Nhìn lại âm nhạc miền Nam 1954-1975 (kỳ 2)

Nguyễn Phú Yên

CHƯƠNG II

ĐỜI SỐNG VĂN HÓA – VĂN NGHỆ Ở MIỀN NAM

Trong tình hình mới của xã hội miền Nam, đời sống tinh thần đã có những nét đặc thù khác với trước, đó là vai trò của hệ thống giáo dục với tầng lớp trí thức được đào tạo và hoạt động báo chí, văn nghệ phong phú. Đa số học sinh và sinh viên đều đi học trong các cơ sở giáo dục công lập, một phần khác theo học các trường tư thục. Họ không chỉ thụ đắc kiến thức mà là có được tư duy độc lập, không bị gò bó trong suy nghĩ. Điều này thể hiện rõ rệt trong giáo dục đại học, nơi sinh viên có được ý thức về tinh thần làm việc trách nhiệm, về ý thức dân chủ, tự do, về những giá trị nhân bản, về quyền con người trong bối cảnh họ được tiếp xúc với các trào lưu tư tưởng và văn hóa phương Tây. Do được đào tạo với tinh thần như vậy, những người trí thức trẻ ý thức sự chọn lựa thái độ trước thời cuộc, xác lập xu hướng chính trị trước hiện tình đất nước, trong đó nổi lên cả một thế hệ những người có tinh thần nhập cuộc, dấn thân, phản kháng, lên đường.

 

Sau ngày chia cắt đất nước, miền Nam bắt đầu xây dựng đất nước về mọi mặt: kinh tế, xã hội, văn hóa… Trước khi đi sâu vào lĩnh vực văn hóa – văn nghệ, ta không thể không khắc họa khái quát lĩnh vực giáo dục, một trong những yếu tố tạo nên nền tảng văn hóa xã hội. Chính từ cái nôi kiến thức và học thuật này đã sản sinh, nuôi dưỡng và phát triển một thế hệ người sáng tạo để hình thành nền văn học nghệ thuật riêng biệt. Nó là cơ sở thúc đẩy các hoạt động sáng tác và biểu diễn nghệ thuật làm phong phú đời sống tinh thần của người dân miền Nam.

I. VÀI NÉT VỀ GIÁO DỤC

Về giáo dục, sau ngày chia cắt đất nước, chế độ VNCH được thành lập từ năm 1955 với vị tổng thống đầu tiên là Ngô Đình Diệm. Trong khoảng năm năm đầu tiên, vượt qua khó khăn về chính trị và kinh tế, VNCH đã có một số thành tựu: xã hội dần ổn định, kinh tế phát triển, định cư gần 1 triệu dân di cư từ miền Bắc, thành lập Viện Đại học Sài Gòn rồi đến Viện Đại học Huế năm 1957. Lần lượt sau đó là các viện đại học Đà Lạt, Cần Thơ, Vạn Hạnh, Minh Đức, Hòa Hảo, Cao Đài, Hán học (Huế) và các trường đại học cộng đồng ở Tiền Giang, Nha Trang, Sài Gòn, Đà Nẵng, Vĩnh Long, Ban Mê Thuột…, đó là chưa tính các trường kỹ thuật, huấn nghệ, nghệ thuật, các trường cao đẳng, các viện nghiên cứu. Vào năm học 1973-1974, số sinh viên đã là 100.836 người, số học sinh trung học là trên 1 triệu và tiểu học là trên 3 triệu em (1).

Miền Nam đã có một triết lý giáo dục tốt đẹp là nhân bản (humanistic), dân tộc (nationalistic) và khai phóng (liberal), được xác định từ cuộc họp Đại hội Giáo dục quốc gia (lần 1) tại Sài Gòn năm 1958 và sau đó được ghi vào hiến pháp. Triết lý nhấn mạnh quyền tự do giáo dục và cho rằng "nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí", "nền giáo dục đại học được tự trị" và "những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn". Từ đó, giáo dục có mục tiêu: phát triển toàn diện mỗi cá nhân, phát triển tinh thần quốc gia, phát triển tinh thần dân chủ và khoa học ở mỗi học sinh. Sinh viên, học sinh ở các cơ sở giáo dục công lập thì không phải đóng tiền.

Nền giáo dục VNCH ngày mỗi phát triển, đáp ứng được nhu cầu gia tăng nhanh chóng của người dân, đào tạo được một lớp người có học vấn và có khả năng chuyên môn đóng góp vào việc xây dựng quốc gia và tạo được sự nghiệp vững chắc ngay cả ở các quốc gia phát triển. Kết quả này có được là nhờ các nhà giáo có ý thức rõ ràng về sứ mạng giáo dục, có ý thức trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, đã sống cuộc sống khiêm nhường để đóng góp trọn vẹn cho nghề nghiệp; nhờ nhiều bậc phụ huynh đã đóng góp công sức cho việc xây dựng nền giáo dục quốc gia và nhờ những nhà lãnh đạo giáo dục đã có những ý tưởng, sáng kiến và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở miền Nam Việt Nam (2).

Trong nền giáo dục đó, góp phần vào định hướng tư tưởng, phát triển nhân cách, thái độ trước cuộc sống phải kể đến giáo dục đại học. Nó không chỉ là kiến thức mà còn soi đường cho giới trẻ khi vào đời. Nó có vai trò lớn lao trong hoạt động tinh thần của xã hội, tác động mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực của đời sống. Nổi bật trong xã hội là tầng lớp trí thức, trong đó có người thầy và sinh viên. Họ là niềm tự hào và niềm tin của xã hội. Chính những người thầy đó, đặc biệt với bộ môn triết học, âm thầm qua năm tháng đã rao giảng và gieo những hạt mầm tư tưởng mới, truyền đạt niềm tin và thái độ sống, củng cố giá trị tinh thần cho giới trẻ. Giáo dục đại học đã nuôi dưỡng tinh thần tự do trong suy nghĩ và phát biểu. Quyền tự trị đại học không chỉ có trên lĩnh vực quản trị, trong giảng dạy mà còn trong quan hệ với nhà cầm quyền và ngay cả trong phạm vi tư tưởng. Đặc biệt, triết học không chấp nhận giáo điều, chân lý, độc tài, thống trị tư tưởng mà ngược lại đó là bầu trời tự do, không có chỗ cho câu thúc tư tưởng, bó buộc, áp đặt. Chủ nghĩa nhân vị của nhà cầm quyền có thế lực mạnh mẽ như thế và là triết thuyết chủ yếu của chế độ, được gia đình họ Ngô ra sức quảng bá vẫn không có chỗ đứng, không có ý nghĩa gì trong các trường đại học và bị nhiều trí thức tỏ ra lạnh nhạt. Nhờ tư tưởng tự do mà trong học giới cũng như ngoài xã hội xuất hiện nhiều khuynh hướng bảo thủ hay cấp tiến, tả khuynh hay hữu khuynh hoặc tư tưởng đối lập nhau đều được chấp nhận. (Chả thế mà bên cạnh nhạc tâm lý chiến vẫn có nhạc phản chiến được hát công khai dù bị cấm đoán).

Các triết thuyết của nhân loại từ cổ sơ đến hiện đại đều được giảng dạy, kể cả triết học mác-xít. Một chủ thuyết có ảnh hưởng quan trọng là triết học hiện sinh (3), ban đầu là tư tưởng được giảng dạy trong nhà trường, sau đó tác động sâu sắc đến xã hội trên nhiều bộ môn nghệ thuật lúc bấy giờ, bên cạnh môn phân tâm học cũng ảnh hưởng không nhỏ trong sáng tác cũng như trong phê bình. Có hai hướng tiếp cận chủ nghĩa hiện sinh: “Nếu người trước chủ yếu xem chủ nghĩa hiện sinh như một đối tượng nghiên cứu thì người sau chủ yếu xem chủ nghĩa hiện sinh như một triết lý sống, một thái độ làm người và ở đời” (4). Chính tư tưởng hiện sinh đã dạy lớp trẻ biết đặt lại vấn đề, biết thức tỉnh, ưu tư, âu lo, xao xuyến trước hiện thực, biết trăn trở với thân phận làm người. Với họ, chân lý vẫn đang trên đường đi. Thực tế từ ý thức đó, xã hội miền Nam đã xuất hiện một lớp trí thức biết dấn thân, biết gieo mầm phản kháng, biết nhập cuộc, biết đau đáu với số phận của dân tộc (5). Họ tìm kiếm, từ chối chủ nghĩa giáo điều, biết tôn trọng ý kiến người khác; họ biết đòi tự do dân chủ, công bằng xã hội, bình đẳng tôn giáo… Họ biết chọn lựa thái độ sống, hành động có ý thức trách nhiệm trước hoàn cảnh đất nước, ý thức tìm về dân tộc… được thể hiện trong các phong trào đấu tranh của sinh viên. Việc này đã mang lại cho trí thức ý nghĩa tốt đẹp và cao quý đối với quần chúng.

Bên cạnh ý nghĩa tích cực, triết học này cũng tạo cho lớp trẻ tâm lý chán đời, hoài nghi, buông xuôi, thờ ơ, nổi loạn, phủ nhận hệ thống giá trị đạo đức, tôn giáo… Không phải lên án khía cạnh này nhưng ta thấy nổi lên hiện tượng xáo trộn và bất ổn chính trị, phủ nhận chế độ (đó cũng là biểu hiện sinh hoạt dân chủ và tự do tư tưởng, tự do ngôn luận trong chế độ tự do tuy còn non trẻ) kéo dài trên chính trường miền Nam lúc bấy giờ.

II. VỀ HOẠT ĐỘNG VĂN NGHỆ VÀ ÂM NHẠC

Chính trên nền tảng giáo dục đó, các tài năng, nghệ sĩ và nhà hoạt động nghệ thuật được tự do sáng tạo, có được kiến thức nền để phát triển chuyên môn và tạo nên tác phẩm của mình. Cho nên đời sống văn học nghệ thuật nói chung, và âm nhạc nói riêng, ngay từ buổi đầu của chế độ đã phô bày một diện mạo phong phú, đa dạng. Phong phú vì đã tập hợp được nhiều nghệ sĩ của hai miền, trong đó có nhiều tài năng. Nhưng cũng chính từ nguồn xuất thân cá nhân của các văn nghệ sĩ cũng như sự lựa chọn quan điểm chính trị của họ đã cho thấy một xã hội với nhiều khuynh hướng nghệ thuật khác nhau, đôi khi đối lập nhau.

1. Báo chí văn nghệ

Ngay sau ngày đất nước phân ly, một số văn nghệ sĩ miền Bắc di cư cùng với văn nghệ sĩ các tỉnh miền Nam đã gia nhập đội ngũ hoạt động văn nghệ đa dạng. Một số tạp chí văn học nghệ thuật ra đời khá sớm.

Trước hết phải để đến các tập san, đặc san, tạp chí đã xuất hiện trước đó và còn tiếp tục xuất bản sau năm 1954. Văn Hóa Nguyệt San do Nha Văn hóa thuộc Bộ Giáo dục xuất bản số 1 từ tháng 2-1952 tại Hà Nội thời Chính phủ Quốc gia Việt Nam. Bộ mới thời Việt Nam Cộng Hòa xuất bản tại Sài Gòn vào tháng 3-1955; năm 1968 đổi thành Văn Hóa Tập San ra không định kỳ đến số cuối tháng 8-1974. Tiếp theo đó là tờ Phụng Sự, tạp chí nghị luận, biên khảo, văn nghệ thuộc Bộ Tổng tham mưu Quân đội Quốc gia Việt Nam, sau đó là Việt Nam Cộng Hòa, số đầu ra năm 1953 và số cuối ra năm 1960.

Sau năm 1954, báo chí văn nghệ miền Nam phong phú hơn. Chính các tạp chí văn chương tạo niềm hứng khởi sinh động, có được nhiều tác phẩm nhân văn trong bầu khí tự do sáng tạo và là cơ sở để hình thành một thế hệ đông đảo các nhà văn.

Nhân Loại là tạp chí văn nghệ, chính trị thân kháng chiến do Đào Tiến Đạt phụ trách, chủ trương phục vụ văn chương lành mạnh, bộ cũ từ 1954-1956, bộ mới từ tháng 7-1956 đến 1959 thì đình bản.

Văn Nghệ Tập San, bán nguyệt san, chủ nhiệm GS Nguyễn Đăng Thục, chủ bút Trần Đình Khải, số 1 ra vào tháng 5-1955, ra được 10 số trong 2 năm 1955-1956.

Một số báo của các bộ ngành, ngoài các bài nghị luận còn có phần sáng tác văn nghệ. Có thể kể, đó là tờ Phụng Sự hợp nhất với tờ Quân Đội thành tờ Chiến Sĩ Cộng Hòa (1959-1974). Nguyệt san Quân Đội của Nha Chiến tranh tâm lý hiện diện từ 1957 đến 1960. Tạp chí Chỉ Đạo thuộc Bộ Quốc phòng xuất bản từ tháng 10-1956 mở rộng phần văn nghệ, mời các nhà văn ngoài quân đội tham gia, đình bản sau ngày 1-11-1963.

Tạp chí Bách Khoa ra mắt ngày 15-1-1957, chủ nhiệm Huỳnh Văn Lang. Từ tháng 2-1965, chủ nhiệm là Lê Ngộ Châu. Tờ báo quy tụ mọi cây bút không cần cùng một tôn giáo, một quan điểm chính trị, một tổ chức chính trị nào cả. Tờ báo có nội dung đa dạng, những số đầu phải in thêm theo yêu cầu của độc giả, là tờ báo sống lâu dài nhất, cho đến tháng 4-1975. Nhà văn Võ Phiến nhận xét: “Bách Khoa là một tạp chí dung hòa rộng rãi mọi khuynh hướng. Không có chủ trương ‘văn nghệ cách mạng’ cũng không chủ trương ‘vượt thời gian’, nó đăng bài của các lão thi sĩ tiền bối Đông Hồ, Quách Tấn, Vũ Hoàng Chương lẫn truyện Thanh Tâm Tuyền, Trùng Dương… Về mặt chính trị, sức dung hòa của nó khiến có lần Nguyên Sa nói đùa: Bách Khoa là một vùng xôi đậu. Nó đón nhận cả Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Vũ Hạnh lẫn Võ Phiến, Vũ Bảo…” (6). Nguyễn Hiến Lê ghi nhận: “Trong lịch sử báo chí của nước nhà, tờ Bách Khoa có một vị trí đặc biệt. Không nhận trợ cấp của chính quyền, không ủng hộ chính quyền mà sống được mười tám năm, từ 1957 đến 1975, bằng tờ Nam Phong, có uy tín, tập hợp được nhiều cây bút giá trị như tờ Nam Phong, trước sau các cộng tác viên được khoảng một trăm…” (7).

Phổ Thông là tờ bán nguyệt san, cơ quan thi ca của Tao đàn Bạch Nga do nhà văn Nguyễn Vỹ làm giám đốc kiêm chủ bút. Xuất bản lần đầu ở Đà Lạt năm 1952, tục bản ở Sài Gòn vào tháng 11-1968 và sống đến năm 1974.

Tạp chí Sáng Tạo của nhà văn Mai Thảo, chủ trương một “nền nghệ thuật mới”, “nghệ thuật hôm nay”, số 1 ra đời vào tháng 10-1956, kéo dài đến tháng 12-1958. Đa số cây bút xuất hiện ở đây là những người viết cho tờ Lửa ViệtNgười Việt của một nhóm sinh viên miền Bắc di cư do Doãn Quốc Sỹ và Trần Thanh Hiệp phụ trách. Bộ mới tiếp tục xuất hiện cho đến tháng 3-1962 thì ngừng hẳn.

Văn Hóa Á Châu, cơ quan phát huy văn hóa dân tộc của Hội Việt Nam Nghiên cứu liên lạc Văn hóa Á châu, chủ nhiệm GS Nguyễn Ðăng Thục, thư ký tòa soạn Lê Xuân Khoa, số 1 ra mắt tháng 10-1958. Bộ mới do GS Lê Thành Trị làm chủ bút, Trịnh Viết Thành làm thư ký tòa soạn, xuất bản số 1 năm 1961, đình bản cùng năm 1961.

Văn Hóa Ngày Nay do nhà văn Nhất Linh chủ trương, có hình thức giai phẩm, ra mắt ngày 17-6-1958, tiếp đó là Tân Phong, giai phẩm văn nghệ do Trương Bảo Sơn làm chủ nhiệm và Nguyễn Thị Vinh làm chủ bút, được xem là sự tiếp nối truyền thống văn chương của Văn Hóa Ngày Nay và nhóm Tự Lực văn đoàn, ra mắt tháng 8-1959 và số cuối vào tháng 8-1960. Sau đó hai nhà văn này còn làm tờ Đông Phương, số 1 ra ngày 1-6-1965.

Nguyệt san Văn Hữu của Văn hóa Vụ thuộc Bộ Thông tin, chủ nhiệm Nguyễn Duy Miễn, chủ bút Nguyễn Mạnh Côn, thư ký tòa soạn Sĩ Trung. Tờ báo nhằm mục đích phát huy văn hóa dân tộc, phổ biến chủ trương đường lối của chính phủ, ra mắt số 1 vào tháng 6-1959, số cuối vào năm 1963.

Quê Hương, nguyệt san nghiên cứu chính trị, văn hóa, xã hội, sáng tác, số 1 ra tháng 7-1959, chủ nhiệm kiêm chủ bút Hoàng Kim Dân, với sự hợp tác của nhiều cây bút tên tuổi.

Thời Nay, “thế giới dưới mắt người Việt” do Nguyễn Văn Thái làm chủ bút, Khánh Giang làm tổng thư ký tòa soạn, ra đời năm 1959.

Văn Nghệ Tiền Phong ra đời năm 1959, số cuối năm 1975 do Nguyễn Thanh Hoàng chủ trương, Tử Vi Lang làm tổng thư ký tòa soạn. Tuần báo có tính cách phổ thông, có nhiều nhà văn cộng tác.

Hiện Đại là tạp chí văn nghệ, ra mắt số 1 vào tháng 2-1960 do Nguyên Sa chủ trương và Thanh Nam lo bài vở, biên tập. Tạp chí sống được 9 số, kết thúc vào tháng 12-1960.

Mai, “tạp chí xây dựng xã hội văn nghệ”, chủ nhiệm Hoàng Minh Tuynh, giám đốc chính trị Huỳnh Văn Lang, thư ký tòa soạn Nguyễn Hữu Thái, ra mắt năm 1960, bộ mới từ tháng 11-1964 và đình bản ngày 1-8-1966.

Văn Đàn, tuần báo văn chương, nghệ thuật, xã hội của Tinh Việt văn đoàn, chủ nhiệm Phạm Đình Tân, tổng thư ký Nguyễn Thạch Kiên, số 1 ra ngày 4-6-1960, chấm dứt cuối năm 1963.

Thế Kỷ Hai Mươi, tập san khảo luận sáng tác phê bình văn nghệ, giám đốc Nguyễn Cao Hách, biên tập Nguyễn Khắc Hoạch, với sự góp mặt của một số giáo sư đại học và các họa sĩ, nhà văn quen thuộc. Số 1 ra mắt vào tháng 7-1960.

Văn Nghệ, tạp chí tranh đấu văn học nghệ thuật mới, ra hằng tháng, số đầu ra mắt ngày 1-2-1961, đến tháng 7-1962 đổi thành tạp chí văn học nghệ thuật ra hai tháng một số; chủ nhiệm Lý Hoàng Phong, thư ký tòa soạn Tô Thùy Yên, sau đó là Ngọc Dũng, trị sự Phí Ích Nghiễm (Dương Nghiễm Mậu). Văn Nghệ bộ mới ra mắt số 1 vào tháng 12-1963, đến tháng 2-1964 thì đình bản.

Văn Học, ban đầu là nguyệt san, từ tháng 9-1964 thành bán nguyệt san văn hóa, chính trị, xã hội, nghệ thuật. Phần văn nghệ đa dạng, cổ vũ cho một nền văn chương mới. Chủ nhiệm Phan Kim Thịnh, chủ bút Dương Kiền, ra số đầu tiên ngày 1-11-1962, ngày 1-6-1967 in khổ lớn, ngày 1-3-1969 in khổ nhỏ, số cuối ra ngày 26-3-1975.

Văn, bán nguyệt san văn chương, tư tưởng, nghệ thuật do Trần Phong Giao làm chủ nhiệm, sau đó là Nguyễn Xuân Hoàng rồi Mai Thảo, ra mắt ngày 1-1-1964, quy tụ nhiều cây bút trẻ, phát hiện nhiều tài năng, đóng góp nhiều cho sự phát triển văn chương của miền Nam. Tờ báo sống rất lâu, ra được 256 số, đến ngày 15-9-1972 phải đổi thành Giai Phẩm, số 1 từ 1-10-1972 đến số cuối ngày 26-3-1975.

Nghệ Thuật, tuần báo văn học nghệ thuật do Mai Thảo làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, Thanh Nam làm thư ký tòa soạn, sau đó là Viên Linh. Số ra mắt ngày 1-10-1965 và số cuối ngày 10-11-1966.

Hành Trình của một nhóm trí thức Công giáo cấp tiến, chủ trương một cuộc “cách mạng xã hội không Cộng sản” do Thế Nguyên phụ trách. Số ra mắt tháng 10-1964, đến tháng 12-1965 bị đình bản vì có lệnh tịch thu.

Sau khi Hành Trình bị cấm xuất bản thì Trình Bầy xuất hiện từ 10-10-1966, in roneo và không giấy phép, ra được 6 số. Sau đó bộ mới ra mắt số 1 vào ngày 1-8-1970, trở thành tạp chí văn hóa chính trị xã hội cũng do Thế Nguyên chủ trương, Diễm Châu làm tổng thư ký tòa soạn. Trang bìa số ra mắt có ghi: “Nỗ lực phát khởi một dòng văn chương cho tự do và một nền văn hóa cho hòa bình, độc lập”. Báo ra ngày 1 và 15 mỗi tháng và đình bản sau số 42 ngày 2-9-1972. Thế Nguyên viết ở số cuối cùng:“Chúng tôi cảm thấy không thể nào chấp nhận được bất cứ ý định nào nhằm buộc văn chương phải lấy việc ‘phục vụ cái đẹp’ làm bổn phận duy nhất. Chính vì lý do đó mà sau số báo này, tờ Trình Bầy sẽ đình bản” (8).

Thái Độ với chủ biên Thế Uyên, Nguyễn Tường Giang, Nguyễn Đông Ngạc, đặc san số 1 ra mắt tháng 7-1966, in ronéo được 6 số rồi ngưng. Lá thư tòa soạn số 1 viết: “Tạo một diễn đàn thuận tiện cho việc phát huy một hệ tư tưởng hay một phương thức cần thiết cho cách mạng, mục đích (hay tham vọng) của chúng tôi là vậy”. Khi có giấy phép thì ra số tháng 12-1967 bị kiểm duyệt rồi bị cắt giấy phép, nhóm tan rã.

Đất Nước, tạp chí ra hằng tháng, chủ nhiệm Nguyễn Văn Trung, chủ trương biên tập Lý Chánh Trung, thư ký tòa soạn Thế Nguyên. Số 1 ra mắt tháng 11-1967, đình bản năm 1970 với 18 số báo.

Nghiên Cứu Văn Học là nguyệt san nghiên cứu, phê bình văn học do linh mục Thanh Lãng làm chủ nhiệm, Thế Nguyên là thư ký tòa soạn. Số đầu tiên ra mắt tháng 11-1967 đến số cuối tháng 11-1968 thì ngưng hẳn.

Khởi Hành, tuần báo văn học nghệ thuật của Hội Văn nghệ sĩ quân đội do trung tá Trần Văn Trọng (nhạc sĩ Anh Việt) làm chủ nhiệm, Viên Linh làm tổng thư ký tòa soạn, ra mắt vào tháng 5-1969 và tiếp tục đến năm 1972.

Đối Diện, tờ báo ra hằng tháng của một số trí thức Công giáo có tinh thần dân tộc, chủ nhiệm LM Chân Tín, chủ bút LM Nguyễn Ngọc Lan. Số đầu tiên ra mắt tháng 7-1969. Báo đổi tên nhiều lần: Đối Diện, Đồng Dao, Đứng Dậy. Từ tháng 8-1975 Đứng Dậy được tục bản với Nguyễn Quốc Thái làm tổng thư ký, Diễm Châu làm thư ký tòa soạn; đến năm 1978 thì báo đình bản vì đã… làm xong nhiệm vụ.

Thời Tập, tạp chí văn học nghệ thuật của Hội Họa sĩ Trẻ do Viên Linh chủ trương, số 1 ra ngày 14-12-1973, số cuối ra ngày 15-4-1975, nội dung phong phú và hình thức rất nghệ thuật. Báo là sự tiếp nối của tờ Khởi Hành trước đó.

Ngoài ra còn có một số báo xuất hiện nhưng không kéo dài như Luận Đàm, Bông Lúa, Bút Hoa, Gió Nam, Gió Mới, Tin Văn, Tin Sách, Đông Phương, Văn Mới, Quần Chúng, Tập San Văn Chương, Nhà Văn… Phật giáo cũng có một số báo như Hải Triều Âm, Giữ Thơm Quê Mẹ, Thiện Mỹ, Chánh Đạo, Đất Tổ, Đuốc Tuệ, Từ Quang, Liên Hoa, Vạn Hạnh, Tư Tưởng… phổ biến tư tưởng và văn hóa Phật giáo, biên khảo văn hóa dân tộc và văn học Việt Nam. Thiên Chúa giáo cũng có nhiều báo như Nhà Chúa, Tinh Thần, Thông Cảm, Đắc Lộ, Thẳng Tiến, Việt Tiến, Tiến Hành, Ra Khơi, Dường Sống, Văn Đàn, Trách Nhiệm… Hội thánh Tin Lành có các báo Thánh Kinh, Rạng Đông, Hừng Đông Tin Lành. Hội Khổng Học có tạp chí Minh Tân, Sinh Lực…

Ngoài các báo xuất bản ở Sài Gòn, còn có nhiều báo văn nghệ ở các địa phương cũng sôi động không kém.

Ở Huế có Mùa Lúa Mới, tạp chí do Nha Thông tin Trung phần xuất bản, chủ nhiệm Võ Thu Tịnh, thư ký tòa soạn Đỗ Tấn, số đầu ra mắt năm 1955.

Văn Nghệ Mới, nguyệt san xuất bản ở Huế năm 1955 với các nhà văn Nguyễn Văn Xuân, Võ Thu Tịnh, Trần Lê Nguyễn… Huế còn có tờ Lành Mạnh của bác sĩ Lê Khắc Quyến từ năm 1956. Thập niên 1960, Huế có tờ Lập Trường của Lê Tuyên, Cao Huy Thuần, Nghiên Cứu Việt Nam, Việt Nam Việt Nam (1965) của GS Lê Văn Hảo, Hành Động của nhóm sinh viên Văn khoa Huế (1967), Việt của nhóm sinh viên Sư phạm Huế (1968). Từ năm 1970, nhóm Việt còn phụ trách phần văn nghệ cho tờ Đối Diện ở Sài Gòn.

Chim Việt, đặc san của văn đoàn ở Quảng Trị.

Cùng Khổ ra mắt ở Đà Nẵng năm 1968 với Nguyễn Phan Duy, Đoàn Minh Hải, Phương Tấn…

Nguồn do Đynh Trầm Ca chủ trương, phát hành ở Vĩnh Điện, Quảng Nam, năm 1970.

Sau Lưng Các Người, tạp chí văn học nghệ thuật xã hội, ra mắt tháng 10-1966, chủ nhiệm Nguyễn Lê Cang, thư ký tòa soạn Phương Tấn.

Trước Mặt của nhóm Phan Nhự Thức, Luân Hoán, Hà Nguyên Thạch, Phạm Cung, Nghiêu Đề chủ trương và ra mắt ở Quảng Ngãi.

Sóng, tạp chí văn học nghệ thuật ra mắt tháng 5-1971, quy tụ nhiều nhà văn thành danh ở miền Trung.

Hiện Diện xuất bản ở Tuy Hòa, số 1 tháng 12-1969 với Mang Viên Long, Trần Huiền Ân, Phan Việt Thủy…

Vỡ Đất, tập san văn chương do Nguyễn Thái Dương và Ban Bội Bổng chủ trương, ra mắt hai số năm 1975, xuất bản ở Quy Nhơn. Ở đây còn có 2 tờ khác là Nhìn MặtVận Động.

Dựng Đất ở Nha Trang với Nguyễn Âu Hồng, Lê Minh…

Thế Đứng, “đấu trường văn nghệ trẻ ý thức tự lực” ở Phan Rang do Trăng Thệ Hải chủ trương, ra mỗi 3 tháng, xuất hiện năm 1969.

Ý Thức, bán nguyệt san in ronéo khởi đầu ở Phan Rang, chủ nhiệm Nguyễn Thị Yến, tổng thư ký Nguyên Minh, ra mắt 1-10-1970, năm 1974 dời vào Sài Gòn in typo. Tiền thân Ý Thức là tờ báo Gió Mai đánh máy xuất hiện ở Huế năm 1957 với ba thành viên Lữ Kiều, Lữ Quỳnh, Ngy Hữu.

Vượt Sống ra mắt năm 1968 ở Phan Thiết, do Trần Văn Sơn chủ trương. Quê Hương cũng ra mắt ở đây với Nguyễn Bắc Sơn, Sao Trên Rừng…

Động Đất do một nhóm văn nghệ trẻ ra mắt ở Tây Ninh.

Hiện Diện tờ báo cùng tên, xuất bản ở Châu Đốc năm 1966, do Mặc Nghiệm Tường, Trần Xuân Huyên, Lưu Nhã Thụy chủ trương.

Tham Dự, tạp chí văn học nghệ thuật do Việt Chung Tử và Trần Mộng Hoàng chủ trương, xuất bản ở Vĩnh Long, từ 1970-1973, ra được 6 số.

Khơi Dòng, tạp chí của thi văn đoàn Về Nguồn ở Cần Thơ, do Lê Trúc Khanh, Huyền Vân Thanh phụ trách với sự cộng tác của nhà nhiều cây bút trẻ ở đồng bằng sông Cửu Long, ra được 5 số khổ lớn, từ 1970-1975. Ngoài ra còn có Sóng Cửu Long của nhóm Chu Tấn, Trần Kiên Thảo, Trần Hoài Thư, Lê Triều Điển…

Khai Phá ở Long Xuyên do Ngô Nguyên Nghiễm chủ trương, số 1 ra mắt tháng 4-1970 đến năm 1975.

Trừ một số tạp chí có quan điểm chính trị riêng, phần lớn các tạp chí khác chủ trương phi chính trị, thuần túy văn nghệ (tuy không tuyệt đối). Không khí chính trị luôn luôn có những cạm bẫy rình rập đáng nghi ngại: chế độ kiểm duyệt và màng lưới mật vụ luôn là những trấn áp những công dân không chịu khuất phục trước đường lối chính sách cai trị của nhà cầm quyền. Người ta đành chọn giải pháp cầu an bằng thứ văn nghệ phi chính trị, vô can với sinh mệnh xã hội lúc nào cũng như khẩn trương. Văn nghệ phi chính trị – mà có thời bị gán cho một thuộc từ không mấy dễ chịu: viễn mơ – thường lẩn tránh vai trò phát ngôn nhân của xã hội mình đang sống” (9). Tuy đứng ngoài chính trị, một số ít tạp chí vẫn bị các cơ quan thông tin (sau này gọi là Sở Phối hợp nghệ thuật) kiểm duyệt bằng cách chỉ thị cho các nhà in gỡ bỏ hoặc lật ngược chữ chì những đoạn cắt bỏ hoặc ghi chữ “tự ý đục bỏ”.

2. Hoạt động biểu diễn âm nhạc

Với dòng dõi quan lại chịu ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo, ngay từ đầu ông Ngô Đình Diệm đã không ủng hộ sự xâm nhập các khuynh hướng nghệ thuật ngoại lai có thể ảnh hưởng đến xã hội truyền thống của người Việt. Ông đã không cho hoạt động vũ trường mà trước đây từng xuất hiện trong xã hội khi người Pháp còn chiếm đóng, do đó các hoạt động biểu diễn văn nghệ thường diễn ra ở phạm vi hạn hẹp như các đài phát thanh lúc ban đầu. Sau đó âm nhạc Sài Gòn đã hình thành một thị trường âm nhạc sôi động và phát triển nhờ các phương tiện truyền thông ngày càng hiện đại, các sân khấu biểu diễn, các phòng trà, các đại nhạc hội, các hãng băng đĩa, các nhà xuất bản chuyên in ấn bản nhạc rời (Tinh Hoa, Minh Phát, An Phú…). Đến năm 1966 có thêm Đài truyền hình Sài Gòn đã tạo điều kiện để phổ biến các loại hình hoạt động văn nghệ được rộng rãi hơn. Nhìn chung, với lực lượng văn nghệ sĩ xuất thân từ nhiều nguồn khác nhau, hoạt động biểu diễn ca múa nhạc có được sự phong phú và đa dạng.

Để có hoạt động ca nhạc, ngoài lực lượng sáng tác là các nhạc sĩ còn phải kể đến lực lượng ca sĩ. Họ đến từ các tài năng ca hát ở mọi miền, của Đài phát thanh Pháp Á, các chương trình tuyển lựa ca sĩ của các đài phát thanh trung ương và địa phương, sự khám phá của các nhạc sĩ, các lớp đào tạo của các trường chuyên nghiệp, các lớp thanh nhạc tư nhân và các ông bầu với các lò đào tạo độc lập.

a) Các lò đào tạo của các nhạc sĩ: Phần lớn các lò đào tạo này xuất hiện ở Sài Gòn, thường do các nhạc sĩ đảm nhận. Chẳng hạn nhạc sĩ Nguyễn Đức có thuận lợi khi đào tạo vì chính ông có các chương trình trên Đài truyền hình số 9 là Ban thiếu nhi Sao Băng và chương trình Nguyễn Đức, cùng hai chương trình trên Đài phát thanh là Ban Việt Nhi và ban ABC. Các ca sĩ đã thành danh từ nơi này là Hoàng Oanh, Phương Hồng Loan, Phương Hoài Tâm, Phương Hồng Hạnh, Phương Hồng Quế, Phương Hồng Ngọc… Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ có đoàn ca nhạc riêng và phòng trà Maxim’s, có các ca sĩ Sơn Ca, Bùi Thiện, Họa Mi… Lớp nhạc Bảo Thu cùng với Duy Khánh có các ca sĩ Quốc Dũng, Thanh Mai, Thanh Tâm, Kim Loan… Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông với đoàn văn nghệ Hoa Tình Thương của Tổng cục Chiến tranh chính trị do nhạc sĩ Song Ngọc đứng đầu. Còn quái kiệt Tùng Lâm có chương trình đại nhạc hội và chương trình Tạp lục trên truyền hình đào tạo các ca sĩ Trang Thanh Lan, Trang Mỹ Dung, Trang Kim Yến, Chế Linh, Giang Tử… Các ông bầu thì có: Tùng Lâm ở rạp Olympic, Duy Ngọc ở rạp Trần Hưng Đạo, Ngọc Chánh với hãng băng Shotguns (10)

b) Các nhóm nhạc và ban nhạc: Ngoài những lò đào tạo nói trên còn có những ca sĩ thành danh từ các phòng trà, vũ trường (chẳng hạn phòng trà Đức Quỳnh là nơi đào tạo các ca sĩ Thu Hương, Lệ Thanh, Thanh Thúy…) và các phong trào văn nghệ học đường, phong trào kích động nhạc như Vi Vân, Julie Quang, Carol Kim, Đức Huy, Ngọc Bích, Thúy Hà Tú (Khánh Hà – Anh Tú – Tuấn Ngọc), Elvis Phương… Nhiều ca sĩ độc lập có rất nhiều như Trần Văn Trạch với nhạc hài hước, song ca Ngọc Cẩm – Nguyễn Hữu Thiết, Thúy Nga với tiếng đàn phong cầm (sau thành vợ Hoàng Thi Thơ), Bạch Yến, Tâm Vấn, Mộc Lan, Quỳnh Giao, Thanh Thúy, Hà Thanh, Minh Hiếu, Phương Dung, Ánh Tuyết, Cao Thái, Thanh Lan, Khánh Ly, Lệ Thu, Xuân Sơn, Anh Khoa, Jo Marcel, Giao Linh, Thanh Tuyền, Elvis Phương… Hoặc các nhóm tự lập như ban hợp ca Thăng Long (Phạm Đình Chương tức Hoài Bắc, Hoài Trung, Thái Hằng, Thái Thanh); ban thiếu nhi Tuổi Xanh của Kiều Hạnh (trước 1953 là của ca sĩ Minh Trang); cuối thập niên 1960 có ban Nhạc Vàng của nhạc sĩ Phó Quốc Lân, ban Tơ Vàng của Văn Phụng quy tụ những ca sĩ di cư từ đất Bắc như Duy Trác, Châu Hà, Kim Tước, Thái Thanh, Anh Ngọc, Sĩ Phú, Mai Hương…; Tiếng Thùy Dương của Châu Kỳ; ban tam ca trào phúng AVT (Anh Linh, Vân Sơn, Tuấn Đăng, sau đó là Hoàng Hải rồi Lữ Liên thay cho Anh Linh). Các ban nhạc thì có ban của Vũ Thành, ban Tiếng Tơ Đồng của Hoàng Trọng, chương trình Dạ Lan của Mai Trung Tĩnh… Hãng băng đĩa có Continental, Sơn Ca, Tân Thanh, Hương Giang, Sóng Nhạc, Asia, Việt Nam, Trường Sơn, Nhã Ca, Nhạc Trẻ, Hồn Nước, Thanh Thúy, Tơ Vàng, Shotguns… Các phòng trà và vũ trường nổi tiếng có Anh Vũ (đường Bùi Viện), Trúc Lâm (đường Ngô Tùng Châu), Văn Cảnh, Tabarin, Tự Do, Bồng Lai, Đêm Màu Hồng, Ritz, Queen Bee, Saigon By Night…

Các chủ hãng sản xuất băng nhạc bấy giờ chọn lựa kỹ lưỡng các ca sĩ phù hợp hát cho hãng của mình để tạo tên tuổi riêng. Và người nghe cũng vậy, họ chỉ chọn băng đĩa nào có ca sĩ mình yêu thích. Vô hình trung, người thưởng thức tự hình thành những tầng lớp yêu ca nhạc khác nhau:

– Băng đĩa Shotguns dành cho lớp người có trình độ thưởng thức với các ca khúc có giá trị nghệ thuật cao.

– Nhãn băng Thanh Thúy dành cho mọi tầng lớp khán thính giả.

– Nhãn băng Hồn Nước có Chế Linh, Duy Khánh, Trang Mỹ Dung, Phương Hồng Quế…

– Phục vụ thành phần thưởng ngoạn lớn tuổi, hoài cổ có băng nhạc Tơ Vàng của Văn Phụng, thường quy tụ những ca sĩ di cư từ đất Bắc với các nhạc phẩm tiền chiến và dòng ca khúc lãng mạn cùng các tác phẩm mới của những nhạc sĩ tên tuổi hiện tại.

– Tầng lớp học sinh sinh viên có nhãn hiệu Shotguns, Khánh Ly, Jo Marcel để nghe nhạc phẩm Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An, Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên, Y Vân, Phạm Thế Mỹ, Nguyễn Ánh 9…

– Giới bình dân có rất nhiều nhãn hiệu băng như Hoàng Thi Thơ, Họa Mi, Hồn Nước, Chế Linh, Âm Thanh, Trường Sơn, Nguồn Sống qua các nhạc phẩm của Châu Kỳ, Mạnh Phát, Anh Việt Thu, Đỗ Lễ, Trầm Tử Thiêng, Vinh Sử, Tú Nhi, Hàn Châu, Song Ngọc, Duy Khánh, Thanh Sơn, Y Vũ, Trần Trịnh, Tâm Anh…

– Nhạc trẻ có nhóm Trường Kỳ, Tùng Giang, Kỳ Phát đều có nhãn băng nhạc riêng, Có các cơ sở chuyên in sang nhạc nước ngoài mang nhãn Selection hay Anna.

Sự phân chia tác phẩm ca nhạc theo sở thích của người nghe cũng như sự xếp đặt ngôi thứ rõ ràng của các ca sĩ là đặc tính của thế giới ca nhạc miền Nam ngày trước.

3. Hoạt động sáng tác âm nhạc

Ở miền Nam từ giữa thập niên 1950 cho đến ngày 30-4-1975, nhiều khuynh hướng âm nhạc phát triển trong một bối cảnh lịch sử – xã hội đầy biến động. Ngoài sự có mặt của khuynh hướng lãng mạn và trữ tình vốn khởi đi từ những ca khúc tiền chiến và còn tiếp tục lưu giữ sau đó trong các hoạt động biểu diễn, âm nhạc miền Nam ngày càng biểu hiện rõ nét tâm tư của một thế hệ sinh ra trong chiến tranh. Giữa thập niên 1960 cũng là thời gian chiến tranh phát triển một bước mới với sự có mặt của quân Mỹ và bộ máy cầm quyền luôn thay đổi. Chiến tranh leo thang, đất nước tang tóc, dân tình khổ nhục, cảnh chết chóc ai oán…, tất cả đã tạo nên một bộ mặt xã hội bi thương. Các phong trào đấu tranh của quần chúng liên tiếp xảy ra đã làm phân hóa rõ rệt tư tưởng và hành động của cả một thế hệ, ảnh hưởng trực tiếp lên nguồn cảm hứng nghệ thuật của các văn nghệ sĩ. Đời sống nghệ thuật nói chung và âm nhạc nói riêng đã biểu hiện khá rõ tâm tư và mơ ước của lớp thanh niên đầy dằn vặt trước vận nước điêu linh.

Trong cái đa dạng, phức tạp và xáo động của cảm hứng sáng tạo âm nhạc, có thể nhận ra diện mạo của một số khuynh hướng nổi bật trong sáng tác ca khúc, xuất phát từ quan điểm tư tưởng và vị trí xã hội của người nhạc sĩ trong bối cảnh lịch sử mà họ gắn bó. Trong số các khuynh hướng sáng tác, có thể có một số khuynh hướng được đẩy mạnh thành phong trào, có dấu ấn rõ nét trong đời sống xã hội, thường thay đổi qua các chặng thời gian khác nhau. Bên cạnh đó có một số loại hình âm nhạc phục vụ các đối tượng riêng biệt trong xã hội với nội dung và hình thức khác nhau.

Có thể tóm lược ba đặc điểm chung của các khuynh hướng sáng tác âm nhạc của miền Nam như sau:

Về mặt nghệ thuật sáng tác, các nhạc sĩ vẫn tiếp nối truyền thống nhạc bán cổ điển Tây phương đã được sử dụng thành công trong giai đoạn hình thành nền tân nhạc trước đó. Trong ca khúc họ sử dụng các yếu tố nhạc tính Tây phương, kết hợp thang âm bình quân luật và thang âm ngũ cung Việt Nam, vẫn trung thành với kết cấu, khúc thức, hình thức âm nhạc (hai đoạn, ba đoạn…) với tiết tấu rõ ràng; vẫn phát triển và tiến hành giai điệu với nhiều mô phỏng để dễ nhớ, dễ thuộc; vẫn sử dụng hòa âm cổ điển ít phá cách hoặc cách tân. Về nhịp điệu các nhạc sĩ du nhập nhiều điệu nhạc nhảy từ các nước Tây phương, Nam Mỹ như jazz, fox, fox trot, march, swing, slow, slow rock, blues, tango, valse, boston, bolero, rumba, mambo, samba, cha cha cha, pasodoble, bebop, twist, pop, rock-and-roll…

Bên cạnh sự tiếp thu nghệ thuật âm nhạc phương Tây, các nhạc sĩ vẫn không quên bảo tồn và phát triển dòng nhạc dân tộc. Đó là cái nôi nuôi dưỡng tâm hồn để xây dựng ngôn ngữ âm nhạc nước nhà. Một số nhà nghiên cứu âm nhạc và nhạc sĩ tìm tòi và lưu giữ kho tàng di sản âm nhạc từ bao đời nay của cha ông và tìm ra trong đó những giá trị học thuật làm nền tảng tri thức để phát triển cá tính sáng tạo và ngôn ngữ âm nhạc đặc thù của riêng mình. Rất nhiều nhạc sĩ học hỏi từ vốn liếng âm nhạc dân tộc để đưa vào sáng tác của mình những giai điệu mượt mà thể hiện nét đẹp tâm hồn và cuộc sống dân tộc.

Nếu ở giai đoạn bước đầu hình thành nền tân nhạc Việt Nam có sự nổi trội của dòng âm nhạc lãng mạn và dòng nhạc kháng chiến chống Pháp thì trong giai đoạn này, với sự phân ly đất nước, miền Nam có điều kiện mới về lịch sử và xã hội để có thể hình thành những khuynh hướng sáng tác đa dạng và phong phú, làm giàu cho nền âm nhạc nước nhà. Ngoài hai dòng nhạc vừa kể vẫn còn được tiếp tục thể hiện trong sinh hoạt ca nhạc ở miền Nam, ta còn nhận ra trong giai đoạn này có sự xuất hiện các bài hát viết về người lính; các bài hát lãng mạn trữ tình; các bài tình ca quê hương; tình ca đôi lứa; nhạc sinh hoạt cộng đồng; truyện ca và trường ca; nhạc hùng ca; nhạc trẻ; nhạc phản chiến; các bài tâm ca và đạo ca; phong trào du ca; nhạc sinh viên tranh đấu; nhạc thiếu nhi và sinh hoạt cộng đồng…

Dĩ nhiên những khuynh hướng âm nhạc nêu trên không hẳn phát triển độc lập mà phát triển song song và còn có thể tác động qua lại. Bên cạnh những dị biệt đặc trưng, một vài khuynh hướng còn gặp nhau ở một vài nét tương đồng do cùng sinh ra và lấy cảm hứng từ một bối cảnh lịch sử chung, một hoàn cảnh xã hội nhất định. Tuy nhiên chính tư tưởng nghệ thuật, quan điểm sáng tác là cơ sở để hình thành khuynh hướng có hiệu quả tác động vào xã hội rất lớn. Vai trò âm nhạc trong những biến động lịch sử được khẳng định hơn bao giờ hết. Âm nhạc miền Nam có thể xem như cuốn nhật ký tập thể, cuốn biên niên sử tình cảm của con người miền Nam, qua đó ta có thể thấy được đời sống xã hội, hiểu được tình cảm, tâm tư và khát vọng của họ trong giai đoạn 1954-1975.

_______

CHÚ THÍCH:

(1) Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên, Nha Thống kê, năm học 1973-1974, trích dẫn từ Hồ Hữu Nhật, Lịch sử giáo dục Sài Gòn-TP.HCM, NXB Trẻ, 1999, tr. 125.

(2)http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a

(3) “Triết học hiện sinh đã xuất hiện rầm rộ, gần như tiếng sóng vang động cả trời đất, lay động xã hội Tây phương cách mạnh mẽ như chưa từng thấy trong lịch sử… Ðiểm son của nó là đã tạo nên được cả một phong trào rộng lớn và sôi nổi trong giới văn học”(Trần Thái Đỉnh, Triết học hiện sinh, NXB Thời Mới, Sài Gòn, 1967, tr.7). Ở VN, tuy không vang động như thế nhưng đã có ảnh hưởng rõ rệt.

(4) Huỳnh Như Phương, Những nguồn cảm hứng trong văn học, NXB Văn Nghệ, TP.HCM, 2008, tr.172.

(5) Từ “trí thức” được nhìn dưới nhãn quan cá nhân khác nhau. Xin thử đọc một định nghĩa trong số đó: “Thế nào là một người trí thức? Là những người đã được gọi, được chọn lựa, nhận trách nhiệm, có những thao thức trăn trở để trở thành tiếng nói của lương tâm thời đại, tiếng nói của lẽ phải. Tuân theo những điều xác tín đó, theo đuổi lý tưởng đó, họ lên tiếng phản kháng những bất công, những chà đạp lên con người. Khi một người lên tiếng, đó cũng là một hy vọng, thắp sáng một căn nhà tối tăm. Khi một người lên tiếng, sẽ giúp xóa bớt nỗi sợ canh cánh bên lòng mỗi người. Khi một người theo đuổi cuộc chiến đấu chống lại tất cả những áp bức đang đè nặng lên xã hội, gửi đi những thông điệp có chiều kích nhân loại, nói lên tình người và lòng tin tưởng không gì lay chuyển được vào điều thiện, điều đó đem lại một ý nghĩa cho đời sống. Ta gọi những người đó là trí thức” (Nguyễn Văn Lục, Trí thức miền Nam – Hai mươi năm nhập cuộc (1955-1975) (http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=5101&rb=0401).

(6) Nguyễn Vy Khanh, Văn học miền Nam 1954-1975, Nguyễn Publishings, Toronto, 2016, tr. 506.

(7) Nguyễn Vy Khanh, sđd, trang 506.

(8) Nguyễn Vy Khanh, sđd, trang 538.

(9) Phố Tịnh, Phạm Duy – người nghệ sĩ tự do, (talawas.org/talaDB/showFile.php?res=2959&rb=0206)

(10) Thiên Việt, Ca nhạc sĩ Sài Gòn trước 1975, http://hoiquanphidung.com/showthread.php?3784-Ca-Nh%E1%BA%A1c-S%C4%A9-c%E1%BB%A7a-Saigon-tr%C6%B0%E1%BB%9Bc-1975

(Còn tiếp)

Comments are closed.