Thuật ngữ chính trị (101)

Phạm Nguyên Trường

322. Incomes Policy – Chính sách thu nhập. Chính sách thu nhập là chính sách kiểm soát tiền công và giá hàng hóa, với mục đích chính là kiềm chế lạm phát. Chính sách này sử dụng nhiều loại công cụ, từ những công cụ cứng rắn như giá, lương, những chỉ dẫn chung để ấn định tiền công và giá, những quy tắc pháp lý nhằm ngăn chặm thay đổi giá và tiền công, đến những công cụ mềm dẻo hơn như hướng dẫn khuyến khích bằng thuế thu nhập. Nhiều chính phủ, trong nhiều giai đoạn khác nhau đã thi hành những chính sách thu nhập nhằm kiềm chế là phát, nhưng thành công thì ít mà thất bại thì nhiều và thành công, nếu có, cũng chỉ trong ngắn hạn. Muốn kiềm chế lạm phát thì cần kiềm chế việc tăng cung tiền và chi tiêu của chính phủ.

323. Incrementalism – Thay đổi từng bước một. Thay đổi từng bước một là mô hình của quá trình ban hành quyết định trong chính phủ, khẳng định rằng quyết định thường được ban hành trên cơ sở những điều chính tương đối nhỏ. Mô hình này do Charles Lindblom (1917-2018) đưa ra trong bài báo xuất bản năm 1959. Mô hình thay đổi từng bước một nói rằng những người làm chính sách bắt đầu quá trình ban hành chính sách không phải với mục tiêu lí tưởng ở trong đầu, mà bắt đầu từ những chính sách hiện hành. Chỉ có một số lựa chọn được xem xét và thay đổi thường diễn ra ở bên lề.

324. Individualism – Chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân chính trị – thường có nghĩa, tuy không chỉ có nghĩa – là niềm tin vào việc bảo vệ các quyền của cá nhân nhằm chống lại sự xâm phạm của nhà nước hay quyền lực chính trị nào đó.

Chủ nghĩa cá nhân là thuật ngữ được sử dụng nhằm mô tả một cách nhìn nhận trên phương diện xã hội, chính trị hoặc đạo đức trong đó nhấn mạnh đến lợi ích của mỗi cá nhân, sự độc lập của con người và tầm quan trọng của tự do và tự lực của mỗi cá nhân. Những người theo chủ nghĩa cá nhân chủ trương không hạn chế mục đích và ham muốn cá nhân. Họ phản đối sự can thiệp từ bên ngoài vào lựa chọn của cá nhân – cho dù sự can thiệp đó là của xã hội, nhà nước, hoặc bất kỳ một nhóm hay một thể chế nào khác. Chủ nghĩa cá nhân do vậy đối lập với chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa cộng đồng, và chủ nghĩa công xã, tức là đối lập với những chủ thuyết nhấn mạnh đến việc công xã, nhóm, xã hội, chủng tộc, hoặc các mục đích quốc gia cần được đặt ưu tiên cao hơn các mục đích của cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân cũng đối lập với quan điểm truyền thống, tôn giáo, tức đối lập với bất cứ quan niệm nào cho rằng cần sử dụng các chuẩn mực đạo đức hay luân lý ở bên ngoài, khách thể, nhằm hạn chế sự lựa chọn hành động của cá nhân.

Chủ nghĩa cá nhân có mối quan hệ phức tạp với chủ nghĩa vị kỷ (hiểu đơn giản là ích kỷ). Mặc dù một số người xiển dương cá nhân chủ nghĩa cũng là những người vị kỉ. Họ khẳng định rằng các cá nhân không có trách nhiệm ràng buộc nào đối với các áp đặt của xã hội (đạo đức); họ quan niệm rằng các cá nhân cần được tự do lựa chọn theo đuổi cách sống ích kỷ cũng như bất kỳ cách sống nào khác phù hợp với mong muốn của mình.

Trong triết học chính trị, học thuyết cá nhân về nhà nước quan niệm rằng nhà nước cần giữ vai trò bảo vệ quyền tự do hành động của mỗi cá nhân theo đúng mong muốn của cá nhân đó chừng nào mà quyền tự do đó không động chạm đến quyền tự do của các cá nhân khác. Điều này đối lập với các học thuyết tập thể về chính trị, mà theo các học thuyết này thay vì để cá nhân theo đuổi mục đích của bản thân họ thì nhà nước đảm bảo cá nhân phục vụ cho quyền lợi chung của xã hội.

Trên thực tế, những người theo chủ nghĩa cá nhân chủ yếu quan tâm tới việc bảo vệ sự tự trị của mỗi cá nhân trước những ràng buộc của các thể chế xã hội (như nhà nước) áp đặt lên. Nhiều người theo chủ nghĩa cá nhân đặc biệt chú ý đến việc bảo vệ quyền tự do của thiểu số trước mong muốn của đa số và xem mỗi cá nhân là thiểu số nhỏ nhất.

Ở Việt Nam, chủ nghĩa cá nhân thường được hiểu theo nghĩa tiêu cực và bị lên án trong một thời gian dài.

Comments are closed.