Tư liệu thảo luận 1955 về tập thơ “Việt Bắc” (2)

Lại Nguyên Ân

sưu tầm và biên soạn

 

3. XUÂN TRƯỜNG

Vài ý nghĩ sau khi đọc tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu


Trong thời kỳ cách mạng chưa thành công, chế độ thực dân còn chà đạp lên đời sống của nhân dân ta, bóp nghẹt tâm hồn của chúng ta, thơ Tố Hữu đã có tác dụng làm ấm lòng người đọc, bồi dưỡng lòng yêu Tổ quốc của quần chúng, khuyến khích người cán bộ nằm trong nhà tù giữ vững lòng tin đối với tiền đồ vẻ vang của dân tộc. Tập thơ Việt Bắc chủ yếu gồm những bài thơ sáng tác trong thời kỳ kháng chiến từ sau thu đông thắng lợi 1947, những bài thơ đã làm ấm lòng của chúng ta; và một số bài thơ sáng tác sau khi hòa bình thắng lợi những bài thơ này cũng đã có tác dụng giáo dục, cổ vũ cán bộ và nhân dân. Tập thơ Việt Bắc vừa mới ra chưa được 2 tháng, con số phát hành đã lên gần 3 vạn quyển. Chưa có một quyển sách nào phát hành nhiều như thế trong một thời gian ngắn.
Ở đây tôi không giới thiệu toàn quyển và đi sâu vào tập thơ Việt Bắc. Tôi chỉ trình bày một vài ý nghĩ đầu tiên khi đọc lại những bài thơ trong tập thơ này.
Có thể nói chủ đề bao trùm tập thơ Việt Bắc là tinh thần thiết tha yêu nước, chí khí phấn đấu kiên quyết bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Hình ảnh tiêu biểu cho tinh thần đó là Hồ Chủ tịch, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, linh hồn của kháng chiến và anh bộ đội anh dũng, thân mến, nổi nhất trong tập thơ Việt Bắc. Tố Hữu đã để cả tâm hồn, tất cả tình cảm đằm thắm nhất của mình để diễn tả những hình ảnh yêu kính và quý mến nhất ấy của thời đại chúng ta.
Ðối với anh bộ đội, chỉ "gần nhau là thân thiết", chỉ "một thoáng lặng nhìn nhau" là "âm thầm thương mến". Trong đời sống bình dị của người nông dân Việt Nam có phút nào yêu nhau say sưa bằng chia cho nhau điếu thuốc lào:
Trưa nay trên đèo cao
Ta say sưa vài phút!
Chia nhau điếu thuốc lào
Nào anh hút tôi hút
Rồi lát nữa chia đôi
Anh về xuôi tôi ngược
Lòng anh và lòng tôi
Mang nặng tình cá nước

Tố Hữu thông cảm với anh bộ đội không phải chỉ qua bộ quần áo nâu. Tố Hữu thông cảm qua sức lao động của con người.
Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Anh Vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế!

Tố Hữu đã từng mặc áo bộ đội, vai nặng ba lô, chân đạp rừng gai đá sắc, trèo đèo lội suối, cùng ăn cơm vắt thấm nước, dãi gió nằm sương với anh bộ đội. Nên Tố Hữu là nhà thơ thông cảm mãnh liệt đối với sức lao động ấy một khi nó dốc ra mặt trận đánh đổ quân thù. Xúc động biết bao khi đọc những đoạn thơ Tố Hữu để tình cảm của mình rung lên những nhạc điệu, những ý thơ hùng dũng:
Hoan hô chiến sĩ Ðiện Biên
Chiến sĩ anh hùng
Ðầu nung lửa sắt
Năm mươi sáu ngày đêm

khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt

Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn
Những đồng chí thân chôn làm giá súng
Ðầu bịt lỗ chân mai
Băng mình qua núi thép gai
ào ào vũ bão
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo
Nát thân, nhắm mắt còn ôm
Những bàn tay xẻ núi, lăn bom
Nhất định mở đường cho xe ta lên chiến trường tiếp viện

Trong tập thơ Việt Bắc ngoài hình ảnh anh bộ đội, những hình ảnh bà mẹ, em thiếu nhi, chị phụ nữ cũng nổi lên đầy tình mến thương của nhà thơ. Nhưng Tố Hữu tha thiết yêu anh bộ đội, Tố Hữu không muốn tình yêu ấy bị chia xẻ. Tố Hữu muốn đặt tất cả những hình ảnh trong một cảm xúc chung đối với người chiến sĩ. Những bà mẹ trong thơ Tố Hữu là những bà mẹ của chiến sĩ, giản dị như cánh đồng quê, thiết tha yêu con nhưng lại yêu nước hơn. Em thiếu nhi trong thơ Tố Hữu là chiến sĩ nhỏ tuổi, tâm hồn em hồn nhiên, nhưng lòng em thấm sâu tình yêu nước, em là những chú "đồng chí nhỏ" làm nhiệm vụ giao thông vượt qua mặt trận, không sợ đạn của giặc, không sợ hiểm nghèo. Những chị phụ nữ trong thơ Tố Hữu là những chị dân công dù con bế con bồng "em cũng theo chồng đi phá đường quan", những chị ngày đêm ra tiền tuyến phục vụ chiến trường. Có những lúc tình cảm của Tố Hữu đi ra ngoài biên giới, nhớ tới em bé Triều Tiên, nhân dân Triều Tiên đang anh dũng chiến đấu. Tố Hữu yêu em bé Triều Tiên và em bé Triều Tiên trong thơ Tố Hữu là con của người dân công tải đạn, con của người nữ cứu thương, con của anh bộ đội "mặt đen khói đạn, chặn đường giặc lui".
Tố Hữu để hết tấm lòng yêu nước, yêu Ðảng, yêu dân vào một người, người anh hùng kiệt xuất, người lãnh tụ vĩ đại của dân tộc và của Ðảng: Hồ Chủ tịch. Trong bài "Sáng tháng Năm", hình ảnh Hồ Chủ tịch là hình ảnh của người cha thân yêu và hiền từ, là hình ảnh chói lọi làm "trong sáng lòng anh xung kích", làm "vững tay người chiến sĩ nông thôn", vững tay anh công nhân quốc phòng, em học sinh đốt đuốc đến trường làng và "các chị dân công mòn đêm vận tải".
Lãnh tụ của chúng ta vĩ đại, vì Người là biểu hiện tập trung nhất những đức tính cao quý của dân tộc. Tố Hữu ca tụng lãnh tụ qua tình cảm của quần chúng đối với lãnh tụ.
Giọng của Người không phải sấm trên cao
Thấm từng tiếng, ấm vào lòng mong ước
… Người là Cha là Bác là Anh
Quả tim lớn lọc trăm giòng máu nhỏ

Qua những bài thơ ca tụng lãnh tụ, Tố Hữu đã tăng cường lòng tin của nhân dân đối với sự nghiệp của dân tộc dưới lá cờ vinh quang của Hồ Chủ tịch.
Ngoài bài "Sáng tháng Năm", trong những bài thơ khác cũng như hình ảnh người chiến sĩ, hình ảnh của Hồ Chủ tịch vĩ đại bao giờ cũng là hình ảnh tươi sáng nhất, bao trùm tất cả.
Ðiều làm người đọc thông cảm nhất với hình ảnh những người con yêu quý của nhân dân ta trong thơ Tố Hữu là những hình ảnh ấy gắn chặt với đất nước, dân tộc, quê hương. Ðây chính là phần mà thơ Tố Hữu hấp dẫn bạn đọc nhiều nhất, nâng cao tình cảm của chúng ta nhiều nhất. Và đây cũng chính là phần sáng tác tươi nhất trong tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Ðọc thơ Tố Hữu, chúng ta càng tin tưởng nhân dân ta anh hùng, đất nước ta đẹp đẽ, quê hương ta đầm ấm.
Hình ảnh vĩ đại của Hồ Chủ tịch là hình ảnh rộng lớn của đất nước:
Bác ngồi đó lớn mênh mông
Trời xanh biển rộng ruộng đồng nước non

Bên cạnh hình ảnh bộ đội gặp nhau lưng đèo Nhe là:
Cánh đồng quê tháng mười
Thơm nức mùa gặt hái
Người chiến sĩ trên chiến trường Tây Bắc
Mỗi bước, vàng theo đồng lúa chín
Lửa vui từng mái nứa tươi xanh

Và còn cảnh nào đẹp hơn khi chiến sĩ chiến thắng trở về:
Anh về cối lại vang rừng
Chim reo quanh mái, gà mừng dưới sân
Anh về sáo lại ái ân
Ðêm trăng hò hẹn trong ngần tiếng ca

Em Lượm, em bé giao thông anh dũng hy sinh vì nhiệm vụ, thi sĩ lặng người lại trước "một giòng máu tươi", nhưng em Lượm hy sinh mà em Lượm không chết. Tố Hữu đặt em Lượm nằm trên cánh đồng lúa vàng rượi, tượng trưng cho lẽ sống:
Cháu nằm trên lúa
Tay nắm chặt bông
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng

Người chiến sĩ anh dũng tuyệt vời của chúng ta ở trên chiến trường một khi ngã xuống:
Máu của anh chị, của chúng ta, không uổng
Sẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam
Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam
Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng

Ðất nước và con người, cảnh và người đối với Tố Hữu không thể xa rời, nhưng đất nước tốt đẹp là do người làm nên, cảnh vật vui tươi cũng là do người quyết định. Ðối với Tố Hữu cảnh vật đất nước của chúng ta bao giờ cũng vui cũng tươi cũng đẹp và cái vui tươi trong thơ Tố Hữu bao giờ cũng biểu hiện một lòng tin vững chắc ở tương lai, vì nhân dân chúng ta chiến đấu ngày nay đã nhìn thấy thắng lợi ngày mai. Tinh thần lạc quan cách mạng tươi sáng ấy xuất phát từ lòng thiết tha yêu nước và lòng tin tưởng ở quần chúng đã tác động mãnh liệt đến người đọc.
Trước cảnh chết, "Giữa thành phố trụi," thi sĩ nhìn thấy mầm sống, thấy sức mạnh, sức mạnh ấy bản thân cảnh vật không có, mà do chúng ta xây dựng nên:
Bàn tay đã nắm lời thề
Ra đi quyết phá, ngày về sẽ xây
Từ trong đổ nát hôm nay
Ngày mai đã đến từng giây từng giờ

Bài thơ "Ta đi tới" đã diễn tả nhân dân vui sướng, quang cảnh tưng bừng của hoà bình, của thắng lợi vĩ đại sau 8, 9 năm kháng chiến. Cảnh và người hoạt động sau thắng lợi của hoà bình ăn nhịp với nhau, con người của chúng ta anh dũng, đất nước của chúng ta đẹp đẽ vô cùng. Cảm xúc của Tố Hữu rạt rào trên rừng cọ, đồi chè, bến đò, trên những cánh đồng phì nhiêu bát ngát, cảm xúc của Tố Hữu vào tận đáy lòng của mỗi người. Vui quá, thi sĩ như muốn nhảy lên, ôm lấy mọi người, hát lên tiếng hát thắng lợi, nói lên tiếng nói của mỗi dân tộc anh hùng.
Nhưng còn nửa nước ta chưa giải phóng. Trong nỗi vui mừng của thi sĩ sáng lên lòng tin tưởng ở sự thống nhất nước nhà:
Dù ai nói ngả nói nghiêng,
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân
Dù ai rào rậu ngăn sân
Lòng ta vẫn giữ là dân Cụ Hồ
Sáng lên sức mạnh của dân tộc ta:
Ta đi tới trên đường ta bước tiếp
Rắn như thép, vững như đồng
Ðội ngũ ta trùng trùng điệp điệp
Cao như núi, dài như sông
Chỉ ta lớn như biển Ðông trước mặt!

Cảm xúc của Tố Hữu đối với những con người, đối với đất nước, Tổ quốc quê hương còn đằm thắm hơn một khi nó biểu hiện lên như tình yêu vợ chồng, tình mẹ con.
Ðối với anh bộ đội ra tiền tuyến xa xôi "yêu bầm, yêu nước, cả đôi mẹ hiền".
Việt Bắc là nơi chôn rau cắt rốn của cách mạng, là căn cứ địa của kháng chiến. Hòa bình trở lại, Chính phủ, Trung ương Ðảng về Hà Nội. Mỗi người chúng ta đều nhớ Việt Bắc, nhớ những bà mẹ, những người chị đã nuôi nấng chúng ta, nhớ anh du kích đã dẫn đường cho chúng ta, nhớ núi rừng đã giúp ta chặn tay giặc, nhớ suối, nhớ nương, nhớ rẫy, nhớ những bãi rừng xanh hoa chuối đỏ tươi, những ngày xuân hoa mai nở trắng. Nỗi nhớ nhung ấy đối với Tố Hữu âu yếm lạ lùng. Trong những lời nhắn nhủ say tình của bài "Việt Bắc", chúng ta không còn phân biệt Việt Bắc và Tố Hữu, tiếng nói của Việt Bắc và của Tố Hữu là của hai người, nhưng nó lại nằm trong một người. Và thắm thiết gì hơn khi nỗi nhớ nhung ấy biến thành nỗi nhớ nhung của đôi trai gái yêu nhau hàng chục năm ròng mà phải xa cách!
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu
Nhớ gì như nhớ người yêu

Tố Hữu, nhà thơ của chúng ta, đưa tình yêu vào trong thơ để nói lên lòng yêu chân thành đối với Tổ quốc với đất nước. Tình yêu đối với Tố Hữu cũng như đối với tất cả những người chiến sĩ cách mạng không phải là mục đích mà nó là động cơ cách mạng. Nói đến tình yêu trong tập thơ Việt Bắc, chúng ta không quên nhắc đến những bài thơ dịch của Tố Hữu "Ðợi anh về", "A-lê-sa nhớ chăng" (của Ximô-nôp). Tố Hữu cảm thông với thi sĩ Ximô-nôp và đồng thời giới thiệu với chúng ta những tình yêu cách mạng. Con người cách mạng là con người xúc cảm nhất, con người biết yêu đằm thắm và cũng biết cách giữ gìn và bảo vệ tình yêu ấy, tình yêu ấy là động cơ thúc đẩy chúng ta thêm mạnh trên đường chiến đấu bền bỉ và lâu dài.
Bộ đội, cán bộ nhân dân thích đọc thơ Tố Hữu, nhớ thơ Tố Hữu, vì thơ Tố Hữu đã nói lên khá mãnh liệt tình yêu quê hương, yêu đất nước, yêu Tổ quốc, khêu gợi trong lòng chúng ta sức tin tưởng ở chúng ta, ở những con người lao động đã chiến đấu, sản xuất và đang xây dựng, bồi dưỡng thêm tinh thần lạc quan cách mạng của chúng ta của nhân dân ta, vì thơ Tố Hữu đã hun đúc thêm chí căm thù, nâng cao chí khí chiến đấu của chúng ta quyết tâm bảo vệ quê hương và đất nước.
Nhưng đọc tập thơ Việt Bắc, chúng ta chưa thỏa mãn. Tuy ca tụng người chiến sĩ bộ đội là Tố Hữu đã ca tụng người nông dân, tình cảm, sức mạnh của người chiến sĩ trong thơ Tố Hữu là tình cảm, sức mạnh của người nông dân, những bà mẹ, những người chị, người vợ trong thơ Tố Hữu là những nông dân lao động, nhưng chúng ta muốn những người nông dân lao động sản xuất ở hậu phương được nêu cụ thể hơn. Trong tập thơ Việt Bắc, hình ảnh người nông dân sản xuất bị mờ đi trong những tình cảm chung ca tụng đất nước, quê hương. Tuy trong tất cả những bài thơ của Tố Hữu đã nói lên tư tưởng của giai cấp công nhân, đường lối chỉ đạo của Ðảng, ca tụng Hồ Chủ tịch, nhưng như vậy vẫn chưa đủ, chúng ta muốn hình ảnh Ðảng tiên phong của dân tộc, người công nhân được nêu cụ thể hơn, đầy đủ hơn, chúng ta rất tiếc rằng Tố Hữu chưa nói lên hộ lòng biết ơn, sức tin tưởng của hàng chục triệu con người đảng viên và quần chúng đối với Ðảng tiên phong của giai cấp công nhân, Tố Hữu chưa ghi lại cho chúng ta hình ảnh của người công nhân trên các ngành hoạt động luôn luôn nêu cao chí khí phấn đấu, khắc phục khó khăn, chưa ghi lại cho chúng ta hình ảnh người nông dân đã vươn mình dậy đánh đổ thế lực của giai cấp địa chủ. Chống đế quốc và chống phong kiến là hai nhiệm vụ không thể tách rời trong cuộc đấu tranh của nhân dân ta. Trong cuộc đấu tranh chống phong kiến hiện nay của hàng triệu nông dân đang diễn ra gay go ở nông thôn, chúng ta hy vọng ở Tố Hữu những bài thơ nói lên khí thế của nông dân, cũng như Tố Hữu đã ca tụng khí thế của người chiến sĩ ngoài mặt trận.
Thời đại của chúng ta đẹp đẽ vô cùng, sinh hoạt hàng ngày của quần chúng muôn màu muôn vẻ, tình cảm của quần chúng thật dồi dào và chúng ta đang ở trong một thời đại biến chuyển dồn dập. Những màu sắc ấy, những tình cảm ấy Tố Hữu đã cố ghi lại một phần nào nhưng những màu sắc và tình cảm ấy ở một số bài thơ trong tập thơ Việt Bắc chưa được thể hiện cụ thể. Bài "Ðời đời nhớ Ông" mới nói lên những tình cảm chung, nó chưa đi vào tình cảm, hành động cụ thể của nhân dân, nó chưa biểu hiện lên được lực lượng của quần chúng trong sự đau xót xé ruột xé gan khi nghe Sta-lin mất. Hòa bình lập lại, sung sướng nhất là những người lao động sản xuất, những người nông dân vùng tự do cũ cũng như vùng mới giải phóng. Nỗi sung sướng ấy nói lên chưa được hả dạ trong bài "Ta đi tới". Hà Nội sống tủi nhục dưới ách thực dân và phong kiến, tinh thần chiến đấu, chịu đựng của nhân dân Hà Nội, tinh thần quật khởi của công nhân thủ đô đáng lẽ phải được nói lên đầy đủ hơn, rõ ràng hơn trong một bài thơ như bài "Lại về"…
Những bài thơ đăng trong tập thơ Việt Bắc đã nói lên một phần tình cảm tốt đẹp nhất của con người mới của một thời đại mới, dưới một chế độ mới. Tình yêu thiết tha của Tố Hữu đối với quê hương, đất nước, Tổ quốc, lòng tin tưởng vững bền, tinh thần lạc quan cách mạng bao trùm tập thơ của Tố Hữu đã từng kích thích chúng ta trong những năm chiến đấu gay go gian khổ nhất, cũng như trong cuộc đấu tranh ái quốc gay go và phức tạp hiện nay. Ðọc tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu chúng ta được nuôi dưỡng thêm tinh thần và tình cảm mạnh mẽ đó. Về mặt nghệ thuật thì những thành công đó chính là những thành công của chủ nghĩa hiện thực cách mạng, của chủ nghĩa nhân đạo cách mạng trong thơ.
Tố Hữu là một thi sĩ cộng sản. Tập thơ Việt Bắc trào lên lòng yêu nước nồng thắm chứng tỏ thêm một nguyên lý: những người cộng sản là những người tha thiết yêu mến Tổ quốc của mình, yêu mến nhân dân của mình và suốt đời tận tụy đấu tranh cho sự nghiệp của dân tộc.

Nguồn: Nhân dân, số ra ngày 24.1.1955

Comments are closed.