Vĩnh biệt nhà văn Dương Nghiễm Mậu

nha-van-duong-nghiem-mau-google-

Được tin nhà văn Dương Nghiễm Mậu đột ngột từ trần vì bạo bệnh vào hồi 21: 30 ngày 2 tháng 8 năm 2016 (30 tháng 6 Bính Thân) hưởng thọ 80 tuổi, Văn Việt xin thành kính phân ưu cùng tang quyến và cầu chúc hương hồn nhà văn an nghỉ cõi vĩnh hằng.

Văn Việt đã có vinh dự giới thiệu cùng bạn đọc một hồ sơ về nhà văn tài năng này của văn học miền Nam 1954-1975 và của nền văn học hiện đại Việt Nam (bắt đầu từ 7/1/2015: http://vanviet.info/van-hoc-mien-nam/van-hoc-mien-nam-54-75-65-duong-nghiem-mau-con-nguoi-noi-soi-trong-bao-luc-chien-tranh-v-thn-phan-nhuoc-tieu/), hồ sơ này đã được Văn Việt tuyển chọn với sự đồng tình của nhà văn.

Văn Việt xin trân trọng giới thiệu một khía cạnh tài năng khác của ngòi bút Dương Nghiễm Mậu trong vai trò nhà báo, qua hai tư liệu do nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn sưu tầm.

Xã hội và chiến tranh ở miền Nam trước 1975 qua ký sự của Dương Nghiễm Mậu

Vương Trí Nhàn

Dương Nghiễm Mậu (sinh 1936 tại làng Mậu Hòa, huyện Đan Phượng, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông cũ) thường chỉ được biết tới qua các tiểu thuyết và tập truyện ngắn như : Cũng đành, Nhan sắc, Gia tài người mẹ, Đêm tóc rối… Nhưng tác giả này còn có một số tác phẩm từng đăng rải rác trên bán nguyệt san Văn cùng các tờ báo như Khởi Hành, Thời Tập và chưa in thành sách. Trong một lần gặp ông ở Sài Gòn tháng 9 năm 2012, tôi được ông cho biết thêm như sau :

Tuy trong quân ngũ chỉ mang cái lon binh nhì, nhưng ông là một phóng viên luôn theo các phương tiện (kể cả trực thăng) đi nhiều tiền đồn, từ Tây Nguyên tới Trị Thiên… Chỉ huy các tiền đồn đó là lớp sĩ quan trẻ, phần lớn học qua tú tài. Một số mang trong mình chất trí thức ; họ đọc và hiểu nhiều, họ chia sẻ với nhà văn kiêm nhà báo Dương Nghiễm Mậu những suy nghĩ về thời cuộc và thân phận con người.

Khi gọi là ký sự, khi gọi là truyện ngắn – nhiều bài ông viết sau các chuyến đi đó thống nhất trong một giọng điệu một phong cách và trước tiên một ý muốn của tác giả. Là hãy cố gắng ghi lại sự thực – sự thực về con người và hoàn cảnh. Văn phẩm của ông có nhiều chi tiết mà những ai chỉ quanh quẩn ở Sài Gòn hồi ấy không thể biết. May mắn cho tôi là trước 1975, có được đọc một số tác phẩm này và đã chép vào sổ tay một số đoạn trích mà tôi cho là quan trọng và sẽ giới thiệu sau đây. Nhưng thiếu sót của tôi là không ghi được đầy đủ xuất xứ tác phẩm, cũng như với các nhận xét suy nghĩ của nhân vật, không làm rõ được cái văn mạch từ đó chúng xuất hiện.

Tôi cũng hiểu rằng, so với chủ đề xã hội và con người miền Nam trong chiến tranh qua tác phẩm Dương Nghiễm Mậu thì đây mới là phần bề nổi ít ỏi, nhưng vẫn muốn trình ra trước dư luận để được đồng tình ít nhất một điều : Suốt thời gian 1954-75, miền Nam từng sản sinh được một nền văn chương ghi nhận theo cái cách riêng của mình về xã hội và con người Việt Nam đương thời, mà tác phẩm của Dương Nghiễm Mâu là một mảng có những nét sâu sắc. Lâu nay với mảng văn học này, các nhà nghiên cứu thường chỉ đi vào vạch vòi làm rõ cái phần suy đồi trụy lạc hư vô bất lực mà ít chú ý cái phần ta quen gọi là phản ánh hiện thực của nền văn học đó. Trong khi, nếu theo hướng này để quan sát và tìm hiểu, chúng ta sẽ tìm thấy những bằng chứng nặng đồng cân – đó là những bằng chứng có giá trị lịch sử, chúng không thể thiếu mỗi khi chúng ta muốn tìm hiểu quá khứ cũng như cắt nghĩa hiện tại.

clip_image002

Quà tặng cho thành phố

(Khởi Hành, 1969)

[Cuộc trò chuyện giữa các nhân vật – những người lính đào ngũ]

– Tôi nghĩ mình sinh ra để chẳng làm gì hết. Giết người, chắc chẳng phải ai cũng muốn làm vậy, nhưng hoàn cảnh khiến tôi phải làm, trong sự ân hận.

Những câu chuyện thương tâm quá nhiều đến độ nghe mãi thấy nhạt nhẽo, không còn xúc động nữa, tới lúc người ta vô tri, hết xúc động.

… Lần đầu tiên đi hành quân trong một vùng “xôi đậu”, tôi ngạc nhiên nhìn những đứa trẻ 7 – 8 tuổi ngồi ngoài cánh đồng với ngọn cờ vàng mới cắm trên một cái cột cao cắm giữa ruộng. Ngọn cờ như một dấu hiệu cần thiết, bởi vì nếu không làm vậy, rất có thể máy bay sẽ bắn xuống, đó là những vùng oanh kích tự do.

[Nói về Việt Cộng]

Kể bọn chúng cũng kinh thật, thật tôi không thể hiểu được, sao chúng có thể làm vậy.

[Một nhân vật khác tâm sự]

Thật đi máy bay bây giờ không khác gì đi xe đò, còn tệ hơn nữa anh ơi, bây giờ cái gì cũng thay đổi hết. Ở Sài Gòn không còn quán ăn cho mình ngồi, không còn gì hết, mọi điều thay đổi hết rồi anh ơi, bọn bạn tôi lo cưới vợ bởi vì sợ rồi về sau chỉ còn vợ thừa thôi, cái đồng tiền bây giờ nó kinh lắm, không thể tưởng tượng được.

Hãy ngậm một trái lựu đạn trong miệng mà trở về, tao cũng muốn về, về liệng ít trái cho chết cha bớt chúng nó đi, cái bọn lộn xộn, bọn ăn cắp ăn trộm, cướp ngày, cái bọn tham nhũng, hối lộ, ma cô, đĩ điếm, bọn nằm vùng làm tay sai cho giặc, bọn trốn lính, bọn con buôn, bọn chó má thú vật đó.

Bất công, mày phải làm cho hết bất công đi, rồi chết cũng được.

[Nhân vật Trực hồi tưởng]

Tiếng khóc và những giọt nước mắt mặn chát, tôi thấu hiểu những bất hạnh chờ đợi tôi trong suốt cuộc đời, khởi đi từ đó, nhưng tôi cũng hiểu ngay từ đó rằng dù thế nào tôi cũng không thoát được một định mệnh đen tối chờ chực mình. Thôi tàn đời con.

– Một chai nữa nhỏ, hai chai nữa nhỏ.

Có lúc tôi nhìn thấy những người khác như những con cua, những con thằn lằn, những con kỳ nhông bọn chúng lúc nhúc quanh quẩn, bọn chúng như ở một thế giới âm ty nào.

Nó thời Tây theo Tây, thời Bảo Đại theo Bảo Đại, thời Diệm đi với Diệm và bây giờ, bây giờ đó, bọn mày không nhìn thấy sao, bọn tự nhận chính khách như lươn, như rắn, như chuột, như sâu bọ, chúng nó luồn lọt, chúng nó khom lưng, chúng nó dơ bẩn cùng mình, mày phải hiểu bọn tao ở đây đánh giặc nhưng chẳng bao giờ bọn tao đánh giặc mà nghĩ đến Sài Gòn, nghĩ đến Sài Gòn cái bọn dơ dáy bẩn thỉu sống ở đó với những mưu toan thì bọn tao bỏ súng, mày hiểu chưa ?

– Anh nghĩ bao giờ có hòa bình ? – Trực cười vang động – Hoà bình, dân chủ, tự do… và vô số những tiếng gì đó. Những tiếng nói của bọn bày đặt.

Tôi không muốn biết hết bất cứ một tiếng gì được dùng cho những điều mà người ta gọi là lý tưởng. Phải, tôi chỉ có những tiếng chửi, sự thô tục, tàn bạo, những tiếng người ta muốn tránh, những tiếng bọn nó nghĩ đầy trong đầu mà không bao giờ dám nói ra thành tiếng, bọn nó sợ, nó sợ cả những thứ mà chính ra cả đời bọn nó sống cho cái ấy.

Đây là lần đầu tiên tôi tới Cà Mau. Lúc trước khi tới, tôi cũng như anh vậy. Nhưng ngay từ đó, tôi hiểu rằng tôi phải sống khốn nạn hơn mọi người.

Anh hãy uống đi, có lẽ nói trong cơn say là một điều hay, cả đời sống trong cơn say là càng tuyệt điệu nữa, cả đời sống mình nào có một điều gì mà không nên say mà không nên bậy bạ phải thế không ?

– Có nên tin lý số ?

– Có số bọc hồng điều, có số ăn mày, có số làm quan, có số mất mộ… Tôi không tin ! Chẳng nhẽ tôi lại có một số riêng cho tôi thế này sao? Chẳng lẽ cả một thế hệ như tôi đều có số phải đi lính ?

[Một nhân vật tìm sự lãng quên trong rượu]

Hãy uống đi con. Nó vẫn thường nâng ly lên trước mắt chúng tôi và nói câu nói rất khôi hài đó. Uống đi và đừng nhớ gì hết. Nhưng sau đó, khi tỉnh dậy ngó nhau, chúng tôi lặng lẽ buồn phiền lấy một mình.

… Đốt… bắn… hắn nói với một vẻ ngọt ngào dễ nghe hơn ai hết.

Tôi nhớ tới những ngày tháng cũ. Tôi nhớ tới những mộng tưởng không cùng của tuổi trẻ ngắn hạn. Phải, chúng tôi bị đốt ngắn mọi mộng tưởng, chúng tôi bị lột truồng ra trong cuộc sống chẳng còn gì nữa, cùng những thần tượng, cùng kinh điển được sơn son thiếp vàng một thời đã xa. Tôi và những người cùng lứa chỉ còn lại chính mình với những điều không hoàn tất được.

(Nhưng) nào phải một mình tôi những quẩn quanh, nào phải một mình tôi những lửa đỏ cháy lòng với hung hãn và tàn nhẫn. Không, sự thực không, tất cả đó những bất ưng và chính từ đó một lý tưởng vẫn không buông trôi theo với dòng nước đục những nhơ bẩn ngập trong cuộc sống.

Tôi muốn la lên, không phải chỉ bằng tiếng la của vô vàn những trái tim và khối óc khác.

Tất cả mọi điều đều trở thành kỳ cục hết rồi, như sao mình không thể chết, đó mới là điều lạ, phải vậy không ? Tiếng súng lớn bỗng nhiều hơn và tiếng nổ cũng gần hơn. Phải rồi, đó cuộc chiến không nguôi trong đời mày.

clip_image004

Tạp bút mùa xuân

(Khởi Hành – 1969)

[Một nhân vật ngồi tự vấn]

Còn mày ? Tôi uống cạn ly rượu còn trên mặt bàn, không gì khổ bằng tới lúc mình biết có những gì là ảo tưởng. Thế mày đang làm gì đó ? Làm gì đâu ?

Làm gì đâu ? Tôi thấy rõ thế. Có gì kinh hoàng bằng khi mỗi lúc chúng ta một buồn nản hơn, buông trôi hơn và nhận thấy những gì mình làm vô ích trong vô vọng.

[Một nhân vật tiểu thuyết]

Chọn làm nhà văn khi còn trẻ là chọn làm một người thất bại. Tôi không muốn là một nhà văn với bất cứ nghĩa nào. Tôi muốn là người bình thường.

[Một nhân vật trong truyện Đêm tóc rối]

Chiến tranh 20 năm, tôi nhìn rõ những khác biệt giữa chúng tôi và các cậu. Chúng tôi còn có tình người trong sáng do nếp sống tập quán luân lý trật tự bảo vệ liêm sỉ lương tâm, các cậu phá cả, các cậu bất nhân tàn bạo từ trong tâm hồn. Sao bây giờ tôi thấy các cậu khổ quá và làm cho mình khổ thêm.

clip_image006

Trái nổ trong miệng

(Khởi Hành – 1971)

Trong xã hội của mình, ai chết cứ chết. Ai sung sướng cứ sung sướng. Ai tham nhũng cứ tham nhũng.

[Đáp lời Trực hỏi]

Thắng bảo : Cậu đừng hỏi, mình không trả lời được đâu, kỳ lắm.

Để đánh giá một người một thiên hạ nhìn quần áo nó mặc, xe nó đi, nhà nó ở. Những gia đình trong thành phố trưng bày chạn bát, tủ lạnh hình cởi truồng ra phòng khách…

– Cậu cũng chấp nhận thế sao ?

– Vậy cậu bảo mình làm sao ?!

Chúa ở khắp nơi và cũng trở thành món hàng.

[Kể chuyện đường Tự Do xong, bảo]

Đó là hậu phương của các cậu, đó là điều mà cậu đang bảo vệ, cậu nhớ lấy, hậu phương có những gái điếm hát ông ổng mỗi ngày Nhớ người chiến binh, Thương người tiền tuyến.

[Một người bác của Trực nói]

Chúng ta chết vì lãnh đạo. Trong một nước chậm tiến chỉ có thể trông vào lãnh đạo, lãnh đạo hỏng thì dưới hỏng không cứu được và như thế đám đông sẽ phải trải qua một bài học bằng đau khổ.

Phải đốt đi hai thế hệ nữa. Dân mình không chấp nhận. Không muốn sống trong chế độ cộng sản, nhưng cũng không muốn sống trong chế độ xấu xa này.

Nhưng khốn nỗi nguời dân không còn quyền để lựa chọn một cái nào khác nữa ngoài hai con đường đó.

Chỉ còn là những màu sắc khác nhau giữa đau khổ. Cả trong hai khuôn mẫu đều phi nhân bản, đều ám sát phẩm cách.

Còn cuộc chiến này, nó bất tận vì nó không còn thuộc về chúng ta, chúng ta chỉ còn được sử dụng.

– Ở trong thành phố này, chừng như kẻ nào cũng ngoại tình cả.

– Cậu là một thằng hỏng.

– Chúng ta đều hỏng rồi…

– Không, cậu không phải là tất cả.

[Thắng, một người thành phố nói với người lính]

Tôi không hiểu những thực tế nào đã đến trong đời sống cậu, tôi nghĩ chắc chắn đó là một thực tế khốc liệt.

Cậu khắt khe với tôi quá, tôi nghĩ cậu đã quá độ trong một thực tế nào đó. Chúng ta đều ở trong một cái túi.

Trong xã hội chúng ta ngày nay chỉ toàn những người rao giảng, nhiều khi họ cũng không biết họ rao giảng để làm gì, và ngay điều họ rao giảng nữa họ cũng không biết. Tôi sinh ra để sống chứ không phải để rao giảng hay để nghe rao giảng.

[Trực] Có phải tôi là người bị dồn tới một chân tường ? Hay tôi là một con thú bị nhốt lại cho trở thành biến tính đi.

… Làm sao để một người còn lương tâm, còn những tin tưởng nào đó không nổ ra với thực tại, không phải là nổ ra với sự phá đám, vô chính phủ, nhưng mà là một nổ ra cho đổi thay trong mong ước.

[Nhân vật Thắng nói sẽ xuất ngoại]

– Nhiều khi tôi sống mấy ngày không về nhà. Gia đình bây giờ chừng như đã đổi khác, bọn mình quen sống ngoài đường. Kể ra không ở trong cuộc chiến tôi cũng có những thiệt thòi, tôi chẳng biết gì cả. Dù phải trả một giá nào đó nhưng cậu vẫn có một niềm kiêu hãnh

[Trực] Không, cậu đừng mong có một điều như thế. Cậu hãy coi sự thiệt thòi của cậu như một may mắn.

Ở trong các đô thị ngày nay không còn gì cho người ta giải trí nữa, trẻ con được dẫn tới những rạp chiếu bóng, được đẩy ra ngoài ngõ xóm, ở những nơi đó chúng biết những gì là thù hận, bắn giết, máu, nước mắt.

Những người lớn cho bọn con nít tham dự vào chính những gì họ sống, với con mắt tò mò, bắt chước.

[Hai nhân vật Trực và Cẩn trò chuyện]

[Thắng] Các ông nói toàn những điều tuyệt diệu.

[Cẩn] Đời mà, bao nhiêu là tang thương.

[Trực] Có phải mình đang sống trong ảo tưởng ?

– Còn bất công bẩn thỉu thì trận giặc này còn là muôn ngàn năm.

– Không còn cách mạng, không còn chiến khu nữa, bấy giờ mình trở thành quân tốt đen trên bàn cờ tướng. Bây giờ là kỹ thuật vận động quần chúng và kết hợp trong thế quốc tế.

Tôi trông đợi một đổi thay. Sống làm một người đường hoàng, tôi chỉ mong thế.

[Thắng sắp đi xa Thắng luôn khuyên Trực nên quên mọi chuyện đi. Trực vẫn không muốn bỏ tiền đồn]

Thắng tưởng mình như sắp bị cắt đứt ra khỏi một định mệnh.

clip_image008

Cho là người đã điên hỡi kể nổi loạn trong thành phố

(Khởi Hành – 1971)

Hắn chỉ là một kẻ điên trong xã hội chúng ta hay là hắn ở trong một xã hội điên ? Tôi vẫn cho rằng không phải tại xã hội hoàn toàn. Tại chúng ta, tại mỗi cá nhân chúng ta. Chúng ta không minh bạch trắng đen.

Chính là chúng ta đang sống trong một sự phá sản cùng cực, sự phá sản phẩm cách nơi mỗi cá nhân. Muốn tìm kiếm một đời sống mới, một xã hội mới phải khôi phục lại cá nhân.

Hắn đã chết trong một xã hội mà kẻ phản bội nói trung thành, kẻ dơ bẩn nói trong sạch, kẻ vô hạnh nói phẩm giá. Cuộc nổi loạn nói lên một tiếng nói sự khát khao, sự kêu đòi một lý tưởng.

Chúng tôi muốn được sống xứng đáng. Chúng tôi muốn được sống trong sạch. Tôi đã đi thực nhiều nơi, gặp thật nhiều người, nơi nào, chỗ nào, người nào cũng nói với tôi, lên án một cách khắc nghiệt những tệ trạng trong xã hội, nghe xong tôi nhìn quanh nhìn quất : ai cũng lên án, ai cũng chống lại điều đó, mà sao những tệ trạng vẫn nguyên.

clip_image010

Phía sau mặt trận

(Văn, số 182, 15.07.1971)

[Câu chuyện về những phế binh trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Nhân vật Lương]

Đoạn 1

– Ngay từ đầu, tôi đã thấy rằng những người lớp mình không có quyền có mặt nữa trong một xã hội mới. Và những người Cộng sản cũng vậy, cả hai đều đã đứng ở hai phía cực đoan.

Tôi ở quân đội, ai cũng biết không phải là 1 – 2 năm, cả 10 năm nay, tôi đã chiến đấu, nhưng tôi không mong muốn chiến tranh này, mình phải chấp nhận vì không muốn sống như một kẻ chui nhủi giữa đống rác và không muốn bị kêu tên ra giữa đồng vắng mà nhận cái chết. Trong tình thế khe khắt, anh phải lựa chọn trong sự không toàn vẹn… Diều hâu, những kẻ nói mình như vậy, mà không biết xấu hổ. Thế họ là cái gì, họ là bồ câu chắc, không đâu, họ là một thứ dòi bọ gì thì đúng hơn.

Đoạn 2

[Nhân vật “Tôi”]

Ba năm trời rồi, có hôm nhìn lại, tôi rùng mình, đã ba năm tôi không biết tới cái giường của riêng mình. Với đời sống quân ngũ, cắm trại, ứng chiến, rồi những chuyến đi không ngừng tách tôi ra khỏi một đời sống cố định

[Nhân vật “Tôi” ra một mặt trận Nam Lào (Sepon) ; những mẩu chuyện chán đời rút chạy]

Đoạn 3

Tôi nhớ lại một lá thư, một đứa con ở Bắc gửi cho người bố đi Nam : Đứa bé kể bao nhiêu lá thư đi, không có thư về ; cái đồng hồ Jaz không ai chữa.

Nhớ lại một lá thư “gửi cho cụ Hồ Chí Minh” đọc ở đâu đó. Nhất tướng công thành vạn cốt khô.

Đoạn 4

[Về Sài Gòn : Những người bạn văn nghệ, một người đọc câu thơ “Chết như bọn ta hồn thành cọp“]

Như kẻ bị lưu đày, tôi hiểu ra những cay đắng trong đời mình. Tôi cũng không còn gì nữa để mất, như là tôi đã mất hết.

– Trong những khu rừng xơ xác, người lính có thể bỗng nhiên tìm thấy giữa những bụi lá, những trái cà phê đỏ tươi như giọt máu, hay nơi những thân cây một bụi lan rừng trổ bông kỳ lạ… Một người bạn nói : Sau này khi yên mình sẽ lên đây khẩn hoang. Chúng tôi cùng phá lên cười. Bao giờ cho mộng của anh là sự thật ?

clip_image012

Trong hồi tưởng lạnh

(Văn, số 196)

[Một đám sĩ quan được gửi đến một tiền đồn tăng cường]

Trực nghĩ :

– Thời loạn, những đòi hỏi và thực tế con người. Mình cũng đã chọn một đời sống đã chết. Sao mình không làm khác ? Làm gì ?

Trực nhớ tới người con của ông chú, thi xong tú tài nó học cầm chừng và chơi bời, la nó, nó nói nhẹ nhàng, đằng nào rồi cũng vào lính, chỉ có chờ, chỉ có trước hay sau… Trực nghĩ tới vô số người khác cùng lứa tuổi với mình, chỉ có một nơi chờ họ tới, trại lính… Tương lai sáng lên những u tối của một thời đại liên tiếp những biến đổi, liên tiếp kéo tới những số kiếp đồng dạng bi thảm nhoa nhuếch những máu và nước mắt.

… Thực nhiều khi tôi không còn muốn viết gì nữa, mỗi điều ở ngoài nơi đây tôi không cần biết tới.

… Trong những thứ buộc phải lựa chọn thì mình lựa chọn cái nào khá hơn.

Tôi chỉ có những nàng tiên trong ổ đĩ, chỉ có những thoáng nhìn tội nghiệp, chỉ có một đời sống mồ côi và thực tế cơm áo. Tôi không có gì khác ngoài một thực tế tầm thường.

Trực tự hỏi :

– Tại sao không có một lịch sử nào cho mình, tại sao mình lại thấy phải bước vào con đường này : Một mơ ước phiêu lưu ? Một lựa chọn vô lý ? Một thực tế cùng quẫn ? Một hy vọng lười biếng ? Một chuyện tình cho mình có thể bỏ đi như một hành lý cần thiết là một hạnh phúc mà mình cũng không có.

… Không khí những người chung quanh mang đến cho Trực một niềm vui, ở đâu cũng thế. Trong những năm trôi nổi, chàng chỉ thấy có tình bạn. Những người không quen biết ở nơi này nơi khác bỗng tới đứng bên nhau, đi bên nhau, chiến đấu bên nhau thân thiết như chân tay.

clip_image014

Nguồn: http://vuongtrinhan.blogspot.com/2012/11/xa-hoi-va-chien-tranh-o-mien-nam-truoc.html

Ảnh minh hoạ: https://www.ttxva.net/xa-hoi-va-chien-tranh-o-mien-nam-truoc-1975-qua-ky-su-cua-duong-nghiem-mau/

Một bài ký viết về Trị Thiên 1972 của Dương Nghiễm Mậu

Lời dẫn

Như tôi đã kể trong một vài lần trước, mấy năm từ 1972 trở đi, các báo lớn ra ở Sài Gòn có mặt rất sớm Thư viện quân đội 81 phố Lý Nam Đế Hà Nội.

Tháng 9- 1972, từ Quảng Trị trở về, tôi đọc được ở đó hai bài ký Một ngày ở Trị Thiêncủa Ngụy Ngữ, tạp chí Bách Khoa số 376 (khoảng tháng 6, tháng 7 1972) và Quảng Trị đất đợi vềcủa Dương Nghiễm Mậu, Chính văn số 1, 15-7-72.

Bài của Ngụy Ngữ kể tác giả theo một xe con vào Huế, ra Mỹ Chánh, Hải Lăng. “Đến Diên Sanh xe không đi thêm được; quân dù động chạm súng trên quốc lộ cách 1km”.

Đọng lại trong tôi là cái câu than tiếc của tác giả “Có nơi đã được sinh ra đời, có nơi tôi đã ấu thơ lui tới, có nơi tôi đã cười cợt với bạn bè… tất cả bây giờ là một miền vỏ đạn.”

Tiếc là hiện nay tôi không có trong tay Bách Khoa để đọc lại Ngụy Ngữ.

Còn bài của Dương Nghiễm Mậu, tôi cũng đọc trong tinh thần đối thoại trước một hiện tượng mà mình cùng chứng kiến.

Quê hương ta những vùng đất hứa có thật vẫn còn đó nhưng chừng như lúc nào cũng ở ngoài tầm tay với…” Tôi đã ghi lại câu này trong sổ tay 1972, vì nó như vang hưởng của cả bài mà cũng vì … chính tôi cũng có lúc có ý nghĩ tương tự.

             So với Bách Khoa, thì Chính Văn là tờ báo không mấy người biết, nhưng may mà một vài mạng hôm nay do chú ý tới Dương Nghiễm Mậu còn in lại Quảng Trị đất đợi về để tôi lấy lại giới thiệu sau đây, xin phép tạm gọi gọi là phụ lục cho những trang Nhật ký Quảng Trị hè 1972.

                                             Quảng Trị, đất đợi về

Mỗi lần trước khi trở lại miền Trung, điều tôi thường hỏi: ngoài đó bây giờ mưa hay nắng. Lần này cũng thế, người em tôi vừa từ Huế trở về sau hai mươi ngày công tác nói: trời đang nắng và thành phố đầy hoa phượng, hoa sen. Bây giờ ngoài đó mùa hè và tôi nhớ tới không khí oi bức trong những chuyến đi cũ vào những thời gian đầu mùa hè: hoa phượng đỏ trên những ngọn cây, hoa sen nở đầy trong hồ Tĩnh Tâm, chung quanh trường thành, những trái nhãn nhỏ sai trên ngọn cây trong Thành nội. Nhưng khi tôi đặt chân tới Đà Nẵng, buổi chiều mây thấp và mưa nhỏ hạt. Người bạn nói với tôi trời mới đổ mưa từ buổi sáng. Tôi nhìn thấy mây thấp trên phía đèo Hải Vân. Đà Nẵng mưa thì chắc Huế mưa. Tôi hỏi về con đường qua đèo, người bạn nói: đi được như thường, hôm qua hơi bị kẹt vì cầu Nam Ô bị gẫy. Tôi hỏi cây cầu nào. Anh bạn nhắc lại: cầu Nam Ô. Tôi nói không phải, tôi biết ở đó có hai cây cầu, tôi muốn biết cầu nào vì trong chuyến đi trước, cây cầu mới xây cất, thứ cầu cho những xa lộ chưa dùng được, hôm trước đã có tin cho biết cầu Nam Ô bị sập, nhưng là cây cầu cũ, cầu xe lửa, người bạn nói, bây giờ thì cả hai nhưng đang được sửa chữa. Trời mây thấp, mưa nhỏ hạt, những di chuyển ướt át khiến cho thị trấn có một khung cảnh đìu hiu.

Tôi gởi hành lý lại nhà người bạn rồi chạy quanh, vẫn khung cảnh quen thuộc, thêm một vài ngôi cao ốc đang được xây cất nhưng chừng như công việc đã ngừng lại, những trường học trở thành trại tạm cư. Tại trường nữ, tôi thấy những nữ học sinh ngồi gác cổng ra vào trong khi đó có một gia đình thì chất hành lý lên hai chiếc xích lô, tôi hỏi và được biết: họ dời ra trại Hòa Khánh. Trại tạm cư Nguyễn Thượng Hiền cũng đã đóng cửa với tấm vải lớn kẻ những hàng chữ cho thấy những người tị nạn đã ra sống ở trại tạm cư Hòa Khánh. Đi bộ trên đường phố tôi thấy số xe ôm gia tăng với những chiếc xe ghé lại lề đường. Buổi chiều báo từ Sàigòn ra trễ và những nhà sách đông người ghé lại đợi chờ những tờ báo phát hành từ chiều hôm trước tại Sàigòn… Tôi ghé lại nhà những người quen, nơi nào cũng có những người thân từ Quảng Trị, từ Huế vào tạm trú, một vài người đã trở lại Huế, hoặc đi Sàigòn, tôi được nghe nói về những người tị nạn đã vào Chu Lai, đã đi Long Khánh. Một gia đình trong khi chạy khỏi Quảng Trị đã bị thất tán, một nửa vào được Đà Nẵng, còn một nửa không biết đâu, những người thân đang đi tìm kiếm nhau. Đài phát thanh Đà Nẵng với mục nhắn tin đài của những người ở Quảng trị tìm tin cha, tìm mẹ, chồng con thất lạc. Có những đứa trẻ tám chín tuổi bị lạc gia đình trên đường chạy giặc. Theo dõi mục nhắn tin tôi thấy nỗi tan hoang đối với hơn ba trăm ngàn dân chúng vùng giới tuyến.

Trại tạm cư lớn nhứt ở Đà Nẵng dành cho Quảng Trị nằm ở Hòa Khánh, một quận ở ngoài thị xã, nằm phía nam đèo Hải Vân, ngay ven quốc lộ Một. Tôi ngạc nhiên khi vừa từ thị xã tới đây lúc đứng trước một ngã ba đường có tấm bảng lớn sơn xanh, kẻ trắng hàng chữ: QUẬN GIO LINH. Quận Gio Linh, tôi nói với người bạn: quận Gio Linh ở Đà Nẵng! Tôi nhớ tới nơi tôi đã từng ghé lại trong những năm trước trên đường công tác. Ngày ấy tôi theo quốc lộ Một vượt Đông Hà ra tới đồn A2 nằm ngoài cùng giáp với vùng phi quân sự sau khi quân đội ta đã bỏ chân cầu Hiền Lương trở vào trấn đóng phía trong gần với quận Gio Linh. Trên con đường đầy những bom đạn tôi chỉ thấy những cánh đồng hoang vu không bóng người, dân chúng đã phải rời làng mạc trở vào sống trong khu định cư Hà Thành, còn lại chăng một số thôn ấp nhỏ bé nằm ở giữa quốc lộ với bờ biển, còn lại phía Tây quốc lộ thì coi như bình địa với vùng oanh kích tự do. Nay Gio Linh chỉ còn là tên gọi của một vùng đất. Hai tiếng Gio Linh đã đi theo dân chúng vào Đà Nẵng. Bỏ quốc lộ đi sâu vào gần bờ biển, nơi đây có hàng trăm lều vải mới được dựng lên cho dân chúng tạm trú. Người trưởng trại ngày nay là ông quận trưởng của vùng đất cũ. Vị thiếu tá này người nhỏ bé trong bộ đồ đen nói cho tôi biết qua tình hình dân chúng, ông không thể đoán chắc về số dân chúng tại Gio Linh đã ra đi, vì hiện dân chúng không những chỉ sống tại Đà Nẵng, họ còn vào Chu Lai và nhiều nơi khác nữa, con số phỏng chừng khoảng 28 ngàn người ra đi so với dân hơn ba chục ngàn người. Ông kể lại cho tôi nghe những ngày kinh hoàng ở Quảng Trị khi đoàn người rời khỏi nơi đây để vào Huế: cả đoàn xe bị mìn và pháo kích, nhiều người bị thương phải nằm lại với tiếng kêu la thảm thiết…

– Ông thấy dân chúng có muốn đi vào lập nghiệp ở trong Nam không?

– Phần lớn dân chúng không muốn đi, họ mong trở lại Gio Linh.

Khi tôi từ trong lều đi ra thì có một người đàn ông giữ tôi lại và hỏi tôi có phải nhà báo không? Tôi nói không phải. Ông ta nói điều muốn nhờ. Tôi nói cho tôi biết. Sau đó ông ta giới thiệu là một người thuộc làng Gia Hải, một làng phần lớn sống bằng nghề chài lưới tại Cửa Việt, tôi ngạc nhiên khi biết dân chúng tại làng này đã cùng nhau xuống thuyền đi về phía Nam bằng những chiếc thuyền đánh cá nhỏ bé của họ. Điều mà người này muốn nhờ tôi là: tranh đấu cho họ được ở lại Đà Nẵng sinh sống, họ chỉ cần giúp đỡ lương thực một tháng đầu rồi sẽ tự túc bằng nghề đánh cá của mình. Sau đó ông ta cho tôi thấy, dân chúng tại Gia Hải đưa được vào Đà Nẵng 150 chiếc thuyền, chuyến ra đi của họ hết sức gian khổ, trước hết khi ra khỏi Cửa Việt họ đã bị cộng quân ngăn cản, súng đã nổ vào đoàn thuyền, một số dân chúng đã không ra đi được vì những làn đạn này, nhiều người đã bị thương và chết trong chuyến ra đi, trước hết họ tới được cửa Thuận An. Sau đó tới Thuận An vào trong bãi biển Đa Phước. Khi tôi nói tới chuyện đi vào miền Nam ông ta nói chính phủ có thể mang được người đi nhưng còn thuyền bè của chúng tôi thì sao, chúng tôi sống bằng nghề biển như vậy làm sao để thích ứng với nghề nông trong khu vực khai hoang? Chung quanh tôi mỗi lúc một đông người, mỗi người góp một câu chuyện, ai cũng trông được sống ở Đà Nẵng và chờ ngày trở lại quê hương của họ, tôi cũng đã được nghe câu chuyện thương tâm của một người mẹ kể lại cái chết của con mình trên chuyến đi Nam, đứa con của bà đã chết trên chiếc thuyền của gia đình trong khi vượt biển vào cửa Thuận. Tôi mường tượng thấy cảnh tượng bi hùng của chuyến ra đi, cảnh tượng giống như những người dân miền Bắc trong vụ Trà Lý, những người đã chọn để được sống tự do hoặc là chết… Gần hai mươi năm sau, cảnh tượng đó lại tái diễn một lần nữa.

Câu hỏi mà tôi hỏi đi hỏi lại nhiều lần với những người đã gặp là: tại sao không nghĩ tới việc vào các vùng đất an ninh, phì nhiêu ở Nam lập nghiệp? Tất cả đều nói: chúng tôi chờ đợi trở về. Trở về, họ như gắn liền với đất đai khô khan cực nhọc, họ không muốn rời khỏi quê hương nơi có những mái tranh nghèo, những mồ mả tổ tiên, nơi họ đã sinh ra lớn lên trong nhọc nhằn. Trước đây, ngay từ thời Đệ nhất Cộng hòa, công việc di dân lập ấp được đặt ra, dân chúng tại đây cũng đã từ khước ra đi, ngày nay họ vẫn không thay đổi ý muốn đó. Chừng như quê hương càng đau khổ, đời sống càng nhọc nhằn người dân càng gắn bó keo sơn với nó. Vùng Gia Đẳng, Gia Hải… những vùng cát trắng khô khan kia vẫn còn lại những gì mà người dân thấy không thể bỏ nó mà ra đi được cho dù họ biết chắc rằng ra đi họ sẽ có một nơi sung sướng hơn, đầy đủ hơn.

Những gia đình với hành lý nghèo nàn người dân ở trong trại tạm cư chia nhau những diện tích nhỏ hẹp để sống, những trẻ con vẫn nô rỡn trên bãi cát, những bà mẹ vẫn nhẫn nại nhóm những bếp lửa nhỏ lo bữa ăn đạm bạc hàng ngày. Tôi thấy chiếc áo màu của một sinh viên ra đây lo cứu trợ như lạc lõng với khung cảnh.

Trại tạm cư Hòa Khánh lớn lao hơn nhiều trại tạm cư dành cho người thuộc quận Gio Linh. Nơi đây bao gồm dân chúng thuộc nhiều quận, phần lớn họ được sống trong những ngôi nhà tôn của một trại binh Mỹ. Những con đường trong trại tráng nhựa phẳng lì còn tốt nguyên vẹn, nhưng những ngôi nhà thì phần lớn đã hư vì thời gian, nhiều vách gỗ đã bị gỡ, những bao cát phần lớn đã mục khiến cho khung cảnh có vẻ điêu tàn. Ngay trong những ngã tư đã có những hàng quán giải khát, dân chúng như đã thấy bắt tay ngay vào việc tìm sống. Nhiều người lo đi tìm kiếm những người quen, người ra kẻ vào tấp nập. Đại tá Hòa, người tôi gặp lúc ông cầm đầu một phái đoàn, là vị tỉnh trưởng Quảng Trị. Ông mới về làm tỉnh trưởng được ba tháng, nay ông đã ở Đà Nẵng với những người tị nạn. Trông ông thấy phảng phất một vẻ buồn. Dân số Quảng Trị có hơn ba trăm ngàn, con số còn bị kẹt lại khoảng 50 ngàn, tôi thấy số dân chúng ra đi thật lớn lao và thực sự là đau đầu với chính người cộng sản khi tới chiếm Quảng Trị. Họ phải nói thế nào với quốc tế và điều họ vẫn nói: dân chúng ủng hộ họ và về chiêu bài giải phóng vẫn không ngớt được nói đến. Không, dân chúng đã ra đi khi bom đạn và người cộng sản đến. Không có dân, đất đai còn có nghĩa gì nữa?

Người thanh niên ấy có nước da ngăm đen, vẻ ngơ ngác trên mắt nhìn, gò má cao, cằm vuông anh hơi chút mỉm cười ngậm ngùi khi tôi hỏi anh về chuyến hành trình đã trải qua. Anh lặng đi rất lâu, giọng anh trầm xuống, có lúc tôi chỉ thấy môi anh mấp máy và như tiếng nói biến mất: trước hết chúng tôi về Quảng Trị, thực chúng tôi không nghĩ có lúc sẽ ở đây, nếu biết vậy chúng tôi đã đi thẳng tới đây, chúng tôi không ai nghĩ thế cả, nhưng rồi chúng tôi phải đi khỏi Quảng Trị, ngày đó là ngày mấy nhỉ, không rõ là 28 hay 29 gì đó, mà chừng như…, phải rồi, pháo kích, rồi mìn anh ạ, rồi cả một cuộc giao tranh nữa, những chiếc xe nổ tung, những thân người văng lên, tan tác những tiếng kêu khóc thảm thiết, mạnh ai nấy chạy, không còn ai nghĩ tới chuyện cứu ai nữa… Chúng tôi chạy, chỉ biết chạy thế thôi… với hai bàn chân chúng tôi tiếp tục đi, trước hết là Huế, sau tiếp tục đi nữa, không, anh không thể hiểu được nếu anh không cùng chúng tôi trong chuyến ra đi ấy, chúng tôi có cảm tưởng như ngay sau chân chúng tôi cộng sản bén gót. Chúng tôi như tranh nhau lấn bước về phía trước, người ta có phương tiện để đi, chúng tôi thì không, quốc lộ như thế mà bốn hàng xe chạy thì anh thử hỏi làm sao chúng tôi len chân, và trên dọc đường ấy người ta như đứng lại với nhau, không còn trật tự nữa, thỉnh thoảng súng lại nổ và người nháo nhác… Tôi đã thấy ngay trước mắt tôi chiếc xe lật xuống đèo và những người chết, tôi đã thấy những bà mẹ kêu gào tìm đứa con thất lạc… Tôi không hiểu tại sao sự việc lại xảy ra như thế, bây giờ nhìn lại tôi càng thấy vô lý, bọn nó chưa tới được vòng đai mà sao mình đã bỏ lại hết để chạy… Tôi lạc mất một người em gái, cho đến hôm nay tôi vẫn không hiểu nó còn sống hay đã chết phơi xác dọc theo quốc lộ…

Người thanh niên lặng đi, đôi mắt nhìn xuống trũng bóng tối. Tôi không còn biết có lời nào để nói với anh. Tôi nhớ lời anh Cường kể lại chuyến đi của chính anh, thực anh chưa muốn đi nhưng sau nhìn lại thấy mọi người đi hết thì anh sợ, người anh nghĩ chưa đi là anh Du thì anh đã thấy lên trực thăng đi rồi, cuối cùng anh phải đi chiếc xe cũ đưa anh lên đèo nhích từng chút, có lúc xe không đứng lại được mà tụt xuống, đi từ sáng cho mãi tới 9 giờ tối mới vào tới Đà Nẵng, trên đường anh đã thấy những người lính nổ súng bắt xe cho họ lên, anh đã thấy một bà cụ già ngồi trên một tấm gỗ có gắn bánh xe tay bám lấy chiếc dây thừng buộc vào chiếc xe đạp của người con đạp phía trước… Mường tượng tới cảnh ra đi, quãng đường Quảng Trị-Huế-Đà Nẵng trở thành một cuộc trường chinh cho người dân Trị Thiên, tôi nghĩ nếu con đường đèo bị cắt, hay một cuộc phục kích xảy ra thì họ sẽ ra sao?

Trời mưa nhỏ hạt suốt đêm, sáng hôm sau trời vẫn thấp mây, tôi mang theo hành lý để tới Huế như dự định, trước khi đi tôi ghé lại thăm anh Lam, tôi nghĩ anh nắm được nhiều dữ kiện về những sự việc đã xảy ra. Tôi thấy anh hết sức bình tĩnh và nói với tôi về công việc anh đang làm, giúp vào công việc đưa dân chúng Quảng Trị vào miền Nam theo chương trình di dân khẩn hoang của chính phủ, anh cho thấy dân chúng không muốn đi riêng, họ muốn đi cả quận, cả làng. Anh cũng nói tới hoạt động của các đảng phái một cách lạc quan. Khi hỏi anh: ai ra lệnh rút khỏi Quảng Trị, anh nói không phải Tướng Lãm ra lệnh. Anh cười khi đặt với tôi một vài vấn đề sau khi rút khỏi phần đất này, việc oanh tạc Bắc Việt, việc thả thủy lôi xuống các cửa biển và sông ngòi miền Bắc…

Tôi ra bến xe, trời mưa nhỏ, tôi chờ cho những chuyến xe từ Huế vào tới nơi thì leo xe trở ra. Tôi thường theo cách đó để có thể yên tâm lên đường mỗi khi ra đây công tác. Chuyến xe quen thuộc màu đen với mười chỗ ngồi, số người trở ra Huế chờ đợi từng chuyến xe đến và trong chốc lát lên đường trở ra. Đường ra khỏi thị xã xe cộ đủ loại nối đuôi nhau, có hàng trăm xe vận tải đưa đạn vượt qua đèo. Trước khi tới cầu Nam Ô xe bị đọng lại với sự chờ đợi oi bức, xe nhích từng khoảng ngắn. Khi ngang qua tôi thấy dòng sông rộng. Cây cầu xi măng bị hư một nhịp đang được sửa chữa và hiện có một cầu tạm bắc lên cho xe cộ lưu thông. Cầu Nam Ô là cây cầu xe lộ độc nhất được hãng thầu Mỹ làm cho suốt dọc quốc lộ từ Đà Nẵng tới Huế, cầu Lăng Cô là cầu cũ được sửa lại, còn hầu hết những cây cầu khác được làm bằng gỗ ở đây đã bị phá sập, những chiến sĩ công binh đang lo đắp một con đường vòng và sửa lại cây cầu. Chiếc xe tôi đi chạy hơi ra ngoài bị chận lại, như một hình phạt không được qua, người tài xế bứt đầu bứt tai nhìn những chiếc xe chạy sau vượt lên phía trước, tôi thấy nhiều xe chở hàng không có mui chở đầy người, đó là những gia đình ở Huế trở lại nhà, họ mang những hành lý. Có những chiếc xe có mui thì người ngồi cả trên mui cao, trên quãng đường này tôi cũng thấy nhiều xe chạy đường xuyên Việt, từ Quảng Trị tới Sàigòn, nhưng vì biến cố trong những ngày qua đã khiến cho những chuyến xe này không thể trở lại Sàigòn được. Những chuyến xe sẽ thương nhớ đường dài… Mưa vẫn đổ mau hạt trong khi xe qua đèo, con đường rộng, nhựa phẳng trở thành nguy hiểm, tôi nghĩ tới những ngày tháng trước khi đoàn người tỵ nạn phải ngang qua đây. Một trăm cây số của đường dài những lo âu chất ngất và nỗi kinh hoàng nhìn về ngày mai… Vùng biển Lăng Cô làm tôi nhớ lại mộng ước được về sống trong một xóm dân chài của Ninh Hòa, hai tiếng Hòn Khói vẫn còn ghi nhớ với những cồn cát trắng như tuyết và những ngọn dương cao cùng với biển xanh bao la phía trước… Quê hương ta những vùng đất hứa có thật vẫn còn đó nhưng chừng như lúc nào cũng ở ngoài tầm tay với…

Cầu Phú Lưu bị sập nhưng vẫn di chuyển một chiều, khoảng đường từ phía chân đèo trở lại Huế tôi thấy nhiều binh sĩ thuộc Sư đoàn 3, họ có mặt nơi những chiếc cầu còn lại. Trên một thành cầu sắt của đường xe lửa tôi nhìn thấy hàng chữ: bảo vệ cây cầu tới giọt máu cuối cùng. Tôi buồn rầu nghĩ tới những cây cầu đã gãy. Tôi nghĩ tới những cây cầu gỗ trên quốc lộ 9 nối Đông Hà tới biên giới và trên quốc lộ 1 Gio Linh tới Đà Nẵng.

Năm 1968, khi tôi theo quốc lộ 9 lên Cam Lộ, nơi có trên 6 ngàn dân chúng quận Hướng Hóa từ trong núi về tị nạn, trong số này phần lớn là sắc tộc Bru. Bấy giờ trận chiến ác liệt ở Khe Sanh, trong khi xe ủi đất Mỹ làm việc không ngừng, họ mở rộng đường trải đá, trải nhựa và làm cầu. Tôi tự hỏi như vậy có phải con đường sẽ được dùng để sang Lào không? Năm 1970 trở lại, cả vùng đã hết lính Mỹ, chúng tôi dùng xe díp chạy từ Quảng Trị lên Cam Lộ uống cà phê và nói chuyện hòa bình, ngày lên xin đất mở đồn điền trên Khe Sanh… Tôi nghĩ tới những cây cầu và hỏi: những cây cầu bằng gỗ này chịu đựng được bao nhiêu năm? Tại sao không phải là cầu xi măng? Không ai trả lời. Và tôi cũng đã hỏi: sao Mỹ làm con đường này tốt vậy mà không dùng? Và câu trả lời mãi tới khi có cuộc hành quân sang hạ Lào tôi mới thấy, mỗi ngày hàng trăm xe đạn dược theo đó mà tới Khe Sanh. Nói tiếp về những cây cầu tôi cũng thấy từ Gio Linh vào Huế chỉ có một cây cầu mới đúc, còn hầu hết là cầu gỗ. Và bây giờ tôi lập lại câu hỏi: những cây cầu chưa bị phá sẽ còn chịu đựng được bao nhiêu lâu?

Phú Lộc, La Sơn, Phú Bài, Phú Lương, Dạ Lê, An Cựu… và cầu Trường Tiền. Huế vẫn còn đó, một sinh hoạt lặng lẽ, nhiều căn nhà cửa đóng nhưng có toán công nhân sửa đường vẫn làm việc, những người thợ nề vẫn tiếp tục chát vôi nơi bệnh viện trung ương đang xây cất… Hoa phượng đỏ như máu trên những con đường hai bên bờ sông, trong Thành nội, ghe thuyền đầy trong lòng sông nhà bè và vùng Bao Vinh không khí như thưở thanh bình, tôi nghe thấy một không khí chìm chìm nhưng đầy đe dọa. Tôi tìm gặp lại những người bạn cũ, gần hết đã ra đi. Anh Tấn bây giờ nuôi râu dài như một đạo sĩ, anh Du như già hơn mấy tuổi, anh nói lại một ngày từ sở làm ra đường tìm xe về nhà, phố vắng tanh, không một chuyến xe khiến anh ngao ngán thấy mình như con chó hoang, và mắt anh như rưng rưng khi kể lại chuyến bay đưa anh khỏi Thành nội trong không khí nháo nhác tan vỡ. Bây giờ thì anh đã trở về một mình sống như mình muốn sống. Thục nói: ở lại với ý nghĩ ngông cuồng làm kẻ tuẫn đạo… Liệu có mất Huế không?

Cộng sản có đánh Huế không? Tại sao Huế không bị pháo kích? Những câu hỏi đặt ra mà không ai dám trả lời khẳng định, ai cũng có ý kiến nhưng sao đó là cái mỉm cười ngụ ý… Thành phố đầy những lính, đủ màu áo, hình như không thiếu một binh chủng nào, ít hoặc nhiều họ đều có mặt. Tôi gặp lại những người bạn trong quân đội những ngày cũ. Những hàn huyên không hết về kẻ sống người chết, những người ở An Hậu, những ngày ở Phú Thứ, những ngày trong Dãy Phố Buồn Hiu, những ngày ở Khe Sanh, những ngày rong chơi yên bình trong những làng xóm ở Triệu Phong nói chuyện về những nàng cung phi sinh trưởng ở Sải, và vẻ đẹp tây phương của những cô gái ở Mỹ Chánh, dòng sông mà người bạn tôi nói nửa đục nửa xanh, nơi những thuyền bè tây phương từ thế kỷ trước đã vào đó…

Trên máy bay nhìn xuống quốc lộ 1 chỉ thấy một dòng xuôi về Nam hỗn độn…

Buổi chiều mưa thật lớn, người bạn nói với tôi cơn bão đang tiến tới. Một người bạn nói với tôi về Huế: đất gì lạ, một năm ở đây thì có ba tháng để tranh đấu, ba tháng để chịu tai ương, ba tháng để cứu trợ, còn ba tháng để làm thơ. Điều người bạn nói thực đúng với thời gian 10 năm trở lại đây, Huế đầy những tai ương và đau khổ, cơn ác mộng Mậu Thân với hàng ngàn người bị chôn sống vẫn còn ám ảnh tôi những người sống sót, đó là một trong những điều giải thích vì sao họ đã lũ lượt kéo nhau ra khỏi Huế dù thực sự chiến tranh chưa đến.

Tôi theo xe người bạn ra khỏi Huế, hiện đang có những cuộc chuyển quân vào phía Tây và phía Bắc, những chiến sĩ Thủy Quân Lục Chiến đã đột kích ba lần vào vùng đất Quảng Trị, nhưng sông Mỹ Chánh vẫn là chiến tuyến. Quốc lộ 1 chạy về phía Bắc vắng hoe, chỉ có những xe nhà binh di chuyển với vận tốc nhanh hơn thường ngày, những cánh đồng ở Hương Điền vẫn có bóng người nông phu, thiên nhiên vẫn như một ngày thanh bình cũ. Trong phòng tuyến, tôi hỏi một anh bạn: bao giờ qua bên kia? Người bạn cười, định qua rồi nhưng mưa nên ngừng. Sao vậy? Hết mùi thối rồi… Tôi không hiểu. Người bạn nói: Mấy hôm trời nắng, gió Nam thổi hôi quá chịu không nổi tính hành quân để chôn xác chết của mấy trận, nhưng mưa rồi nên đỡ.

Tôi rùng người và thấy như đầy mùi tử khí. Tôi mường tượng tới khoảng đường còn lại để tới Quảng Trị, những làng mạc và đồng ruộng ngày nay còn ngổn ngang những xác người đã nằm xuống trong những ngày trước, nắng lửa làm cho những tử thi trương lên và bây giờ những cơn mưa làm cho tan rã… Đêm lại cơn mưa lớn. Tôi cùng người bạn ngồi trong quán cà phê, chút rượu khiến cho chúng tôi ngây ngất. Trên chiếc xe nhỏ chúng tôi đi trên những con đường vắng không có bóng người, chỉ có những tàn cây và bóng tối, thỉnh thoảng mới gặp những người lính ướt nước. Tường thành lầm lì, những bãi cỏ tranh cao với bông trắng, tất cả như thầm thì một tâm sự. Không khí lặng như một cõi chết nào. Thiên nhiên kia còn nghĩa gì khi không còn những mắt nhìn chan chứa, không còn nhịp tim rộn ràng? Tôi như nghe thấy tiếng thở dài của những cánh sen hồng về nỗi tàn tạ. Mùa hè đã đến rồi đấy nhưng như đã mất vì không có tiếng guốc khuya trên cầu, hoa phượng đã nở đỏ nhưng không còn là màu của nắng lửa, nó trở thành những vũng máu đọng chờ khô của một cái chết.

Người bạn nói: Tôi ở lại đây và tôi chờ ngày vào Quảng Trị.

Tôi nhìn người bạn.

Nguồn: http://vuongtrinhan.blogspot.com/2012/08/mot-bai-ky-viet-ve-tri-thien-1972-cua.html

Comments are closed.