Từ Nguyễn Trường Tộ tới bộ ngũ: “Vĩnh-Quỳnh-Tốn-Tố-Khôi” – Bài 13

 

Hồ Chí Minh từ 1941 đến 1951

đình tân trào 

Đình Tân Trào (họp Quốc Dân Đại Hội)

Nguyễn Ngọc Lanh

 

Vào bài. Tư liệu liên quan với bài này rất phong phú, dễ tìm kiếm; nhưng chính do vậy cần chọn lọc để bài không quá dài và không lạc khỏi chủ đề. Cụ Nguyễn Ái Quốc cùng thời với các trí thức trong “bộ ngũ” (Vĩnh-Quỳnh-Tốn-Tố-Khôi) đều thuộc thế hệ 3. Nghĩa là, nước đã mất từ khi các vị chưa sinh ra. Khi các vị trưởng thành, thực dân Pháp đã đặt được hệ thống cai trị vững chắc trên đất nước ta và chính họ đã thực hiện giấc mơ canh tân của cụ Nguyễn Trường Tộ. Mất nước, nhiệm vụ giữ độc lập chuyển thành giành lại độc lập, tất nhiên phải dùng bạo lực; còn nhiệm vụ canh tân đất nước chuyển thành nhiệm vụ học hỏi thực dân để khai dân trí, đòi cải cách xã hội; đặng dần dần thu hồi độc lập… (chỉ có thể bằng cách ôn hòa). Cách này tốn rất nhiều thời gian, nhưng trình độ người dân dần dần được nâng cao, xứng đáng thụ hưởng và bảo vệ độc lập, tự do. Một người, một tổ chức không thể thực hiện đồng thời cả hai phương pháp. Do vậy, câu hỏi từ thời cụ Nguyễn Trường Tộ vẫn được đặt ra: Nhiệm vụ nào phải làm trước, nhiệm vụ nào có thể làm sau… “Bộ ngũ” kế tục con đường do Phan Chu Trinh vạch ra, còn cụ Nguyễn theo con đường Phan Bội Châu. Nhưng cụ Nguyễn khác cụ Phan Bội Châu là đã được sống trong xã hội văn minh công nghiệp với nền dân chủ đang ngày càng hoàn thiện. Do vậy, cách bạo động cũng ít cực đoan hơn.

Cuối năm 1930 cương lĩnh (chính cương) bạo động “có chừng mực” của cụ Nguyễn bị phê phán là “thủ tiêu đấu tranh”, và bị thay bằng cương lĩnh “sắt máu” của cụ Trần Phú. Chính cái cương lĩnh này khi vừa mới thực thi đã kịp gây thiệt hại lớn sau Xô Viết Nghệ Tĩnh, rồi sau 10 năm nhen nhóm lực lượng lại bị tổn thất sau Khởi Nghĩa Nam Kỳ – tới mức những vị lãnh đạo sống sót phải mời cụ Nguyễn Ái Quốc về nước, đặt cụ lên vị trí lãnh đạo “độc tôn, toàn diện và tuyệt đối”. Nói khác, đó chính là vị trí của chủ tịch đảng (suy tôn, mà không cần qua bầu cử) – y hệt vị trí của các cụ Stalin, Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành… (khi sống, quyền như vua; khi chết được xây lăng). Nhưng có hai điều cần phải phân biệt giữa cụ Hồ với các cụ này. Đó là: 1- Các cụ Stalin, Mao, Kim nhất thiết phải trừ khử các bạn chiến đấu ngang tầm, ngang công lao, ngang tuổi tác với mình để làm chủ tịch đảng; còn cụ Hồ thì không cần làm như vậy, vì cụ duy nhất thuộc thế hệ trước, cũng là người sáng lập đảng. 2- Các cụ Stal, Mao, Kim giữ vị trí chủ tịch đảng tới khi chết; nhưng cụ Hồ (sau khi bị Stalin quở trách) chỉ còn là chủ tịch ban chấp hành trung ương. Cần phân biệt chủ tịch đảng (được mấy triệu đảng viên suy tôn) với chủ tịch ban chấp hành trung ương (chỉ đứng đầu vài trăm người). Nói khác, kể từ năm 1951, cụ Hồ cũng phải bỏ phiếu như mọi vị trong ban chấp hành trung ương, và giá trị lá phiếu của cụ Hồ chỉ là 01 / mấy trăm phiếucủa những người khác. Cụ liên miên thuộc phe thiểu số. Bài này nói về thời kỳ đắc ý nhất của cụ: 1941-51. Sau đó là thời kỳ bất như ý, đến cuối đời. 

 

Phế bỏ Cương Lĩnh “sắt máu”. Tự đổi tên là Hồ Chí Minh

Ra đi năm 1911, sau 30 năm cụ Nguyễn Ái Quốc được đón về Việt Nam ngày 28 tháng 1 năm 1941. Thời nay, tùy nhãn quan chính trị, người ta có thể nhận định khác nhau về quãng đời 30 năm này của cụ, nhưng không một giáo sư sử học nào, và không cuốn đại từ điển nào, lại không kết luận cụ là người yêu nước. Năm sau, cụ lấy tên là Hồ Chí Minh; do vậy, bài này dùng tên mới (cụ Hồ) thay cho tên cũ của cụ Nguyễn.

Sau thất bại của 3 cuộc nổi dậy liên tiếp (Bắc SơnNam Kỳ và Đô Lương), thực dân Pháp – khi đã dàn xếp xong với Nhật – quay sang đánh phá khốc liệt các tổ chức đảng CS và ráo riết lùng bắt đảng viên. Để giữ bí mật, cụ Hồ được sắp xếp sống ở một hang núi thuộc bản Pác Bó; rất hẻo lánh. Trong khi chờ đợi triệu tập hội nghị trung ương, cụ mở các lớp huấn luyện tại chỗ và lập các hội, như Nông Dân, Phụ Lão, Phụ Nữ… Đây là ba thành phần mà cụ gặp gỡ đầu tiên khi về nước. Tên gọi các hội đều có 2 chữ “Cứu Quốc”, rất phù hợp với tư tưởng chủ lưu từ 20-30 năm trước của cụ. Sau 3 tháng chắp mối, Hội Nghị trung ương (lần 8) khai mạc ngày 10-5-1941 – mở rộng tới xứ ủy Bắc Kỳ, Trung Kỳ. Nói “hội nghị” tưởng là to, thật ra rất ít người dự (dưới 10?) nói lên sự thoái trào. Quyết định quan trọng nhất là thành lập một đồng minh (mang tính chất mặt trận), với mục tiêu duy nhất là độc lập. Còn mục tiêu cách mạng thổ địa hãy gạt sang một bên. Tên của mặt trận – được gọi theo ngữ pháp Hán-Việt (rất thông dụng trước 1945) – là Việt Nam Độc Lập Đồng Minh; cụ Hồ đề nghị gọi tắt là Việt Minh. Nó thay cho cái “Mặt trận phản đế” thành lập 10 năm trước đó. Chỉ riêng cái tên “phản đế” (chống đế quốc – chuyện của cả thế giới) đã đủ thấy sự huênh hoang và cực tả. Việt Nam cứ tự lo chuyện độc lập cho chính mình cái đã. Việt Minh tập hợp rộng rãi nhân dân, ngoài các đoàn thể, còn thu nhận các cá nhân: nhân sĩ, trí thức, nhà tư sản, điền chủ (miễn là chấp nhận chống thực dân Pháp, giành độc lập). Theo tiêu chuẩn này, bà Nguyễn Thị Năm, ông Trịnh Văn Bô… đều có thể được kết nạp. Lễ thành lập Việt Minh diễn ra ngày 19-5, sau này được cụ Hồ lấy làm ngày sinh của mình. Từ nay cụ Hồ nghiễm nhiên được coi là Chủ Tịch Đảng và suốt 10 năm (1941-1951), cụ có thực quyền quyết định mọi chủ trương và chỉ chịu trách nhiệm trước lịch sử.

nhà họp TW8 

Nhà sàn họp Hội Nghị TƯ8

 

Chú thích. Sau cuộc nổi dậy ở Nam Kỳ, một loạt các nhân vật “sắt máu” nhất đã hy sinh – mà trước đó 10 năm họ phê phán cụ Nguyễn Ái Quốc không chút nể nang. Họ vắng mặt vĩnh viễn là điều may mắn tạm thời cho cụ, nhưng chỉ kéo dài cho tới năm 1951 – là thời điểm Stalin buộc cụ Hồ phải tái lập đảng CS và làm Cải Cách Ruộng Đất. Đến lúc này (1941) các vị kỳ cựu còn lại, tuy đã chốt chặt chủ nghĩa Mác-Lenin trong óc (trong đó, nhiều người đã thụ giáo ở Nga), đành phải chấp nhận đường lối đoàn kết toàn dân, trước tiên chĩa mũi nhọn vào Pháp, Nhật, giành lấy độc lập cái đã. Chuyện đấu tranh giai cấp và làm “thổ địa cách mạng” tính sau. Hội nghị trung ương 8 họp ở một nhà sàn tiều tụy, nhỏ xíu, nằm trơ trọi, hẻo lánh (nay đã cắm biển di tích), nói lên hoàn cảnh bi đát nhiều mặt khi đó.

 

Tình hình biến chuyển nhanh

Việt Minh phát triển rất mạnh, do đường lối phù hợp và do tình hình thế giới: Pháp đã mất nước; số phận thực dân ở Đông Dương thật bấp bênh; Nhật bắt đầu thua các nước Đồng Minh. Nhờ vậy, Việt Minh lập được cơ sở rộng rãi ở khu Việt Bắc và lan khắp nước. Nhiều cá nhân trí thức, tư sản, điền chủ cũng có mặt. Ví dụ, Trịnh Văn Bô,  Trần Duy HưngDương Đức HiềnVăn CaoĐỗ Đình Thiện… Sau khi Nhật đảo chính Pháp, phong trào càng mạnh mẽ, được dân chúng trông mong. Sau khi Nhật làm đảo chính, phong trào phát triển đột biến. Nông thôn sáu tỉnh phía Bắc đã do Việt Minh làm chủ (lập khu giải phóng). Một Hội Nghị quân sự đã quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang, gọi chung là Giải Phóng Quân. Như vậy, chỉ sau 4 năm (1941-1945), cụ Hồ đã triệu tập được một cuộc họp lớn chưa từng có, gọi là Đại Hội Quốc Dân với nhiều thành phần tiêu biểu, nơi họp phải là ngôi đình – nói lên sự hồi phục và lớn mạnh của phong trào; cũng nói lên đường lối đúng của cụ Hồ được các cấp của đảng CS răm rắp thực hiện. Chính từ Đại Hội này, Ủy Ban Khởi Nghĩa ra đời và ban hành Quân Lệnh số 1 khắp cả nước.  

 

Chú thích. Vài quyết định của đại hội. 1) Cử ra Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam, được coi là Chính phủ lâm thời do cụ Hồ Chí Minh làm chủ tịch và có một Ủy ban Thường trực gồm 5 người: Hồ Chí Minh, Trần Huy Liệu, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Lương Bằng và Dương Đức Hiền.  2) Lập 2) Lập Ủy Ban Khởi Nghĩa; Ủy Ban này đã ban hành Quân Lệnh số 1, gửi Việt Minh các địa phương trong cả nước. 3) Quy định quốc kỳ (nền đỏ sao vàng) và quốc ca (Tiến quân ca).

 

Chủ tịch đảng đã quyết định những gì?

– Trước khởi nghĩa (Việt Minh chưa ra công khai)

Được coi như chủ tịch đảng, các quyết định và các chỉ thị của cụ Hồ đều được đảng thi hành đầy đủ. Nếu có đưa ra Hội Nghị trung ương cũng chỉ là thủ tục. Trong thời gian 1941-1945 không có đại hội đảng, chỉ có chuyện bổ sung thêm người vào ban chấp hành trung ương và bầu cụ Trường Chinh làm tổng bí thư, nhưng linh hồn của cuộc họp là cụ Hồ. Ngày nay, đọc Lịch Sử (và Lịch Sử Đảng) ta thấy uy tín tuyệt đối của cụ thời 41-45. Kết quả tổng hợp của những quyết định và chỉ thị của cụ Hồ là dẫn đến cái Đại Hội Quốc Dân nói trên. Đại hội này chấm dứt thời kỳ (gọi là) “tiền khởi nghĩa”, chuyển sang khởi nghĩa và thời cơ chỉ gói trong một-hai tuần lễ. Có thể nói gọn: Mấy chục năm nung nấu mục tiêu Độc Lập, nay là lúc cụ Hồ có toàn quyền, toàn lực thực hiện nó. Ví dụ, trong bối cảnh tháng 7-1945, khi cụ nhận ra thời cơ, cụ nói (chỉ thị): Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù phải hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập“. Nói khác, đây là giành độc lập bằng bất cứ giá nào. Trước đó, tháng 5-1945, khi dự định viết Tuyên Ngôn độc lập, cụ đã hỏi ý kiến một “người bạn Mỹ”, mà không hỏi bất cứ đồng chí nào khác xung quanh cụ. Nói khác: Cụ tin rằng cuộc khởi nghĩa sẽ thành công (phải lo soạn Hiến Pháp đi).

Đến đây, ngoài việc nhìn cụ Hồ như một trí thức chủ trương bạo động giành độc lập, còn phải nhìn cụ là một nhà hoạt động chính trị – giống cụ Phạm Quỳnh. Hai cụ kiên định mục tiêu như nhau, tuy nhiên, sự lọc lõi, quyền biến và can trường thì không giống nhau.

– Xin nói hai việc vặt, mà chủ tịch đảng quyết định ở thời kỳ tiền khởi nghĩa. Đó là phế bỏ một quyết định “tập thể” của cấp dưới và tự ý tranh thủ hợp tác với Mỹ.

           – Ngày 13-8-1942, Nguyễn Ái Quốc (giấy tờ tùy thân là Hồ Chí Minh) sang Trung Quốc để liên hệ với các tổ chức cách mạng người Việt Nam và với Đồng Minh (Mỹ), đã bị chính quyền địa phương bắt giữ 13 tháng. Ở nhà, các vị Trường Chinh, Phạm Văn Đồng… (vẫn còn chút máu bạo lực) tự ý phát động cuộc chiến tranh du kích chống Pháp-Nhật ở Cao-Lạng. Việc bốc đồng này có thể “nướng” hết quân. Lẽ ra, phải xây dựng các đoàn thể quần chúng bằng tuyên truyền, giác ngộ để tạo ra lực lượng chính trị hùng hậu; còn lực lượng quân sự non nớt, chỉ để tự vệ, mà chưa thể “phát động chiến tranh” với quân chính quy của thực dân và phát xít. May, cụ Hồ về nước kịp chấn chỉnh điều này. Cụ chỉ cho phép trưng dụng 34 người từ các đơn vị tự vệ địa phương để lập ra trung đội “tuyên truyền giải phóng quân“, nhưng vẫn phải lấy nhiệm vụ chính trị làm đầu. Phải khá lâu về sau mới có quyết định hợp nhất tất cả các đơn vị vũ trang thành một tổ chức thống nhất, lấy tên là Quân Giải Phóng (lúc đó gọi là “Giải Phóng Quân”).

           – Cũng trước ngày khởi nghĩa, cụ tự ý “đi quá xa” khi đặt quan hệ với Mỹ, qua việc liên hệ mật thiết với đơn vị tình báo OSS. Dù cùng Mỹ đứng trong phe Đồng Minh chống phát xít, nhưng Liên Xô không cho phép các đảng Cộng Sản cộng tác với Mỹ tới mức như cụ Hồ thân thiết với OSS.

– Sau khởi nghĩa

Cụ Hồ quyết định nhiều việc ở chức vụ thủ tướng và chủ tịch nước, công khai, nay vẫn lưu lại kết quả. Xin đơn cử:

           – Tháng 11-1945 khi đảng CS đang tranh chấp gay gắt về quyền lực với hai đảng khác (Việt Quốc và Việt Cách, theo chân quân Trung Quốc sang ta) thì  cụ lại tuyên bố giải thể đảng Cộng Sản (thực ra, là chuyển sang hoạt động bí mật như trước đó 3 tháng). Stalin không thể tha thứ việc làm này.

 

Chú thích. Dư luận chung quốc nội thời đó là không ưa – mà sợ – cộng sản, nhưng lại rất tín nhiệm Việt Minh. Thái độ quốc tế cũng e dè cụ Hồ vì biết rõ Hồ là Cộng Sản. Còn Việt Quốc, Việt Cách thì hàng ngày tuyên truyền ra rả và thẳng thừng rằng “Việt Minh còn cộng sản hơn cả Nga Xô”. Điều này có thể đúng tới 70%, vì rất nhiều nhân vật của Việt Minh thời đó cũng chưa biết rằng mình hoạt động dưới sự lãnh đạo của Cộng Sản. Họ tham gia Việt Minh thuần túy là yêu nước. Trong tình thế bất lợi như vậy, cụ Hồ tuyên bố “giải thể đảng”. Về sau, khi biết chuyện này, Stalin rất bực tức và bắt cụ thành lập lại đảng và hoạt động công khai. Đó là năm 1951. Để lấy lòng Stalin và Mao Trạch Đông, năm 1951 văn kiện Đại Hội thành lập đảng Lao Động ghi rõ: “Đảng theo chủ nghĩa Mác-Angghen-Lenin-Stalin” và “tư tưởng Mao Trạch Đông”. Để xóa cái án “xét lại” (khi chê chủ nghĩa Marx trong bài viết năm 1924) cụ Hồ nói như đinh đóng cột giữa Đại Hội: “Tôi chẳng có lý luận gì hết”. 

 

          – Ngay sau khởi nghĩa tháng tám, cụ thành lập chính phủ lâm thời, mà thành phần chủ yếu là những nhân vật đã được bầu chọn ở Đại Hội Quốc Dân; do vậy có rất nhiều đảng viên CS. Cái chính phủ thành lập vội vã này (ngày 28-8-1945) là để 5 ngày sau kịp có mặt trên lễ đài – ra mắt quốc dân – trong ngày tuyên bố Việt Nam độc lập (2-9-1945). Nhưng qua mấy lần cải tổ về sau, những thành phần mà cụ Trần Phú muốn “đào tận gốc” lại chiếm đa số trong chính phủ mới. Cụ Hồ công khai từ bỏ lập trường giai cấp, chuyển sang “thỏa hiệp”, nhưng như vậy giữ được nền độc lập non trẻ đang rơi vào tình huống rất chênh vênh.

          – Khi viết Tuyên Ngôn Độc Lập cho nước ta, cụ chỉ tham khảo Tuyên Ngôn và Hiến Pháp của Hoa Kỳ; mà không thèm nhớ gì tới các tuyên ngôn của chính quyền Xô Viết khi nó ra đời (1917) – mặc dù cụ đã từng sống khá lâu ở Liên Xô. Liều lĩnh nhất là cụ cho một người “bạn Mỹ” xem trước bản thảo và đề nghị góp ý; trong khi đó cụ lờ hẳn các đồng chí của cụ; trong đó có nhiều người từng thụ giáo chủ nghĩa Mác-Lenin ở Nga…

 

Chú thích. Xin trích nguyên văn một đoạn ở một bài viết gần đây; để tham khảo:

Ngày 29 tháng 8, cụ Hồ Chí Minh mời Thiếu tá Patti đến gặp, tại nhà của ông bà tư sản yêu nước Trịnh Văn Bô tại phố Hàng Đào, để thông báo 2 việc quan trọng:

        1- Ngày mai, 30 tháng 8, Hoàng đế Bảo Đại sẽ thoái vị.

        2- Ngày mồng 2 tháng 9, sẽ trở thành ngày Độc lập của VN.

Và cụ Hồ Chí Minh muốn tham khảo lần cuối ông Patti về bản Tuyên Ngôn độc lập của VN.

Thực ra, từ tháng 5 năm 1945, khi Dan Phelan nhảy dù xuống Tân Trào, cụ Hồ Chí Minh đã cho ông Dan Phelan biết Cụ Hồ đang ấp ủ viết bản Tuyên Ngôn Độc lập của nước VN, và đã hỏi ý kiến của ông Phelan về bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ. Theo ông Dan Phelan nhớ lại: thật ra khi hỏi ông Phelan, Cụ Hồ đã biết rất rõ nội dung bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776. Sau đó, ông Dan có chuyển cho Việt Minh cả bản Hiến pháp Mỹ, và Luật Nhân quyền Mỹ.

Như vậy Thiếu tá Patti là người Mỹ thứ hai được cụ Hồ tham khảo về bản Tuyên Ngôn độc lập của VN. Vào ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945, Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Trong các bức ảnh về ngày mồng 2 tháng 9 đó, trên khán đài mà Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập, có hình ảnh Cựu hoàng Bảo Đại, đứng phía sau Bác Hồ, và ảnh ông Patti, cao lớn, mặc quân phục xám, đội mũ ca-lô, đứng bên cạnh Bác Hồ.

Sau khi Bác Hồ đọc xong bản Tuyên ngôn độc lập của VN, với lời nói giản dị đi vào lòng người “Tôi nói, đồng bào nghe rõ không”, ông Võ Nguyên Giáp đọc diễn văn về các vấn đề của Chính phủ lâm thời. Trong diễn văn đó, có đoạn ông Võ Nguyên Giáp nói về nước Mỹ:

     “-Mỹ là một nước dân chủ, không có tham vọng về lãnh thổ, nhưng đã góp phần đặc biệt đánh bại kẻ thù của chúng ta, phát-xít Nhật. Vì thế, chúng ta coi Mỹ như người bạn tốt.”

      Khi chuẩn bị kết thúc diễn văn này, ông Giáp nói về Tổng thống Mỹ Roosevelt : “Như Ngài Roosevelt đã từng nói, áp bức và tàn bạo đã làm cho chúng ta biết ý nghĩa của tự do”.

Khi đó, trong những ngày Cách mạng tháng 8 sôi sục ấy, ở Hà Nội có 59 người Mỹ, hầu hết là các nhân viên OSS. Họ được Việt Minh và nhân dân VN đón tiếp nồng nhiệt.

Cũng ngay trong tháng 9 năm 1945, Bác Hồ cho thành lập Hội Hữu nghị Việt-Mỹ. Quan hệ VN-Mỹ chưa bao giờ tốt như vậy.

          – Cuộc tổng tuyển cử (6-1-1946) năm 1946, mọi người tha hồ tranh cử, tha hồ vận động. Đây là hiện thực “tự do ứng cử, bầu cư” mà cụ thấy tận mắt khi sống 6 năm ở Pháp. Hà Nội được bầu 6 (theo số dân) nhưng có tới 75 vị ứng cử. Số nghị sĩ không cộng sản chiếm đa số. Sau này, có 70 nghị sĩ thuộc đảng Việt Quốc và Việt Cách được bổ sung khiến cho tỷ lệ nghị sĩ cộng sản càng giảm. Ây vậy, cụ Hồ lại trịnh trọng phát biểu tại phiên khai mạc rằng đây là quốc hội tiêu biểu cho đoàn kết; không đại diện cho đảng phái nào, mà đại diện toàn dân.

 

Chú thích. Chính cách thức bầu cử đã tạo ra được một quốc hội mà sản phẩm tiêu biểu của nó là Hiến Pháp 1946 bất tử – bản Hiến Pháp tôn trọng người dân hơn tất cả các bản Hiến Pháp sau này. Đây là bản Hiến Pháp có câu “không phân biệt giầu-nghèo” (ý: giai cấp), hơn nữa, nó không cho phép cái từ “giai cấp” được bén mảng vào. Trưởng Ban soạn thảo Hiến Pháp 1946 chính là cụ Hồ, nhưng cụ bất cần biết hiến pháp Liên Xô có đặc trưng gì. Hơn nữa, ở vị trí là chủ tịch đảng, cụ bất cần có cuộc họp “nội bộ” nào góp ý cho Hiến Pháp trước khi đưa ra Quốc Hội thông qua. Điều lạ lùng là các nghị sĩ cộng sản đều giơ tay tán thành hiến pháp. Chỉ có 2 phiếu chống, nhưng đều là của người “không cộng sản”: cụ Nguyễn Sơn Hà và cụ Phạm Gia Đỗ.

 

Cứ tưởng rằng… nhưng không phải (!)

Nước Nhật đầu hàng phe Đồng Minh ngày 15-8, chỉ cần 1-2 tuần là quân Trung Quốc, Anh kịp vào nước ta để giải giáp quân Nhật. “Nếu” lúc đó nước ta đã có một chính phủ chống Nhật, tuyên bố độc lập, được lòng dân (do tổng tuyển cử đưa lên) thì đó chính là vị “chủ nhà” hợp lệ, đủ tư cách tiếp khách. Việt Minh đã thực hiện rất trọn vẹn cái chữ “nếu” này. Trong Tuyên Ngôn Độc Lập có câu tranh thủ sự ủng hộ của Đồng Minh: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”. Chỉ sau khởi nghĩa 14 ngày, đã có một chính phủ, đã có bản Tuyên Ngôn độc lập, đã thành chủ nhà đón tiếp quân Đồng Minh, chúng ta phải nhìn cụ Hồ là con người chính trị, đầy khả năng và rất quyền biến.

Cứ tưởng rằng mọi chuyện sẽ êm đẹp; nhưng không phải. Nguyên nhân chỉ có một: Pháp quyết chiếm lại thuộc địa cũ: Đông Dương.

– Chính phủ Trần Trọng Kim. Nước Nhật sắp thua, tình hình trong nước và ngoài nước biến chuyển dồn dập, mau lẹ. Phe Đồng Minh đã phân công Trung Quốc và Anh vào Đông Dương giải giáp (năm 1945 gọi là “tước khí giới”) quân Nhật, lấy vĩ tuyến 16 để chia nhiệm vụ. Đồng Minh cũng tuyên bố: Tất cả các chính quyền do Nhật dựng lên (không chống Nhật) đều bất hợp pháp. Ở Việt Nam, chính phủ của cụ Trần Trọng Kim rơi vào trường hợp này. Đây là chính phủ yêu nước, nhưng không có thành tích chống Pháp, càng không có thành tích chống Nhật. Còn chính quyền của Việt Minh (đã tạo dựng ở một số tỉnh miền núi phía Bắc) té ra lại được coi là hợp pháp – vì đã chống cả Pháp thực dân và Nhật phát xít. Mà chống bằng xương máu hẳn hoi. Điều mà Việt Minh cần là lập thêm thành tích với phe Đồng Minh. Cụ thể là hưởng ứng lời kêu gọi của Đồng Minh, chống Nhật, lật đổ chính quyền do Nhật dựng lên. Tất nhiên, điều này phải thực hiện trước khi quân Anh kịp vào Nam Kỳ (Pháp sẽ theo vào để chiếm lại thuộc địa) và trước khi “Hoa quân nhập Việt” mang theo các đảng phái thân Trung Quốc, sẽ cạnh tranh với Việt Minh.

 

Chú thích. Chính do vậy, khi quân Nhật (vốn không ưa Việt Minh) thông báo với chính phủ Trần Trọng Kim “sẵn sàng trấn áp, nếu Việt Minh định làm đảo chính” đã bị từ chối. Một phần, đây là chính phủ yêu nước, không muốn để người nước ngoài làm Việt bị đổ máu; một phần khác, nếu chính phủ này nhờ Nhật đàn áp người Việt sẽ nguy hiểm cho bản thân mình – một khi quân Đồng Minh có mặt ở nước ta. Cũng chính do vậy, khi cụ Trần Trọng Kim đề nghị Việt Minh “hợp tác”, làm sao Việt Minh dám nhận lời (để bỗng chốc thành kẻ thù của Đồng Minh)?

 

– Chuyện “Hoa quân nhập Việt”

Các nhà yêu nước sau khi chống Pháp thất bại (Đông Du, hội Quang Phục, Việt Nam Quốc Dân Đảng…) đã ở lại Trung Quốc hoặc sang lánh nạn, tiếp tục hoạt động. Thiếu sót của các vị là không gây cơ sở trong nước, không nắm được dân; nhưng bù lại, họ được chính phủ Quốc Dân Đảng ủng hộ vì ý thức hệ tương tự nhau. Chính phủ này nói chung không ưa thực dân Pháp ở Việt Nam – vì quan niệm rằng “Trung Quốc mất Việt Nam (chư hầu truyền thống) vào tay Pháp”. Từ lâu, Trung Quốc đã có chủ trương “Hoa quân nhập Việt” đem theo các nhà yêu nước cùng ý thức hệ đặng thành lập một chính quyền thân Trung Quốc. Chủ trương đã thành hiện thực năm 1945, khi Trung Quốc được phân công vào miền Bắc nước ta tước khí giới quân Nhật. Dịp này, họ chủ trương “diệt cộng, cầm Hồ” (giam giữ Hồ), khiến Việt Minh thấy rõ nguy cơ với mình.

 

Chú thích. Các nhà yêu nước xu hướng cộng sản cũng trú ngụ trên đất Trung Quốc nhưng thường không công khai mục tiêu; nhất là thời kỳ Quốc-Cộng chống nhau kịch liệt. Khi các tổ chức Việt Quốc và Việt Cách (theo quân Trung Quốc) về nước, họ chiếm được một số thị xã (tỉnh lỵ) biên giới. Nhưng không may, khi đó Việt Minh đã có tiếng tăm cả nước, được lòng dân, đã thành lập xong chính phủ lâm thời (28-8-1945) và chính thức ra mắt quốc dân ngày 2-9-1945. Cuộc tranh chấp quyền lực giữa hai phe thuộc hai ý thức hệ có lúc tạm hòa hoãn, có lúc gay gắt, đổ máu. Ở miền Bắc, khi quân đội Trung Quốc rút khỏi nước ta, phe quốc gia không còn hậu thuẫn, đã hoàn toàn thất thế. Ở miền Nam, quân Anh cũng rút, nhưng quân Pháp mở rộng vùng chiếm đóng và đánh ra miền Trung và cả Tây Nguyên.

 

Nhượng bộ và nhượng bộ để tránh chiến tranh

Đến nay, rất đủ tư liệu khẳng định tổng thống Pháp De Gaull quyết chiếm lại Đông Dương, mặc dù cụ Hồ tìm mọi cách tránh cuộc chiến tranh này. Cụ thật sự làm công việc ngoại giao; và tự mình có hai quyết định lớn: ký với Pháp Hiệp Định 6 tháng 3 và Tạm ước Việt – Pháp ngày 14-9; trong đó có sự nhân nhượng và lần sau nhân nhượng nhiều hơn. Trong Lời Kêu Gọi Kháng Chiến, có câu: Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.

 

Chú thích. Rất đủ tư liệu nói lên quyết tâm của tổng thống Pháp De Gaulle chiếm lại Đông Dương; bất kể đối phương nhượng bộ đến đâu. Về sau, Lịch Sử đánh giá chủ trương của ông này là “mù quáng”, ví dụ trong tác phẩm “L’Aveuglement, De Gaulle face à l’Indochine“. Chủ trương sai lầm của De Gaulle đưa đến các hệ quả:

1) Năm 1948-49 chính phủ Pháp thấy rằng không thể thắng Việt Minh và tái chiếm Đông Dương trước sự kháng chiến của Việt Minh, đã đồng ý trao lại độc lập cho… vua Bảo Đại (!). Thử hỏi, liệu Việt Minh có thể ngừng chống Pháp, quy thuận Bảo Đại để được “hưởng độc lập” do Pháp ban cho hay không?

2) Khi Cộng Sản Trung Quốc nắm chính quyền, Việt Nam chỉ có cách cầu viện Xô, Trung.

3) Pháp thua trận cuối ở Điện Biên Phủ, dẫn đến mất nốt cả thuộc địa cuối cùng là Algerie. Các nhà sử học thế giới coi chiến thắng Điện Biên Phủ có ý nghĩa quốc tế “xóa bỏ chế độ thuộc địa” trên toàn cầu. Từ thời điểm này không còn cường quốc nào muốn duy trì chế độ thực dân, buộc phải tiếp tục trao trả độc lập cho các thuộc địa. Cụ Hồ trở thành biểu tượng đấu tranh tranh giải phóng thuộc địa. Trong dịp tang lễ cụ Hồ (2-9-1969) có tới mấy trăm điện văn chia buồn, hầu hết nhắc tới vai trò này. Nhưng xin nói thêm: Đây là vai trò bất đắc dĩ. 

 

Rất nên tìm hiểu giai đoạn rối ren này để biết sự thật. Có 2 tài liệu của người Việt – là các nhà nghiên cứu sử học (đang sống ở nước ngoài) đáng được tham khảo: 

1) Ôn lại những biến cố đưa tới ngày “toàn quốc kháng chiến”.

2) HỒ CHÍ MINH—NHÀ NGOẠI GIAO, 1945-1946

(còn tiếp)

 Nguồn: http://nghiencuulichsu.com/2015/12/28/tu-nguyen-truong-to-toi-bo-ngu-vinh-quynh-ton-to-khoi-bai-13/

Comments are closed.