiết tấu nhanh, rộn rã để vẽ nên quang cảnh sinh động khi

người dân hân hoan trở về quê cũ:
Trên dòng sông trở về đoàn người

Reo mừng vui trên sóng nước biếc

Trôi đầy sông bao đám xác thù
Dân hân hoan nghe sóng réo vi vu xa xa
Đường ngập người vang gió lá vi vu hiền hòa.
Sông mênh mông như bát ngát hát.

Bằng những giai điệu như những đường nét hội họa, tác giả phản ánh trung thực cuộc chiến đấu tưởng như đang xảy ra trước mắt với tất cả tình cảm hăng say đầy khí phách của người chiến sĩ:

Thây giặc trôi trở về ngập bờ

Sông gầm vang tiếng súng trái phá
Bao rừng thu như bát ngát người
Dân hoan hô chiến sĩ pháo binh

Việt Nam ghi công
Tiếng trái phá quân thù

Ngập chìm dòng Lô
Đây dòng Lô, đây dòng Lô.

Câu nhạc đến đây chậm dần để chuẩn bị một chuyển doạn khác. Từ cung sol trưởng tác giả đưa đoạn nhạc sang cung si trưởng một cách khéo léo, tài tình:

Đoàn quân thời chinh chiến ca rằng

Đây Volga, đây Dương Tử, đây sông Lô

Đây sóng căm hờn vút cao

Sóng lấp lánh vàng sao

Ngàn chiến sĩ sông Lô
Chiến sĩ sông Lô

Thân rừng áo sương đang ca rằng
Giờ mồ thực dân, sóng lấp cát vàng
Chiến sĩ sông Lô oai hùng

Đấu tranh gào kêu vang sóng

Đây giặc Pháp tàn trong căm gan toàn dân.

Để khắc họa cảnh thê lương sau cuộc chiến đấu, tác giả cho câu nhạc chậm dần và trở về cung si thứ để rồi ngay sau đó khi mô tả cuộc sống vui của người dân, ta thấy giai điệu rộn rã trở lại và đoạn nhạc trở về cung si trưởng:

Về trong đêm gió rét

Từng sân vui bóng người quanh lửa hồng
Nền khô trơ than xám

Đêm chìm đợi ánh chiêu dương.
Vui hát ca hòa vui hát ca

Hòa dân buông lưới
Phan Lương vui bóng thuyền

Lều dựng lên ven sông
Bóng người sầm uất bến Then.
Vui hát ca hòa vui hát ca

Hòa chí kiến thiết

Bên sông Lô đắp nhà
Bao dân trong khu Mười

Mơ thành người sông Lô.
Đời vui vút lên, đời vui sướng về.
Vui hát ca hòa vui hát ca

Hòa chí chiến đấu
Đây tay trai Việt Bắc
Sông Lô đang xuôi mau

Tin về đồng lúa reo mừng
Rung trong bao hương nồng

Mừng một mùa chiến công.

Tác giả tiếp tục vẽ nên cuộc sống thường nhật sau ngày chinh chiến: rừng lại lên xanh, người dân lưới cá, mọi người cùng nhau xây lại đời mới:

Vui hát ca hòa vui hát ca dân vui nắng

Như chim xuân thấy mùa
Và đài hoa lưu luyến

Xanh rừng đầy lá búp non.
Vui hát ca hòa vui hát ca

Hòa những lưới mắc

Ta vui khoang cá đầy
Tay ta, tay dân chài

Xuôi ngược dòng sông Lô.
Từng quăng lưới xa

Từng vây lưới giặc
Vui hát ca hòa vui hát ca

Hòa với ánh sáng

Ta đang xây đời mới
Sông Lô nuôi dân thiên thu

Đã hòa mạch máu bao người
Sông xuôi quanh co về

Hòa mạch cùng với xuôi.

Để kết thúc trường ca, tác giả bày tỏ niềm kiêu hãnh về chiến công và tự hào về dòng sông Lô lịch sử. Âm nhạc trở về với cung re trưởng chủ đạo của bài ca:

Dòng sông Lô trôi, dòng sông Lô trôi
Mùa xuân tới nước băng qua ngàn
Nước in ven bờ xanh ôm bóng tre

Dòng sông Lô trôi.

Nhạc sĩ Phạm Duy có nhận xét về Trường ca Sông Lô của Văn Cao trong hồi ký của mình như sau: "Trường ca sông Lô phải là đỉnh cao nhất của nhạc kháng chiến nói riêng, của tân nhạc Việt Nam nói chung".

3. Hòn Vọng Phu

Trường ca Hòn Vọng Phu của Lê Thương được viết trong khoảng thời gian 1943 tại Bến Tre cho đến năm 1947, ngợi ca hình ảnh người phụ nữ trung trinh ôm con mòn mỏi chờ đợi chồng đi chinh chiến đến nỗi phải hóa đá. Trên đường vào miền Nam, hình ảnh tượng đá núi Vọng Phu ở tỉnh Phú Yên đã ảnh hưởng mạnh nhất tới cảm xúc của Lê Thương. Ông giải thích: “Núi Vọng Phu ở Phú Yên tại một vùng địa lý hơi man rợ, thâm u là đá đẹp nhất, xem từ biển nhìn vào làm cho tôi cảm mến… Có thể nói, những câu thơ trong Chinh Phụ Ngâm đã in sâu vào tiềm thức những ngày tôi còn học ở nhà trường. Rồi với những ấn tượng thắng tích đá Vọng Phu qua truyền thuyết thiếu phụ ôm con mòn mỏi trông chồng đến nỗi hóa đá, đã hằn sâu trong tâm tư tôi, nay gặp ngoại cảnh núi sông hùng vĩ hiện ra trước mắt, đó là môi trường thuận lợi tác thành những giai điệu trong nhạc phẩm Hòn Vọng Phu 1” (1). Nhận xét về tác phẩm này, nhà phê bình Đặng Phú Phong viết: “Ngôn ngữ trong Hòn Vọng Phu được thăng hoa đầy tính thẩm mỹ. Lời hát quyện chặt với hồn nhạc ngũ cung Việt Nam. Hơn 70 năm sau, sức sống của trường ca bất tử này vẫn vượt qua mọi giới hạn của thời thế và tiếp tục âm vang”. (2)

Hòn Vọng Phu là tác phẩm nổi trội trong sự nghiệp âm nhạc của Lê Thương bởi âm nhạc mang âm hưởng ngôn ngữ dân tộc, đặc biệt đậm chất ngũ cung, cùng ca từ hoa mỹ được chắt lọc với việc sử dụng nhiều địa danh trên đất nước hoặc các điển cố văn học. Lê Thương cho biết đã nghiền ngẫm tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm và ca từ của ông ảnh hưởng nhiều từ áng văn này. Chẳng hạn trong bài thứ nhất có tên Đoàn Người Ra Đi, tác giả biến hóa từ câu thơ Trống Tràng thành lung lay bóng nguyệt để cho ra giai điệu câu đầu tiên của bài hát:

Lệnh vua hành quân trống kêu dồn
Quan với quân lên đường

Đoàn ngựa xe cuối cùng

Vừa đuổi theo lối sông

Phía cách quan sa trường
Quan với quân lên đường

Hàng cờ theo trống dồn
Ngoài sườn non cuối thôn

Phất phơ ngậm ngùi bay.

Tiếp đó là từ Thiên San, tức Thiên Sơn, là tên ngọn núi ở phía tây bắc Trung Hoa, được tác giả đưa vào thơ để vẽ nên hình ảnh tươi đẹp khi đoàn quân ra đi như tô đậm thêm nét hào hùng:

Qua Thiên San kìa ai tiễn rượu vừa tàn
Vui ca xang rồi đi tiến binh ngoài ngàn
Người đi ngoài vạn lý quan san
Người đứng chờ trong bóng cô đơn.

Tác giả dùng lại điển cố trong Chinh phụ ngâm qua câu Tới Man Khê bàn sự Phục Ba để rồi viết nên câu Bên Man Khê còn tung gió bụi mịt mùng. Còn Tiêu Tương cũng là địa danh hai con sông thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Hoa; chỗ hợp lưuLinh Lăng gọi là Tiêu Tương, tượng trưng cho sự ly biệt: Bên Tiêu Tương còn thương tiếc nơi ngàn trùng…
Chàng ra đi không hẹn ngày về khiến cho nàng mang niềm thương nhớ khôn nguôi, để rồi:

Bao nhiêu năm bồng con
Đứng đợi chồng về

Bao nhiêu phen thời gian

Xóa phai lời thề

Giai điệu dồn dập níu kéo nhau trong cung re thứ như vẽ nên hình ảnh đoàn quân nối tiếp nhau ra sa trường, rồi cuối cùng âm nhạc chậm lại để kết thúc một cao trào của xúc cảm:

Người tung hoành

Bên núi xa xăm
Người mong chồng

Còn đứng muôn năm.

Bài hát như một hành khúc oai nghiêm với nhịp điệu hùng tráng, rắn rỏi. Tuy vậy sau giây phút hào hùng của buổi xuất quân là một nốt lặng của một thứ tình cảm buồn thương, tiếc nuối.

Với bài hát thứ hai, nhạc sĩ Lê Thương cho biết: “Bài Ai Xuôi Vạn Lý (Hòn Vọng Phu 2) là cuối năm 1945 sang 1946, tôi theo kháng chiến tỉnh Mỹ Tho đi từ Cai Lậy, thuộc Nhiêu, Vĩnh Kim qua sông, đi với các em phần đông là học sinh Petrus Ký mà tôi là trưởng đoàn ca nhạc với những bài thanh niên, lịch sử và riêng Hòn Vọng Phu 1 nghêu ngao qua các làng dừa từ Thành Triệu, An Khánh, Phú An Hòa, Quới Sơn, Giao Long, Giao Hòa, cho đến Dòng Sầm, gần Bình Đại…” (3). Ở bài hát này, ta thấy tác giả không còn là người đóng vai kể chuyện nữa mà như hóa thân thành người chinh phụ để kể lể tâm tình, để chiêm nghiệm cuộc đời con người trong chiến tranh. Thế là chàng đã ra đi, còn nàng vẫn nơi đây, hoài công đứng đợi trong niềm mong ước sắt son:

Người vọng phu trong lúc gió mưa
Bế con đã hoài công để đứng chờ
Người chồng đi đã bao năm

Chưa thấy về
Đá mòn nhưng hồn

Chưa mòn giấc mơ…

Đến đây nguồn cảm xúc của tác giả đậm đà, tha thiết khiến giai điệu và ca từ trở nên lung linh, tuyệt diệu. Thiên nhiên được nhân cách hóa như sẻ chia được tấm lòng người chinh phụ: khi chàng ra đi thì cỏ cây còn trẻ thơ, mà giờ đây khi nàng còn đứng trông theo chàng thì cây đã thành cổ thụ. Ôi thời gian đằng đẵng trôi qua mà không biết chàng ở nơi đâu:

Khi tướng quân qua đồi

Kéo quân, quân theo cờ
Đoàn cỏ cây hãy còn trẻ thơ

Cho đến bây giờ

Đã thành đoàn cổ thụ già
Mà chờ người đi mất từ ngàn xưa
Nàng đứng ôm con

Xem chàng về hay chưa?

Về hay chưa?

Tác giả bày tỏ sự thông cảm cho tình cảnh của nàng, giãi bày sự thương cảm của mình trước sự kiên gan đợi chờ của nàng mà không biết đến ngày nào định mệnh xóa được cho nàng nỗi đau ly biệt:

Có ai xuôi vạn lý

Nhắn đôi câu giúp nàng,
Lấy cây hương thật quý

Thắp lên thương tiếc chàng.
Thôi đứng đợi làm chi

Thời gian có hứa mấy khi

Sẽ đem đến trả đúng kỳ

Những người mang mệnh biệt ly…

Chuyển qua lời 2 và lời 3 của bài hát, vẫn là nhịp điệu khoan thai, người nhạc sĩ không chỉ còn sự thương cảm, chia sẻ mà tình cảm của ông được đẩy lên ở mức cao hơn, đó là sự ngưỡng mộ, kính phục: người chinh phụ đã trở thành “Bà” ngự trị trong trái tim nhân gian:

Trời chuyển mưa trong tiết tháng ba
Suốt năm nước nguồn tuôn đổ xuống “Bà”…

hoặc:

Một nghìn năm vừa mới thoáng qua
Núi non nao lòng nức nở khóc “Bà”…

Câu chuyện tưởng như đã chấm dứt, nhưng không, người nhạc sĩ với óc tưởng tượng, sức liên tưởng phong phú đã vẽ nên những hình ảnh đẹp đẽ, thơ mộng: núi non cảm động trước tình yêu của nàng chinh phụ nên rủ nhau quần tụ bên nàng để rồi trở thành dãy Trường Sơn của nước Việt, hoặc đứng xa hơn ngưỡng mộ nàng để cuối cùng trở thành những hòn đảo trên biển xa khơi. Tác giả lại muốn biến dòng sông Cửu Long thành chín con rồng thiêng muốn đem tin tốt lành cho nàng nhưng núi non trùng điệp cản ngăn khiến

chúng kêu than nơi thâm u xa thẳm:
Nên núi non thương tình

Kéo nhau đi thăm nàng
Nằm thành Trường Sơn

Vạn lý xuyên nước Nam.
Dâng lá hoa suối nguồn

Với muông chim vô vàn

Bầy cảnh Nam Bắc đầy cỏ hoa
Như cố khuyên nàng trở về

Chớ đừng để xuân tàn
Nhiều đồi rủ nhau kéo thành

Đảo xa ra tới khơi ngàn…
Xem chàng về hay chưa, về hay chưa?

Chín con long thật lớn

Muốn đem tin tới nàng
Núi ngăn không được xuống

Chúng kêu ca dưới ngàn
Ta cố đợi nghìn năm

Một nghìn năm nữa sẽ qua
Đến khi núi lở sông mòn

Mới mong tới Hòn Vọng Phu…

Hóa ra nhạc sĩ vẫn chưa muốn kết thúc câu chuyện khi đã ngàn năm qua nàng trở thành tượng đá trơ gan cùng tuế nguyệt. Bởi vì non sông chưa thoát khỏi chiến chinh, người đời còn phải mài kiếm vì nợ chưa đền trả. Vì thế chàng phải trở về trao kiếm lại cho đứa con, để nó tiếp nối đời trai Việt cầm kiếm đi viễn chinh:

Có con chim nhỏ bé

Dám ca câu sấm thề
Cuối thu năm Mậu Tý

Tướng quân đem kiếm về.

Đời mong đợi thằng con

Ngày nào nó xuống núi non
Xuất chinh với cả mối thù

Nối lại giống nòi chinh phu…

Thời điểm năm 1947 là lúc nhạc sĩ Lê Thương trở về lại Sài Gòn, cũng là thời gian ông viết bài Hòn Vọng Phu 3, có tên là Người Chinh Phu Về, để hoàn tất trường ca bất hủ của mình. Sau khi giới thiệu hòn Vọng Phu ở phía Nam, tác giả muốn kết thúc câu chuyện có hậu nên phác họa hình ảnh người chinh phu cưỡi ngựa mang kiếm trở về trong tiết tấu dồn dập, mạnh mẽ:

Đường chiều mịt mù

Cát bay tỏa bước ngựa phi
Đường trường nếp tàn y

Hùng cường vẫn còn bay trong gió
Bóng từ xa sắp dần qua

Bóng chàng chập chùng vượt núi non cũ
Với hành lương độ đường

Chiếc hùng gươm danh tướng
Dưới tà huy đếm nhịp đi vó ngựa phi.

Dấn bước tang bồng giữa nơi núi rừng
Bên nợ tình thâm, bên nợ giang san
Bên đồi ai oán, bên rừng đa đoan

Tiễn đưa bóng chàng.

Sau khi người chinh phu trở về, tiết tấu trở lại khoan thai để tác giả vẽ nên cảnh đẹp thiên nhiên như đồi núi, sông nước, những địa danh của đất nước thân yêu:
Đường Vạn Xuyên, đường Cổ Lũy
Duyên núi sông vẫn chưa thắm hòa.

Đò vạn lý, đò ải quan

Đò rừng lá nước trong
Bao cá lội từng đàn
Thành Cổ Loa, đền Vạn Kiếp
Bao tháng năm dấu chưa xóa nhòa…

Vượt Hoành Sơn, vòng thành Huế
Mong tới nơi cố thôn ước thề.

Từ dạ đất miền Đồng Nai
Lời hẹn hứa tương lai

Đang chúc mừng chàng về…

Nhạc sĩ Lê Thương nói: “Người Chinh Phu Về (Hòn Vọng Phu 3) với tình nghĩa vợ chồng đổi sang tình nghĩa non sông, nhìn đứa con để trao cho nó thanh kiếm sơn hà. ‘Trao nó đi gây lại cơ đồ’. Linh tính làm người Việt Nam giữa thời khói lửa vẫn đinh ninh là Hạnh Phúc vẫn là mục tiêu không kỳ hạn mà dân tộc phải tìm lâu dài cho đến khi quân bình được những cảm tình trái ngược mà lẽ đời sôi động của cuối thế kỷ đã lôi cuốn bao lớp người vào lãng phí sinh mạng như vào hận tủi bi thiết của nhân sử nòi Việt”.(4)
Tiếng núi non lưu luyến tấc lòng

Bao nghìn năm

Tiếng gió cồn như tiếng trống dồn

Buổi khuya vắng

Từ bóng cây ngôi mộ bên đường
Từ mái tranh bến đình trong làng
Nguồn sử xanh âm thầm vẫn sống
Bao mối thương vang động trong lòng.

Với tình cảm sâu sắc như thế, NS Lê Thương không chấm dứt bài hát theo tích xưa đã kể mà muốn nêu cao tinh thần yêu nước thương nòi của biết bao thế hệ con dân Việt Nam luôn sẵn sàng lên đường chống ngoại xâm. Bởi vậy mà nàng chinh phụ trao lại đứa con cho chàng sau khi nói lên lời thống thiết:

Hỡi người chinh phu, anh hùng non sông

Trao người con quý cho người trông nom

Thiếp xin lỗi thề.

Và rồi chàng nghe lời nhắn nhủ thiết tha đó như một lời vang vọng của non sông:

Núi đá thu

Rêu đã lấp mờ bao nghìn xưa
Thấy đứa con

Xanh ngắt tới hồn còn trông đó

Cầm chiếc gươm thân phụ di truyền
Chàng bế con trao lại gươm bền
Rồi chỉ vào sơn hà biến cố
Trao nó đi gây lại cơ đồ.

Bài trường ca khép lại bằng lời ngợi ca chí khí của người chinh phu và tấm lòng trung trinh của người chinh phụ, một hình ảnh tuyệt đẹp cho đến ngàn đời sau:

Chiếc báu gươm

Chinh khách đã trao cho thằng con
Chí khí cao đã nối mãi còn tại non nước

Chàng đã ghi trong sử xanh đời
Một mối duyên chung vạn kiếp người
Từ nghìn sau bên đồi phơi đá
Dân chúng đem ca tụng duyên Bà.

Người vọng phu
Người vọng phu

Cho đến ngàn đời, cho đến ngàn đời
Người người còn nhớ
Nhớ Hòn Vọng Phu.

4. Hội trùng dương

Đây là trường ca duy nhất của nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Ông đã bỏ ra bốn năm để hoàn thành tác phẩm Hội trùng dương, gồm một đoạn mở đầu và ba phiên khúc mang tên ba dòng sông tiêu biểu cho ba miền của đất nước: Tiếng sông Hồng, Tiếng sông Hương, Tiếng sông Cửu Long. Tâm tình của ba dòng sông được tác giả biểu tượng hóa bằng tâm tình của ba thiếu nữ, mỗi người một tâm tình riêng nhưng đều hòa chung lại để rồi gặp nhau chung một đại dương. Tiếng lòng của ba thiếu nữ cũng là tiếng lòng của dân tộc, tiếng lòng từ triệu con dân của một đất nước gấm hoa.

Mở đầu cho tiếng lòng đó chính là giai điệu kiêu hãnh của ba dòng sông vượt qua bao đèo cao dốc thẳm để về hội ngộ trong lòng biển Đông bao la. Nhịp điệu khoan thai

và giai điệu đầy chất hùng dũng của lời biển gọi:
Trùng dương! Chốn đây ngàn phương
Có ba dòng sông cuốn xuôi biển Đông

Nhắc câu chờ mong.
Về khơi, sóng muôn triền tới
Nước non buồn vui

Đây hội trùng dương đầy vơi.
Sóng muôn triền tới, sóng xô về khơi

Như muôn tình mới
Vươn sức người bừng giữa đời.

Giai điệu xô đẩy trong cung Do trưởng mở ra một khung trời tươi sáng cho bức tranh sinh động của cuộc đấu tranh sinh tồn của người dân Việt trong lịch sử.

Mở đầu cho cuộc đấu tranh ấy chính là tâm sự của dòng sông miền Bắc: đó là Tiếng sông Hồng. Những người dân của buổi đầu sơ khai ấy mang nỗi niềm trông cậy và nương tựa vào nhau để kiếm sống nên giai điệu mang tính chất kể lể trong cung Do thứ nhẹ nhàng, nhưng rồi kết thúc đoạn đầu này tác giả cho giai điệu trở lại cung Do trưởng

để diễn tả niềm tin mạnh mẽ của cộng đồng:
Chiều nay nước xuôi dòng đại dương
Có em tên sông Hồng

Dâng sóng tuôn trên nguồn
Vẩn vơ nắng quái vương trên phù sa
Có những cô thôn mờ xa

Đón bầy dân đánh cá
Về đây trai gái sống vui một miền
Quanh năm anh cuốc em liềm

Vun xới ruộng mùa lúa chiêm.
Niềm vui cuộc sống vừa được nhen nhúm nhưng tiếp đó vẫn là hơi thở của cuộc sống dãi dầu mưa nắng, giai điệu trở về cung Do thứ:
Từ thượng du nước trôi về trung châu
Ấp ôm đồng ruộng sâu

Bên người áo nâu dãi dầu.
Nhưng niềm tin đầy ắp đã đem lại cho người dân buổi đầu ấy tâm trạng tươi vui, khoái hoạt để rồi mơ ước một tương lai tươi đẹp. Tiết tấu dồn dập, rộn rã trở lại và nghe ra hùng hồn hơn:
Hò ơi! Gối đầu trên Lào Cai, Việt Trì
Em nằm tóc xõa bãi cát dài
Thả hồn mơ tới Thái Bình qua Sơn Tây.
Hò ơi! Nhớ ngày nao

Dân chúng lên đường
Đem thịt xương ngăn giữ nương đồng
Đem hy sinh thắm tô sông Hồng.
Nằm mơ xuân vinh quang

Trở về cho non sông
Và ngày nao nơi nơi

Trút sạch buồn thương
Là ngày em mơ duyên người lập công.
Nghe hết Tiếng sông Hồng, tác giả đưa ta vào miền Trung để nghe cô gái Huế buông lời than thở. Câu nhạc mở đầu Tiếng sông Hương nghe nhẹ nhàng như lời gió vi vu, thoảng câu hò man mác trên sông. Giai điệu thuộc điệu Nam, chạy trên ngũ cung ai xứ Huế (do, re non, fa già, sol, la non):
Miền Trung vọng tiếng
Em xinh em bé tên là Hương Giang
Đêm đêm khua ánh trăng vàng mà than
Hò ơi! Phiên Đông Ba buồn qua cửa chợ
Bến Văn Lâu thuyền vó đơm sầu.
Ơi hò! Ơi hò!

Câu hò là lời tự sự của cô gái quê sống cuộc đời mưa nắng trong cảnh nghèo khổ, đau thương. Giai điệu của đoạn nhạc xen kẽ giữa hai loại ngũ cung do, re, fa, sol, la và ngũ cung re, mi, sol, la, si với tiết tấu khoan thai:
Quê hương em nghèo lắm ai ơi
Mùa đông thiếu áo hè thời thiếu ăn
Trời rằng trời hành cơn lụt mỗi năm, à ơi
Khiến đau thương

Thấm tràn ngập Thuận An
Để lan biển khơi, ơi hò ơi hò.
Sau lời tự sự buồn bã là tâm trạng hân hoan, giai điệu trở lại rộn ràng, dồn dập như đoạn điệp khúc của bài Tiếng sông Hồng kể trên:
Hò ơi! Ai là qua là thôn vắng
Nghe sầu như mùa mưa nắng

Cùng em xót dân lều tranh chiếu manh.
Hò ơi! Bao giờ máu xương hết tuôn tràn
Quê miền Trung thôi kiếp điêu tàn
Cho em vang khúc ca nồng nàn.
Ngày vui, tan đao binh

Mẹ bồng con sơ sinh. Chiều đầu xóm

Xôn xao đón người trường chinh
Ngậm ngùi hân hoan tiếng cười đoàn viên.

Vào đến miền Nam, ta cũng nghe lời gió vội vàng, tưởng như lời chào mừng của một miền đất hiếu khách, thân thiện. Vì thế suốt bài hát Tiếng Cửu Long, tác giả chỉ sử dụng thuần nhất cung Do trưởng để ta cảm nhận giai điệu vui tươi trong một tiết tấu dồn dập:
Ô! ồ! ô! Đây miền Nam.
Nước sông dâng cao cá lội ngù ngờ
Nước xanh xanh lơ bóng in cây dừa.
Về về đây miền Đồng Nai có Cửu Long
Cuồn chảy dâng trời Nam mạch sống.
Một sáng em ra khơi Vĩnh Long vui cười
Và Cần Thơ, Long Xuyên

Lừng hương cau lúa chín
Đời vươn lên thuyền ghé bến
Sống no nê dân quê một miền
Kìa nắng thương dân đây

Nắng khô đồng lầy

Chiều tới. Ô ô ô ô… Ô ô ô ô…
Hò lơ hò lờ hò. Hò lơ!

Đến đây tác giả không quên đưa vào một câu hò miền Nam, giai điệu chạy trên ngũ cung hơi Nam giọng oán (do, mi, fa, sol, la) để kết thúc phiên khúc này:

Chẻ tre bện sáo ơ cho dầy
Ngăn ngang ơ ơ sông Mỹ ơ ơ

Có ngày gặp em.

Trong điệp khúc của bài Tiếng Cửu Long, tác giả cho ba dòng sông cùng lên tiếng, đó là tiếng lòng của ba chị em ở ba miền nhưng cũng là tiếng lòng của người dân Việt: bày tỏ niềm tin yêu vào đất nước toàn vẹn trong tự do và mãi mãi vinh quang bên bờ biển Đông:
Ô! ồ! ô! Ra biển khơi.
Trùng dương! Ba chị em là ba miền
Nhưng tình thương đem nối liền
Gặp nhau ven trời biển Đông thắm duyên

Hẹn nhau pha hòa sóng lan bốn phương trời
Vang dội tiếng tranh đấu bao người
Cho quê hương ấm no muôn đời.
Giờ đây bao tâm tư, rộn ràng như câu thơ
Hội Trùng Dương tay tay siết chặt cùng hô
Dựng mùa vinh quang hoa đời tự do.
Lời quê hương Hội Trùng Dương.
(21)

5. Con Đường Cái Quan

Sau ngày chia cắt đất nước, nhạc sĩ Phạm Duy bắt đầu thai nghén tác phẩm dài hơi mang tên Con Đường Cái Quan – trường ca đầu tiên viết về đất nước, nguồn cảm hứng bất tận của ông từ những ngày đi vào kháng chiến chống Pháp. Đến năm 1960 tác phẩm mới hoàn tất. Hãy nghe nhạc sĩ giới thiệu tác phẩm này: “Trường ca Con Đường Cái Quan đưa ra một lữ khách đi trên con đường xuyên Việt, đi từ Ải Nam Quan cho tới mũi Cà Mâu, đi từ ngày mới lập quốc cho tới khi đã hoàn thành xứ xở, đi trong lịch sử và lòng dân, đi tới đâu cũng có tiếng dân chúng địa phương ca hát chúc tụng lữ khách đi nối liền được lòng người và đất nước”. (5)

Trường ca gồm có ba phần. Phần thứ nhất, người lữ khách bắt đầu ra đi từ miền Bắc, khúc ca mang tính chất hào hùng của người đi mở đất. Phần thứ hai, người lữ khách đi qua miền Trung, nghe tình thương yêu chan chứa của người dân ở đây nhưng vẫn có chút xót xa cùng với tâm trạng của nàng Huyền Trân. Phần thứ ba, người lữ khách vào đến miền Nam, bày tỏ sự vui mừng của con người đã vượt cả chiều dài đất nước để hoàn thành trọn vẹn con đường xuyên nước Việt. Trường ca gồm 19 đoản khúc, phần lớn tác giả sử dụng thang âm ngũ cung của ba miền, có chuyển hệ (metabole) hoặc có lúc dùng

thang âm thất cung của Tây phương.
Mở đầu cho phần thứ nhất là đoản khúc Anh Đi Trên Đường Cái Quan với lời ca của một cô gái cắt cỏ với giai điệu chạy trên ba âm (re, la, do) có chuyển hệ (sol, si, re) ở câu cuối:
Hỡi anh đi đường cái quan.

Dừng chân đứng lại
Dừng chân đứng lại.

Cho em đây than đôi lời
Đi đâu vội mấy anh ơi…
Người lữ khách trả lời bằng một hành khúc mang tên Tôi Đi Từ Ải Nam Quan, lời ca kể về nguồn gốc lịch sử ngàn đời của dân tộc với niềm tự hào của người con dân nước Việt. Ở đoản khúc này, tác giả sử dụng nhiều quãng tư, quãng năm và quãng tám rất đặc trưng của dân ca, đặc biệt có nhiều tam liên âm (re, la, re – la, mi, la – sol, re, sol); nhiều chuyển cung ngọt ngào từ cung La thứ, sang Do trưởng, Sol trưởng, Mi thứ để rồi kết thúc ở cung La trưởng:
Tôi đi từ ải Nam Quan

Sau vài ngàn năm lẻ
Chia đôi một họ trăm con

Đã lên đường
Năm mươi người ngược núi rừng
Đã dựng vòng biên ải
Năm mươi người trẩy theo sông

Tới khơi chừng…

Giai điệu của đoản khúc này được lặp lại ở đoản khúc 6 (Tôi Đi Từ Lúc Trăng Tơ):

Ra đi từ lúc trăng tơ

Trăng một miền hoa cỏ
Trăng lên đầu của ô xa vẫn chưa mờ
Im nghe lời Thủ Đô chào

Ôi lời mừng đông đảo
Đi trong lịch sử dân ta

Luống nghẹn ngào…

Ðoản khúc thứ ba mang tên Ðồng Ðăng Có Phố Kỳ Lừa, tác giả đã sử dụng điệu ru con miền Bắc:

Ðồng Ðăng có phố Kỳ Lừa

Có nàng Tô Thị đứng chờ đợi ai…

Thế là người lữ khách từ biệt miền thượng du, có người dân vùng rừng núi hát tiễn đưa. Tác giả dùng điệu hát lượn trong đoản khúc 4 mang tên Người Về Miền Xuôi:
Người về miền xuôi

Đem theo tình người miền núi
Nhà sàn lả lơi

Đứng bên đường hoang vắng soi
Đưa chân anh qua đồi

Cơm lam đem theo người
Lên cao anh ôm trời

Để dòng suối lẻ loi…

Người lữ khách về đến miền trung du. Qua bến đò ngang, gặp cô lái đò ở đây hát mừng Này Người Ơi:
Này người ơi ghé bến (y) sang sông
Lên đường đi tới bõ công em chèo thuyền
Mừng người đi tìm thấy tình duyên
Con đường đất nước nối liền lòng dân…

Giã từ sông Thương, người ra đi từ lúc trăng tơ, về đến thủ đô với nhà cửa thân yêu nhưng rồi lữ khách cũng phải giã từ Thăng Long Hà Nội, giã từ Tháp Rùa để vào đến miền Trung.

Phần thứ hai của trường ca bắt đầu từ đây với tiếng reo mừng của lũ trẻ trong đoản khúc thứ bảy mang tên Ai Đi Trong Gió Trong Sương. Giai điệu bài này mô phỏng giai điệu của bài hát Lý con sáo Huế:

Ai đi trong gió trong sương (ơ)
Phải mau (ơ) phải mau

Để mà tới người ơi
Kẻo đường (ơi), người ơi còn xa
Kẻo đường (ơi), người ơi còn xa!

Lữ khách gặp một bà mẹ ôm con, ru rằng Ai Vô Xứ Huế Thì Vô, giai điệu chạy trên hệ thống tứ âm (tetratonique) mi, la, si, re:

À á ơ a a à á ơi
Ai vô xứ Huế thì vô
Chớ sợ truông nhà Hồ

Chớ sợ phá Tam Giang à ơi…

Vào đây đi qua các thôn xóm, gặp lúc ngày mùa, lữ khách lắng nghe tiếng hò của người dân quê trên ruộng đồng, dưới mái nhà tranh. Đoản khúc 9 Ai Đi Trên Dặm Đường Trường mang âm điệu câu hò giã gạo của xứ Huế:

Hò hô hò hò ơi hò
Ai đi trên đường là dặm đường
Đi mô mà vội vã à, cùng là hò khoan…
Năm tê trong lúc sang xuân
Tôi theo Công chúa Huyền Trân

Tôi lên đường…

Lữ khách muốn được như nàng Huyền Trân ngày xưa, đi vào phía Nam bằng cả tấm lòng vì nước non. Người nghe tưởng như tiếng hát của nàng còn vọng lên trong đoản khúc 10 Nước Non Ngàn Dặm Ra Đi. Ta nghe giai điệu trong bài này là thang âm ngũ cung hơi ai của xứ Huế (re, mi, sol, la, si):

Nước non ngàn dặm (à a a) ra đi
Nước non ngàn dặm (à a a ra) đi
Dù đường thiên lý xa vời

Dù tình cố lý chơi vơi
Cũng không dài

Bằng lòng thương mến người.

Bước đi vào lòng (ừ ư ư) muôn dân
Bước đi vào lòng (ừ ư ư) muôn dân
Bằng hồn trinh nữ mơ màng
Bằng tình say đắm ơi chàng
Ước nuôi dần hòa bình trong ái ân…

Đến đây tác giả đột ngột chuyển hệ sang thang âm ngũ cung khác (do, re, mi, sol, la), lại sử dụng tứ âm (re, sol, la, do) tạo hiệu quả cảm xúc lạ lùng nhưng rất ngọt ngào:

Nhưng ánh tháp vàng, cây quế giữa rừng
Chỉ một mùa tang là hương là sắc (ứ) tan
Tàn cả tình yêu vì hận còn gieo
Đất nước cháy theo với ngọn lửa thiêu…
Rồi người lữ khách vội vã ra đi, để lại sau lưng dòng sông Hương và giọng hò của cô gái Huế. Đoản khúc 11 Gió Đưa Cành Trúc La Đà thoảng nghe âm điệu câu hò trên sông nước:

Người về chưa ghé sông Hương
Đã nghe tiếng gọi đôi đường đắng cay
Anh đi mau ơ để nối lại duyên may
Tình xưa là nghĩa cũ

Anh đắp xây cho thiệt bền…
Lữ khách cất tiếng hát qua đèo để vào vùng đất có ruộng đồng ven biển. Đoản khúc 12 Tôi Xa Quê Nghèo Ruộng Nghèo lặp lại giai điệu đoản khúc số 9:

Hò hô hò hò ơi hò
Tôi xa quê nghèo là ruộng nghèo
Tôi leo qua cồn cát (à) vượt đèo Hải Vân…

Vua Lê dắt lính vô Trung
Anh theo Chúa Nguyễn

Vượt Cù Mông anh qua đèo
Để núi cao ngơ ngác trông theo
Để tháp son thương nhớ trong chiều…

Hò hô hò hò ơi hò
Lênh đênh ven bờ là biển sâu
Hương thơm là thoang thoảng (à)

Đất mầu miền Nam…

Phần thứ ba của trường ca: Vào Miền Nam. Đến đây là đoản khúc 13 Anh Đi Đường Vắng Đường Xa. Người lữ khách nghe tiếng hò hỏi han của cô gái miền Nam:
Hò ơ ơ ớ ơ… hò
Bớ anh đi đường vắng đường xa
Dừng chân đứng lại (i ì)
Hò ơ ơ ớ ơ… hò
Nghe em đây ca đôi lời
Chiều về trên cánh Đồng Nai
Chờ người xây đắp ngày mai…
Người lữ khách mừng rỡ, hát khúc hành ca Nhờ Gió Đưa Về với âm điệu rộn ràng, khỏe khoắn. Đoạn đầu bài hát tác giả dùng cung La thứ, đến đoạn sau chuyển sang La trưởng:
Nhờ gió đưa về, về miền gió chan hòa
Thơm lòng đất phù sa

Trời nắng huy hoàng

Trời sưởi ấm con đường
Cho ta vô miền sông nước…

Có mái tóc xuề xòa

Có khóe mắt thiệt thà
Đôi môi xinh hàm răng xít xa
Có áo ngắn mặn mà

Có tiếng nói đậm đà
Người yên lành như một giấc mơ.

Cô gái miền Nam ước mong được đi bên cạnh lữ khách trên con đường và trong cuộc đời. Đoản khúc 15 mang tên Đi Đâu Cho Thiếp Theo Cùng là lời giãi bày mộc mạc, chất phác của cô gái:
Đi đâu cho thiếp theo cùng
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam
Ví dầu tình có dở dang
Thì cho thiếp gọi đò ngang thiếp về…
Người lữ khách tình trong như đã, thấy nàng bén duyên nên muốn ở lại cùng nàng:

Tới đây lạ xứ quen người
Trăm bề nhũn nhặn

Đừng cười tôi nghe
Ví dầu tình bén duyên thề
Thi xin kết bạn đền nghì trúc mai…
Từ biệt miền Bắc với tâm trạng của nàng Tô Thị, vào miền Trung với mối tình đất nước của nàng Huyền Trân nhưng vào tới miền Nam, người lữ khách tìm được mối tình duyên với cảnh và người nơi xứ lạ. Lữ khách kết duyên với cô gái miền Nam, ước hẹn một cuộc sống đầy tình nghĩa. Dân chúng miền Nam hát mừng đôi vợ chồng mới trong đoản khúc 16 Đèn Cao Châu Đốc Gió Độc Gò Công với âm hưởng điệu Hò lơ:
Hò lơ hó lơ lắng tai nghe

Tiếng ai đang hò lờ

Hò lơ hó lơ
Đèn nào cao cho bằng đèn Châu Đốc
Gió nào độc cho bằng gió Gò Công
Vợ chồng son đã nuôi lòng ước mong
Thuận vợ chồng sẽ cùng tát Biển Đông…
Thế là đôi vợ chồng son với mối lương duyên đằm thắm, với hạnh phúc đơm hoa đã cùng vượt sóng Cửu Long về miền Hậu Giang xây tổ ấm để sống cuộc đời bền chặt bên nhau. Đoản khúc 17 mang tên Cửu Long Giang và Về Miền Nam là một hành khúc lạc quan, yêu đời, viết theo nhạc thuật Tây phương cung La trưởng:
Cửu Long Giang

Gió về vui trên sóng sông
Uốn quanh như chín con rồng

Ôm chặt đứa con
Người từ Tiền Giang đi về xa xăm
Cuối con đường say đắm

Là miền rộng thênh thang…
Đôi vợ chồng trẻ và dân chúng cùng hòa ca khi cùng ở lại miền Nam. Tình cảm vui vầy gần như chưa dứt, tác giả kết thúc đoản khúc ở bậc 5:
Về miền Nam ôi quê hương mới ơi
Về Cần Thơ khơi kinh, khơi nước ngòi
Về Hà Tiên ta tiễn Chúa ra đảo khơi
Về Cà Mau ta đốt biết bao lửa vui…
Về miền Nam… Về miền Nam
Người về đây trong gió bình an…
Đến đây xây cuộc sống mới trên đất màu mỡ miền Nam, đôi vợ chồng hát lời cảm ơn cuộc đời. Đó là nội dung đoản khúc 18 Giã Ơn Cái Cối Cái Chầy và Về Miền Nam. Đoạn đầu là một khúc nhạc dạo theo điệu hò ru miền Nam:

Giã ơn (ơ) cái cối cái chầy
Đêm khuya (ơ) giã gạo, có mầy (ơ) có tao
Giã ơn (ơ) cái nhịp cầu ao
Đêm khuya (ơ) vo gạo, có tao (ơ) có mầy.
Tiếp đó là đoạn sau lặp lại giai điệu với đoản khúc 17 và là một hành khúc. Đó là lời ca hát của người dân quê chào mừng đôi vợ chồng son:
Về miền Nam đem theo sương gió xưa
Về đồng khô đem cơn mưa rét về
Người về đây thương nhớ lắm con đường xa…
Đường về đây… Đường về đây
Trời về Tây nghe gió (ư) cuồng (ư) bay…
Thế là người lữ khách đã đi tới cuối con đường xuyên Việt, con đường nối liền một dải Bắc Nam. Tạm dừng chân ở đây, lữ khách ước mong con đường cái quan sẽ có ngày tan ranh giới để người được mãi mãi đi trong lòng dân tộc, đi trong một duyên tình dài… Đoản khúc19 mang tên Đường Đi Đã Tới là đoạn kết của cuộc hành trình trên con đường cái quan:
Đường đi đã tới… Lòng dân đã nối…
Người tạm dừng bước chân vui người ơi
Người mơ ước tới…

Đường tan ranh giới
Để người được mãi…

Đi trong một duyên tình dài

Con đường thế giới xa xôi.

Trong lòng dân chúng nơi nơi.

Trường ca Con Ðường Cái Quan cho ta thấy bước chân lên đường của người lữ khách đi trên con đường thiên lý của đất nước. Người ra đi từ đồi cao dốc thẳm của miền biên ải cho đến vùng trung du rồi giã từ cô gái trên sông Thương với lòng quyến luyến khôn nguôi. Người lại đến thủ đô, nhìn Tháp Rùa, Hà Nội cổ kính rồi ra đi mà lòng rưng rưng, nghẹn ngào. Người lữ khách vào đến miền Trung, nghe tiếng chuông chùa vọng lại, nghe tiếng ru con xứ Huế, tiếng hò giã gạo vang lên trong thôn xóm nhân lúc ngày mùa. Bước chân người lữ khách chợt lặng lẽ, lắng hồn khi đi qua những tháp Hời, tưởng như còn nghe tiếng nức nở của nàng Công Chúa Huyền Trân. Người lại vượt đèo Cù Mông, xa dần đất quê nghèo, ruộng nghèo, xa dần cồn cát, đồi núi để rồi đến trước vùng biển mênh mông. Nhưng rồi giấc mộng phiêu du khiến ngưởi lữ khách đi tiếp vào miền Nam, dừng chân và xây cuộc đời nơi cùng trời cuối đất. Thế là người lữ khách đã hoàn thành sứ mệnh của mình. Người lữ khách đã đi trọn vẹn trên con đường của giang sơn gấm vóc, đi trong lịch sử chiến đấu kiên cường, đi trong tình yêu quê hương và cả tình yêu lứa đôi, còn đi cả trong lòng của người dân Việt mến yêu nữa.

6. Mẹ Việt Nam

Sau khi ngợi ca những người mẹ cụ thể trên nhiều miền đất nước, Phạm Duy đã khái quát hóa hình ảnh người mẹ bằng một trường ca mang tên Mẹ Việt Nam viết năm 1963-1964. Tác giả đã giãi bày về tác phẩm này: “MẸ VIỆT NAM là một âu ca, ca tụng Mẹ Tổ quốc và những Mẹ điển hình trong truyền kỳ lịch sử nước nhà, đề tài và cảm hứng nhắm dựa vào Tình thương yêu và Tính hiếu hòa, tính tình này đã sinh tồn mạnh mẽ trên đất ta và phải được truyền đi trong thế giới tàn nhẫn hiện tại. Ðây là một trường ca trong đó, lúc trẻ tuổi, MẸ VIỆT NAM được biểu tượng bằng ÐẤT MẦU tươi tốt, đa tình, nền tảng của gia đình, ruộng nương, làng nước. Khi đứng tuổi, MẸ hiện thân là NÚI NON sắt đá, trong sự hi sinh ròng rã, vẫn bền bỉ đợi chờ và che chở người chinh phu chưa hết nợ đao binh. MẸ còn âm thầm xót thương lũ con SÔNG NGÒI, có những đứa dại dột, hiếu thắng, phản bội MẸ vì sự tranh giành lẫn nhau, gây oán hận phân chia, làm nát tan lòng MẸ. Vào lúc tuổi già, MẸ trở thành BIỂN CẢ đại lượng bao dung, kêu gọi và ôm đón đàn con giang hồ, thành công hay thất bại. Nước mắt vui mừng của MẸ lúc gặp con bốc lên trời cao làm mây đầy đặn và ấm áp, bay đi rửa sạch địa cầu bằng ơn mưa móc, nối chặt chu kỳ trường ca MẸ VIỆT NAM”.(6)

Trường ca gồm bốn phần: Đất mẹ, Núi mẹ, Sông mẹ, Biển mẹ, gồm 21 ca khúc hát liên tục và một chung khúc để kết thúc trường ca.

Phần Đất mẹ gồm 5 bài: Mẹ ta, Mẹ xinh đẹp, Mẹ chờ mong, Lúa mẹ, Mẹ đón cha về, ngợi ca người mẹ trên quê hương, đồng ruộng thật giản dị với phục sức mộc mạc nhưng luôn xinh đẹp. Trong bản Tình Ca, Phạm Duy có viết: “Tấm áo nâu, những mẹ quê chỉ biết cần lao… Tấm áo nâu, rướn mình đi từ cõi rừng cao” thì tấm áo nâu sồng ở đây của mẹ càng gần gũi hơn vì tấm áo nâu đã mang cả hồn lịch sử và sông núi:

Mẹ Việt Nam, không son không phấn
Mẹ Việt Nam, chân lấm tay bùn
Mẹ Việt Nam, không mang nhung gấm
Mẹ Việt Nam, mang tấm nâu sồng…

(Mẹ ta)

Nhưng mẹ không chỉ xinh đẹp với dáng vẻ bề ngoài tươi tắn xuân tình mà mẹ còn tiêu biểu cho những đức tính tốt đẹp như nét dịu dàng, sự tảo tần, chịu thương chịu khó:

Mẹ mong (ý) mong chồng

Cũng như là ruộng sâu nông
Ruộng cứng hay mềm cũng êm đềm

Đón lưỡi cầy tìm da thơm
Mẹ cười trong gió sương.

Ôi Mẹ Việt Nam
Dâng tấm thân nhuộm nắng nâu ròn.

Mẹ Việt Nam
Đây ruộng đồng trinh.

Mẹ khát khao mầm, mầm tươi ngon
Mẹ Việt Nam. Trời Đông ánh dương hồng
Cũng như chiều vàng mênh mông
Có đàn chim én lượn trên đất xinh
Chứa chan tình, là tình mong chờ.

Mẹ Việt Nam.

(Mẹ xinh đẹp)

Mẹ chờ mong ngày trông tháng đợi
Đợi Thần Trai đội đá vá trời.

Với hồn Nữ Oa
Mẹ giơ tay đón. Với tình nước non

Mẹ còn chờ mong.
(Mẹ chờ mong)

Mẹ còn có lòng bao dung, nhân ái và thủy chung nồng thắm nhưng cũng rất anh hùng:

Ôi Mẹ Việt Nam
Năm tháng lo gạo gánh nuôi chồng
Mẹ Việt Nam. Đêm ngày thầm mong
Lửa bếp thơm nồng tình uyên ương.

Mẹ Việt Nam.

Mẹ yêu (ý) yêu chồng

Có khi Mẹ là Châu Long
Nợ trả thay chồng vẫn giữ lòng

Trắng như ngần và sạch trong
Mẹ là Tiểu Kính Tâm. Lên chùa giải oan
Ôi xót thương trẻ khóc trong vườn

Trẻ con hoang

Ôi Mẹ từ bi. Giọt máu rơi này

Mẹ nhận là con…

Việt Nam có anh hùng

Mắt nhung và môi son
Giữa mùa Xuân giết giặc
Yêu nước non, hé môi cười
Nụ cười thanh bình. Mẹ Việt Nam…

(Mẹ đón cha về)

Những đức tính cao quý, đẹp đẽ đã kết tinh trong hình ảnh của Mẹ Việt Nam. Tác giả đã nhắc đến Nữ Oa để nói đến chí lớn đội đá vá trời; Châu Long để nói sự đảm đang toàn vẹn; Kính Tâm: lòng nhân ái vô bờ; thiếu phụ Nam Xương: sự trung trinh tiết liệt; Trưng Nữ Vương: chất anh hùng nữ lưu. Với sự liên tưởng những hình ảnh trong lịch sử để tôn vẻ đẹp của mẹ – một bà mẹ của dân gian gần như huyền thoại, Phạm Duy đã cho ta trái tim nồng nàn hơn trong tình yêu dành cho Mẹ.

Về âm nhạc, trong phần này tác giả sử dụng thuần nhất thang âm ngũ cung đúng của miền Bắc (re, fa, sol, la, do) với nhiều tiết tấu nhịp nhàng, tình tứ, đong đưa cùng với giai điệu tươi tắn, nhiều luyến láy hoa mỹ của nhạc ngữ dân gian như tô thêm nét xuân hồng phơi phới, đầy tin yêu của Mẹ thời xuân sắc.

Phần Núi mẹ cũng có 5 bài (Mẹ hỏi, Mẹ bỏ cuộc chơi, Mẹ trong lòng người đi, Mẹ trả lời, Mẹ hóa đá). Phần này mô tả mẹ qua hình tượng núi Vọng Phu để nói về sự chờ đợi người chồng sẽ trở về sau cơn binh lửa. Mở đầu là câu hỏi của Mẹ, báo hiệu cho không khí chinh chiến và tâm thế phân ly sầu hận như một định mệnh của người dân Việt. Đó là một câu ngâm mang giai điệu của hơi oán:

Lính vua lính chúa lính làng
Trời ơi giết bao nhiêu giặc

Cho chàng, chàng phải đi?

(Mẹ hỏi)

Đúng là tiếng gõ cửa của định mệnh đã vang lên. Mẹ không còn nét tươi hồng phơi phới của ngày qua, giờ đây mẹ phải từ bỏ hội vui để tiễn người đi vào nơi gió cát mịt mù:

Gió mùa xuân

Mẹ bâng khuâng hỏi
Hoa trên đồi, hoa trên đồi sớm tối còn tươi
Giữa ngày xuân mới, giữa hội mùa vui
Sao vắng tiếng cười?

Sao vắng bóng người?
Tiếng trống, trống năm xưa

Trống đổ, đỏ đêm khuya
Trên trường thành trăng ngả

Cho tàn cuộc vui nhỏ
Cho ai tiễn đưa người

Ra đi chốn xa vời, hỡi ai…

Nắng sẽ sẽ không đi

Bóng Mẹ ngả trên đê
In hình người chiến sĩ

Cho Mẹ nhìn con trẻ
Con ơi hỡi cha kìa

Mau ra đón cha về với con.
(Mẹ bỏ cuộc chơi)

Giai điệu khúc hát này chính là giai điệu của bài Mẹ xinh đẹp nhưng nội dung đã khác biệt, ở đó là tâm thế u uất, khắc khoải của Mẹ trước hiện thực chiến chinh. Nhưng rồi Mẹ bỗng nhiên mạnh mẽ trở lại, bởi vì âm thanh hùng dũng ở đâu vang tới, hay đó là âm thanh từ nội tâm sâu thẳm của Mẹ:

Đường lên, lên núi Lam
Đường sang, sang Thất Sơn
Đường tới những chiến công ngọn nguồn
Hoành Sơn nghiêng dãy nằm
Vạn Kiếp chốn dung thân
Đường đưa ta đến với người thương.

Một hành khúc mà tác giả đã sử dụng thang âm ngũ cung hơi ai của nhạc Huế (do, re, mi, sol, la), có lúc chuyển hệ sang ngũ cung đúng (re, fa, sol, la, do) – một sự kết hợp nhuần nhuyễn, khéo léo. Âm điệu hào sảng, tự hào khi nhìn đàn con ra đi giết giặc rồi cũng trở về với Mẹ:

Ra đi còn nhớ ngày nao
Nuôi con Mẹ vẫn nguyện cầu
Người sinh ra có nhau
Phải thương nhau mến nhau
Nhưng đã có biết bao phen khổ đau
Giặc xâm lăng nước nhà
Phải cứu lấy dân ta
Thì ta lên núi với Mẹ già…

(Mẹ trong lòng người đi)

Mẹ nhìn tới trước tương lai với ánh mắt đầy tin yêu, quả cảm nhưng quay nhìn lại sau lưng thì là ánh mắt u hoài với nỗi sầu chất ngất. Người trai đã ra đi chiến đấu thì mẹ lại về chăm đàn con, săn sóc vườn dâu rồi ngày ngày trông về nơi xa. Cứ thế nỗi chờ mong bất tận mà đứa con thì chẳng trở về, mẹ mỏi mòn nên hóa đá nghìn thu:

Gió mùa đông

Mẹ không thấy mỏi
Đứng trông về, đứng trông về

Bốn cõi trời xa
Xót người nông phu

Chắp từng manh áo
Thương gái gánh về

Thùng bánh ế cuối ngày.

Biết mấy nỗi thương vay

Thấy trẻ nhỏ giơ tay
Con ngựa người vất vả

Xe nặng nề qua ngõ
Thương thi sĩ hay buồn

Cho nên mẹ hóa ra hòn núi cao.

(Mẹ hóa đá)

Phần Sông mẹ gồm 5 bài (Muốn về quê mẹ, Sông còn mải mê, Sông vùi chôn mẹ, Sông không đường về, Những dòng sông chia rẽ), nói đến những dòng sông chia cắt như hình ảnh những đứa con còn trăm mối ngổn ngang, chia lìa nhau trong cuộc tử sinh nên không về với mẹ. Mở đầu là một khúc ru nhẹ nhàng:

Chiều chiều ra đứng bờ sông
Muốn về quê mẹ, muốn về quê mẹ
Mà không có đò. Mà không có đò.
(Muốn về quê mẹ)

Sông không có đò là dòng sông bị chia cắt khi đất nước phân ly. Câu hát khiến cho lòng người thêm quặn đau. Để rồi khi dừng lại trên bước đường giong ruổi, tác giả liên tưởng những dòng sông lịch sử làm nên tên tuổi sáng ngời trong lòng người dân Việt. Giai điệu mạnh mẽ của những câu hò rộn rã trên sông:

Sông Hồng cuộn sóng

Lôi cuốn sông Lô
Sông Đà, sông Đuống

Trôi xuống sông Cầu
Nghe Bạch Đằng Giang

Chôn bao nhiêu xác quân Tàu
Sông nào cũng muốn đến trước

Tranh lấy công đầu.
Khoan hời hò khoan
Sông còn ngổn ngang

Cho nên chưa được bình an
Khoan hời hò khoan
Sông còn mải mê

Cho nên chưa về Mẹ quê
Khoan hời hò khoan.

Khoan hời hò khoan.
(Sông còn mải mê)

Đứng trước dòng sông là nhớ về mẹ lẫm liệt Hai Bà Trưng trầm mình dưới dòng Hát Giang rửa nhục anh hùng, là nhớ tấm lòng trung trinh yêu chồng của nàng thiếu phụ Nam Xương nhưng rồi sông cũng đã vùi chôn mẹ để mẹ được giải oan:

Nhớ xưa, nhớ mẹ, nhớ mẹ xưa
Mẹ xuống sông rửa nhục anh hùng
Mẹ trôi trên dòng sông Hát
Nước ngược xuôi đưa mẹ đi muôn nơi.
Nhớ chăng, nhớ mẹ, nhớ mẹ chăng
Chôn đáy sông mối hận yêu chồng
Chàng Trương có buồn thương khóc
Rước mẹ lên, nước thiêng sẽ giải oan…

(Sông vùi chôn mẹ)

Đứng trước dòng sông chia cắt, tác giả dường như thấy dòng sông đổi sang màu máu như vẳng lại tiếng kêu cứu của mẹ rằng các con đừng vọng tưởng để anh em lại chém giết nhau. Mẹ khuyên đàn con đừng quên lời của mẹ:

Ai bảo là sông

Ơi sông không đổi mầu luôn
Sông đỏ như máu tranh đấu sông nâu
Sông nghèo xanh yếu kêu cứu sông giầu
Sông nhuộm vàng mau

Chia nhau uốn khúc khoe mầu
Sông rồng lôi kéo lũ rắn đi cắn sông đào
Khoan hời hò khoan
Sông tìm vẻ vang cho nên quên lời mẹ khuyên
Khoan hời hò khoan
Không tìm tình thương

Cho nên không đường về tim
Khoan hời hò khoan khoan hời hò khoan.
(Sông không đường về)

Sông không tìm đường về vì những đứa con tứ tán với suy tưởng khác nhau. Sông đã cách chia nhau từ trong truyền thuyết, trong xếp đặt của thiên nhiên, của lịch sử và của lòng người:

Nước đi là nước không về
Chia đôi dòng nước chia lìa dòng sông
Chia đôi bên bờ bến lạnh lùng
Cho Ngưu Lang và Chức Nữ ngại ngùng
Chia đôi dòng sông Thương
Nước bên đục bên trong
Nước ân tình đổi

Thành ra nước căm hờn.
Chia sông Gianh

Phân tranh mộng đồ vương
Chia con sông Bến Hải buồn thương…
Chia anh em vì quên tiếng gia đình
Chia tay chân và cắt đứt ngang mình…

Mẹ ta với một đời lận đận những buồn vui và đau đớn của một đàn con lạc lối. Mẹ đau như ai cắt thịt chia xương, trái tim mẹ hằn in vết thương lòng, nhưng rồi mẹ cũng chỉ mong ước được thấy đàn con sẽ trở về trong lòng mẹ. Giai điệu được viết với cung si giáng thứ cùng với tiết tấu chậm buồn nghe ra đậm chất áo não:

Nước sông trôi bềnh bồng

Thiếu bao nhiêu mặn nồng
Vì dòng sông

Dòng sông chia rẽ đôi đường.
Lũ con lạc lối đường xa
Có con nào nhớ mẹ ta thì về.

(Những dòng sông chia rẽ)

Liên hệ với hoàn cảnh đất nước bị cắt chia sau biến cố lịch sử, qua khúc hát này Phạm Duy đã diễn tả được niềm đau thương, nỗi bi phẫn của dân tộc qua bao nhiêu nước mắt, bao nhiêu xương máu trên mảnh đất này.

Phần Biển mẹ gồm 7 bài: Mẹ trùng dương, Biển Đông sóng gợn, Thênh thang thuyền về, Chớp bể mưa nguồn, Phù sa lớp lớp mây trời cuộn bay, Mẹ Việt Nam ơi, Việt Nam – Việt Nam. Mẹ ưu tư phiền muộn, khổ đau vì những dòng sông chia rẽ qua thời gian dài chất ngất nên Sông mẹ cũng phải bạc đầu để trở thành Biển mẹ. Giờ đây hình ảnh mẹ là hình ảnh của biển, luôn ôm ấp vỗ về như câu ru của sóng trùng dương:

Sóng vỗ miên man như câu

ru êm của mẹ dịu dàng
Nước biếc mênh mông như đôi tay ôm

Của mẹ trùng dương

Mẹ Việt Nam cho quê hương muối trắng
Thêm thơm mâm cơm mặn nồng
Me còn cho con luôn luôn tôm to cá lớn

Tươi ngon đầy thuyền
Mẹ hiền không lên bão tố

Mẹ già không đem nỗi khó
Mẹ là mẹ nhà cho mưa với gió hiền khô…

Mẹ bây giờ chỉ còn nỗi thương nhớ những đứa con xa và mong ước chúng trở về bên mẹ… Âm điệu ngân nga tha thiết với lời ru đằm thắm, dịu dàng:

Ngày ngày vươn vai ra khơi

Đón ánh dương soi con tim bồi hồi
Chiều chiều chơi vơi
Không nguôi thương thương

Nhớ nhớ con trong cuộc đời
Mẹ tìm con trong gió Bắc
Mẹ về phương Nam nắng gắt
Tình nhà mở cửa

Đem ra góp với bao la.
Sóng vỗ êm êm như khuyên

Con nên trở lại mẹ hiền
Gió rít thông reo như kêu

Con mau trở về mẹ yêu.

(Mẹ trùng dương)

Về với mẹ là về với mênh mông biển cả, về với con sóng gọi thuyền viễn xứ hoặc gọi thuyền từ miền ngoài để cùng về trong lòng mẹ:

Biển Đông gợn sóng tứ bề
Gọi thuyền viễn xứ quay về Biển Đông
Hà à a hơ ơ hờ. Hà à a hơ ơ hờ
Sông ra đi từ khi non dại
Từ miền ngoài sông lại Việt Nam
Có từ núi tuyết rừng son
Cũng về biển mẹ thành con một nhà.
(Biển Đông sóng gợn)

Về với mẹ thì buồm căng gió lộng, về với lớp sóng vui tươi rộn ràng, về với cuộc sống ấm áp. Giai điệu là một hành khúc rộn rã rồi kết khúc bằng một câu dân ca miền Bắc:

Thuyền về trên lớp sóng vui

Trên sóng vui
Đàn con về với, với

Với biển khơi, khơi mẹ già
Mẹ già đang đón chờ ta, đang đón ta
Có đàn chim én, én, én từ xa về rồi
Quê ta đẹp lắm mẹ ơi, ơi mẹ ơi.
Biển êm sóng lặng, lắng

Lắng nước nôi, nôi hiền lành
Về đây xây đắp mối tình

Một mối tình
Về đây xây đắp mối tình

Ôi tình Việt Nam.

Tình tính tang tang tính tình
Yêu mẹ già thương mẹ ta
Ðàn con nhớ nhớ yêu nhau
Ðàn con nhớ nhớ thương nhau.

(Thênh thang thuyền về)
Các con đã về bên mẹ thì “vui buồn chút lệ rơi, vui buồn khóc lại cười” và mẹ xem như “đền bồi cho máu về tim”. Rồi những đứa con dù đôi lúc có lạc loài cũng trở về kêu tên mẹ bao dung vô bờ trong nỗi thương yêu ngập tràn:

Chúng con đã về khát khao hơi mẹ
Chúng con xin thề giữ thơm quê mẹ
Cuộc đời rồi phai tàn sau thế giới
Chỉ còn tình yêu của mẹ mà thôi.

(Mẹ Việt Nam ơi)

Chung khúc Việt Nam Việt Nam là một hành khúc tuyệt đẹp về âm nhạc lẫn ca từ. Một khúc anh hùng ca tô thắm hình ảnh đất nước cùng ước mơ của người con dân Việt là vươn tới tương lai yên vui để xây đắp tình người:

Việt Nam, Việt Nam

Nghe tự vào đời
Việt Nam, hai câu nói bên vành nôi.

Việt Nam, nước tôi

Việt Nam, Việt Nam tên gọi là người
Việt Nam, hai câu nói sau cùng khi lìa đời…

Việt Nam Việt Nam Việt Nam

Quê hương đất nước sáng ngời
Việt Nam Việt Nam Việt Nam muôn đời.

Những năm tháng cuối đời, nhạc sĩ Phạm Duy có một bức thư tâm nguyện (không ghi ngày), trong đó có đoạn: “Tôi nghĩ rằng tôi có quyền nuôi một nguyện vọng đóng góp vào sinh hoạt âm nhạc trong nước bằng một ca khúc có tính chất xưng tụng nước ta nhan đề Việt Nam, Việt Nam sáng tác từ 1960, rút trong trường ca Mẹ Việt Nam, là một tổ khúc kêu gọi sự đoàn kết dân tộc dưới bóng Mẹ Tổ quốc thiêng liêng và độ lượng…(7) .Vào tháng 6-2012, GS Trần Văn Khê có viết trong một bức thư: “Với hai trường ca này, Duy đã nói về một Việt Nam hoàn toàn chung nhất, vẽ nên một bức tranh Việt Nam đầy đủ địa lý tới văn hóa, từ chiều dài lịch sử đến bề sâu tâm hồn, từ tư tưởng triết lý đến quan niệm nhân sinh… để thấy rằng Việt Nam đẹp đến nhường nào, từ trong nội tại tâm hồn đến cảnh vật bên ngoài, luôn lấp lánh cái bóng dáng hòa bình, yêu thương, nhân ái, người vì người, sống chết cho nhau”…(8)

Để khắc họa hình tượng người mẹ trong âm nhạc của mình, ngoài tâm tình tha thiết để ngợi ca, xưng tụng, Phạm Duy thường dùng nhạc ngữ Việt Nam để chuyển tải nội dung sao cho người nghe nhận ra đó chính là hình ảnh người mẹ Việt Nam, quê hương Việt Nam, nhận ra cảm giác gần gũi, ấm áp với những âm hưởng đã ăn sâu bao đời trong tâm thức người Việt. Ngoài ra Phạm Duy còn vận dụng sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nhạc ngữ phương Tây với nhạc ngữ dân tộc để làm giàu ngôn ngữ âm nhạc của chính mình. Viết về mẹ như trên, ông thường dùng thang âm ngũ cung miền Bắc trong lời ru con, chạy trên ngũ cung do re fa sol la hoặc trong lối ngâm thơ chạy trên ngũ cung re fa sol la do, đôi khi chuyển hệ (métabole) sang ngũ cung re mi sol la si. Kể cả trong bài chung khúc với tính chất mạnh mẽ, ông vẫn trở về với âm hưởng dân tộc. Cái tài hoa của người nghệ sĩ chính là ở khả năng đó. Vì vậy bài hát về Mẹ Việt Nam của Phạm Duy dễ đi vào lòng người và đã để lại dấu ấn khó phai qua bao thế hệ người yêu nhạc Việt Nam.


—-

CHÚ THÍCH:

(1) Đặng Phú Phong, Nhạc sĩ Lê Thương & 70 năm Hòn Vọng Phu, https://sites.google.com/site/ccamnhac/ccan-116

(2) https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0u_Lang_Ch%E1%BB%A9c_N%E1%BB%AF

(3) Đặng Phú Phong, Nhạc sĩ Lê Thương & 70 năm Hòn Vọng Phu, https://sites.google.com/site/ccamnhac/ccan-116

(4) Đặng Phú Phong, bài đã dẫn.

(5) (6) Con đường cái quan, trường ca của Phạm Duy, rút trong tờ báo Sáng Dội Miền Nam,

số đặc biệt Giang Sơn Gấm Vóc, in xong ngày 15-4-1960.

(7) (8) “Nhạc sĩ Phạm Duy: tâm nguyện cuối đời”, báo Thanh Niên, 30-1-2013.

(Còn tiếp)

Comments are closed.