Nguyễn Mộng Giác
Trước mặt tôi là bản tin cho biết ngày 27 tháng tư năm 1988 vừa qua, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã đưa một số văn nghệ sĩ tên tuổi ra tòa án nhân dân xử tội và kết án tù những người này theo tội danh “liên lạc với nước ngoài, tuyên truyền phản động chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa”. Theo bản tin này, nhà văn Doãn Quốc Sỹ bị kết án 9 năm tù, nhà văn Hoàng Hải Thủy bị án 8 năm tù, ca sĩ Khuất Duy Trác 4 năm tù. Hai nhân viên bưu điện làm trung gian chuyển tác phẩm của các văn nghệ sĩ kể trên ra nước ngoài bị tội tòng phạm, mỗi người lãnh án 2 năm tù.
Đối với một độc giả bình thường ở một nước dân chủ, bản tin không làm cho ai ngạc nhiên. Những nhà thương điên, những trại lao động khổ sai, những vụ trục xuất, những ruồng xét khủng bố, những trường hợp như Solzenitsyn, Pastemak, Kundera… được báo chí sách vở trên thế giới nói nhiều, đến nỗi người ta chỉ ngạc nhiên nếu một người cầm bút dưới chế độ cộng sản tự xuất bản được một tập thơ ca tụng Tự Do, hoặc một tiểu thuyết gia phổ biến được một cuốn truyện ca tụng Con Người. Tù đày, khủng bố đã trở thành thuộc tính của chính sách văn nghệ dưới chế độ cộng sản, đến nỗi trở thành hiển nhiên, không còn ai ngạc nhiên nữa.
Tuy nhiên, bản tin trên làm cho tôi băn khoăn thật lâu, nhất là bản án dành cho một nhà văn đàn anh tôi hân hạnh quen biết và kính phục là Doãn Quốc Sỹ.
Trong các nhà văn lớp trước, tôi cho rằng Doãn Quốc Sỹ và Võ Hồng là hai cây bút có văn phong lãng mạn và một tâm hồn đôn hậu rất Việt Nam, cái chất Việt Nam nhân ái hiếu hòa, cần cù lương thiện, hớn hở vui mừng khi gặp người đồng điệu, mà cũng dứt khoát phẫn nộ nói ra thành lời khi gặp chuyện bất bằng, cái chất Việt Nam chưa bị những lý thuyết ngoại nhập làm cho thui chột để trở thành tàn nhẫn, độc địa, lai căng, lưu manh, lố bịch. Thế giới tiểu thuyết của Võ Hồng không có người đáng ghét, chỉ có đa số những người hiền, một thiểu số rất nhỏ còn lại là những kẻ đáng thương.
Thế giới tiểu thuyết của Doãn Quốc Sỹ cũng vậy. Tuy là một trong những người sáng lập ra nhóm Sáng Tạo, ông như một người anh cả ngồi riêng một góc nhìn bạn bè cùng tuổi hoặc nhỏ tuổi hơn lớn tiếng đòi tắt mặt trời, tát cạn biển, giương cao cờ; khói thuốc lá phun mù phòng khách, chai bia rỗng vất khắp nền nhà, để rồi khi tàn cuộc, bạn bè lăn quay ra ngủ, người anh cả lặng lẽ thu dọn những gạt tàn thuốc, những rác rưới lẫn lộn với quần áo bẩn, và đắp lên người họ những tấm chăn ấm.
Nhiều người trong giới cầm bút khen và cũng chê tính đôn hậu trong tiểu thuyết Doãn Quốc Sỹ. Họ lý luận rằng ông đôn hậu quá nên nhân vật tiểu thuyết của ông đẹp nhưng có vẻ không thực, ông không lột hết được bản chất phức tạp của cuộc đời, bản chất hàm hồ của con người, bản chất tàn nhẫn phi lý của lịch sử. Khi xây dựng nhân vật, Doãn Quốc Sỹ thường không lưu tâm moi móc những ngóc ngách xấu xa của họ. Trái lại, ông lưu tâm tô điểm những nét đẹp của họ. Những Kha, những Miên, những Hãn, những Khiết của Khu rừng lau, những Thiệu những Yến của Dòng sông định mệnh, tuy mang cái thao thức rất – lịch – sử, nhưng lối sống của họ, lối nói năng của họ phảng phất lối nói lối sống của những Dũng, những Loan, những Độ, những Hào của Đôi bạn, Đoạn tuyệt. Cùng một nhóm Sáng Tạo, những tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ khác một trời một vực với Bếp lửa của Thanh Tâm Tuyền, Tùy bút của Mai Thảo.
Không phải Doãn Quốc Sỹ, như một nhà nho cuối mùa, đã mất hết khả năng thích ứng và tiếp thu cái mới. Ông là người khao khát học hỏi, nhạy cảm trước sự đổi thay, và có điều kiện cũng như kiến thức tiếp xúc với cái mới hơn nhiều nhà văn đồng thời. Doãn Quốc Sỹ từng du học ở Hoa Kỳ một thời gian. Hồi hương, ông viết cuốn Sầu mây, nhân vật chính đã có mẫu mắt xanh, mái tóc vàng, mũi cao, da trắng. Nhưng nhân vật ấy mê ca dao Việt Nam, như Miên như Kha, lãng mạn đôn hậu như Yến. Qua đôi mắt quan sát của Doãn Quốc Sỹ, qua màng lọc tâm hồn ông, Con Người được viết hoa. Ông dành chỗ rộng trong tiểu thuyết cho những người trung thực đôn hậu. Ông yêu âm nhạc, ghét những tiếng ồn, và những nhân vật ông thân yêu nếu không mê ca dao thì cũng mê thích một loại nhạc khí cổ điển nào đó, hoặc vỹ cầm, hoặc dương cầm.
Một người có tâm hồn như vậy không thể thích ứng với những nghề đòi hỏi óc mưu mẹo, đòi hỏi khả năng đối phó với nhiều hạng người phức tạp. Cũng không thể thích ứng với những vụ trình diễn chiêng trống xập xình, cờ quạt mũ mãng sặc sỡ. Nếu cho rằng cái tính trời sinh là biểu hiện của định mệnh thuyết, thì định mệnh đã dành sẵn cho Doãn Quốc Sỹ một nghề: nghề giáo. Những ước mơ cao đẹp ông ấp ủ, tình yêu người yêu đất, niềm tin ở Tự do, Công bằng, Lẽ phải, chỉ có cơ hội thực hiện và quảng bá qua hai công việc mà Doãn Quốc Sỹ cho là thích hợp nhất đối với ông: đi dạy và viết văn.
Suốt hai mươi năm trên nửa phần đất tự do của quê hương, ông đã say mê hai công việc đó. Học trò ông, độc giả của ông đã yêu mến kính phục ông qua hình ảnh một ông thầy yêu nghề, một nhà văn mực thước và nhân ái. Không có ai nhớ về Doãn Quốc Sỹ như một kẻ giương cờ gióng trống hô hào một cuộc cách mạng văn chương, hoặc một ông vua xuống đường hô hào lật đổ cái này để bày cái khác. Kể cả khi viết về những kinh nghiệm của ông trong thời kháng chiến, kinh nghiệm về người Cộng sản, Doãn Quốc Sỹ vẫn viết với giọng điềm tĩnh đôn hậu cố hữu. Ông không “nổ” như Nguyễn Mạnh Côn, không “độc” như Võ Phiến. Người Cộng sản ông từng biết thời thanh niên của ông, qua lời ông viết, là những nạn nhân của một chủ thuyết ngoại lai, không phải là tác nhân. Và đó là chủ đề những truyện ngắn chống Cộng Doãn Quốc Sỹ viết thời kỳ sau hiệp định Genève.
Nhớ về ông, phần lớn bạn bè, học trò hay độc giả nhớ tới một mẫu người Việt Nam thường thấy nên thanh tiêu biểu: hình dáng mảnh mai nhưng rắn chắc, khuôn mặt xương xương, nước da nâu, đi đứng chậm rải, và trên môi luôn có một nụ cười hiền lành. Một người ung dung và tự tín, bằng lòng với những điều mình làm và cuộc sống mình có. Theo quan niệm ngày trước, ông không phải là típ người “khẳng khái cần vương” mà thuộc loại “thung dung tựu nghĩa”.
Doãn Quốc Sỹ chọn cái khó “thung dung tựu nghĩa” vì bản tính chứ không phải vì cho rằng “khẳng khái cần vương” là việc dễ không đáng làm. Sự lựa chọn đó ít va chạm quyền lợi kẻ khác, lại quảng bá tuyên xưng những điều tốt đẹp nên làm lợi cho xã hội. Lẽ công bằng bắt buộc người đời phải mến yêu ông. Lối sống ông chọn không rực rỡ, không thời thượng, thì người ta cũng sẵn sàng dành cho ông một chỗ đứng yên ổn tịch mịch, để ông tiếp tục ươm những mầm non yêu đời, yêu người, yêu tổ quốc. Doãn Quốc Sỹ được hưởng thành quả những điều mình làm trong hai mươi năm bằng một vị trí xứng đáng trên văn đàn, một địa vị tôn trọng trong giáo giới, và một nếp sống gia đình yên ấm, trong con hẻm đường Thành Thái.
Nhưng rồi tất cả đều bị đảo lộn sau 30 tháng Tư năm 1975. Trong những ngày hoang mang lơ láo đó, giới viết lách Miền Nam vẫn thường gặp nhau trên phố Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Tự Do để chứng kiến cảnh những tác phẩm tim óc của mình bị đổ từng đống hoặc bày la liệt ở vỉa hè bán solde cho những ai còn muốn giữ chút dư hương của một quá khứ đã mất. Lái sách, ngoài những tay buôn bán cũ chuyên nghiệp còn có những nhà văn, nhà thơ thất cơ lỡ vận gia nhập vào lãng. Người mua gồm đủ thành phần: những người mê sách, những người chưa hề nếm qua mùi Cộng sản tưởng 30 – 4 – 75 cũng giống như những cuộc đảo chánh chỉnh lý trước đây, những chú bộ đội tò mò, những đồng bào Miền Bắc chịu đựng mười mấy năm một gánh nặng mà không dám kêu than muốn tìm một tâm hồn đồng điệu… Tác phẩm và tác giả cùng nhìn nhau bùi ngùi giữa cảnh bát nháo hỗn loạn của cuộc đời.
Trong lúc những người khác hối tiếc không nhanh chân hay hớn hở cho hợp thời, tôi thấy Doãn Quốc Sỹ vẫn ung dung, điềm tĩnh. Ông biết rõ những gì đang chờ đợi ông, nhưng ông quyết định ở lại. Ông nói ông không thể rời bỏ quê hương được. Ông không lạc quan tếu, cũng không tuyệt vọng. Tôi nhớ ông nói nếu có gặp hoạn nạn vì những gì đã viết thì cũng đành chịu, vì không khác được. Ông phải viết những điều cần viết, và sẽ rán viết tiếp những điều cần viết. Không nói ra, nhưng chúng tôi biết ông ngầm cho rằng muốn có chất liệu viết được những điều sẽ viết, ông phải ở lại. Không hối tiếc, không hớn hở.
Ông bị bắt lần đầu giữa năm 1976, bị đày lên những trại tập trung tệ hại nhất ở cao nguyên, rồi do can thiệp của dư luận quốc tế, ông được phóng thích năm 1981. Ông ra khỏi nhà tù được vài tháng, ngẫu nhiên tôi được gặp ông trong bữa “tiệc” tối do một hoạ sĩ đứng ra khoản đãi. Anh bạn hoạ sĩ (Vũ Hối) có một bức tranh lưu lạc ở nước ngoài từ trước 1975 và có tin bạn bè ở hải ngoại gửi về cho biết tác phẩm của anh được một hàn lâm viện mỹ thuật chọn bảo tồn. Bức tranh đó, sau này tôi thấy nhiều cơ sở sản xuất tranh sơn mài ở hải ngoại lấy mẫu sản xuất hàng loạt. Anh họa sĩ vô cùng hân hoan, nên xoay một món tiền nhỏ, nhờ một người quen nấu cho nồi cà ri gà, mua bánh mì và một ít nem chả, thế là đủ làm tiệc vui khoe với thân bằng cố hữu. Tôi nhớ hôm ấy món cà ri gà còn được giặm thêm bằng tiếng đàn nguyệt của một ông hoàng Huế đa tài, và giọng ngâm của Hồ Bắc. Thơ cổ kim theo tiếng đàn khoan nhặt chỉ làm nặng lòng những kẻ bẽ bàng lơ láo là đám văn nghệ sĩ chiến bại, gồm đủ mọi ngành, hoạ có, văn có, thơ có.
Doãn Quốc Sỹ xin phép về sớm khi tiệc chưa tàn, sau khi một người trong tiệc cao hứng hứa nếu ai có tác phẩm cần gửi ra nước ngoài thì anh sẽ tìm cách giúp đỡ.
Tôi tiễn ông ra cửa. Nhà người bạn cho mượn làm nơi hội họp ở khu vắng vẻ, bên cạnh dòng sông và cách xa đường cái bằng một khu vườn. Đêm tối đen. Tôi hỏi thăm ông về những năm tháng ở trại Gia Trung, nhân tiện hỏi hư thực về tin đồn bên ngoài bảo rằng từ khi bị bắt, Doãn Quốc Sỹ cương quyết quay mặt vào tường, tọa thiền diện bích, từ chối không trả lời những câu hỏi của cán bộ chấp pháp. Ông cười, rồi nói:
– Anh em ở ngoài vì thương nên đồn đãi như vậy. Mình ở trong tay họ, làm vậy có ích gì! Cái cốt yếu là giữ được tư cách dù ở trong tay họ.
Ông nói câu ấy với giọng bình thường, không cao giọng, không bậm môi rướn cổ. Ánh đèn từ trong nhà lọt qua cửa kính, khuôn mặt của ông trông xương xương hơn xưa, nhưng ánh mắt vẫn sáng vui. Nhân tiện, tôi chào từ biệt ông, thấp giọng thú thực tuần sau tôi sẽ vượt biên. Ông im lặng một lúc, rồi nói:
– Anh em lần lượt đi hết, cũng buồn. Nhưng nếu không thể ở lại được nữa, thì cũng đành vậy. Qua bên đó có khi lại viết được những điều cần viết.
Nghe ông nói, lòng tôi nhẹ lại. Trước đó, đôi lúc không nhịn được, tôi thố lộ chuyện toan tính ra đi với vài bạn thân, họ đều có giọng trách. Tôi phải nại cớ này cớ nọ: nào sống lêu bêu vô tích sự chỉ làm gánh nặng cho vợ con, nào không thể sống mãi trong trạng thái hồi hộp, nào mình không phải là loại activiste, militant. Câu trả lời của Doãn Quốc Sỹ đầy thông cảm và nhân ái, tôi xem như một món quà ý nghĩa một người đàn anh gửi cho người em vào lúc giã biệt.
Chuyến đi ấy thất bại, và tôi chỉ đi thoát vào chuyến thứ năm, cuối năm 1981.
Cuối năm 1982, tôi được đi định cư tại thành phố Houston Hoa Kỳ sau 11 tháng chờ đợi ở đảo. Đặt chân lên miền đất tự do, tôi ngấu nghiến đọc hết sách báo của bảy năm lưu vong. Trong một vài truyện ngắn, trong một cuốn tuyển tập, tôi nhận ra được cái văn phong đôn hậu thung dung và lãng mạn một thuở. Tôi đoán già đoán non tác giả, và được một vài bạn hữu lấp lửng xác nhận.
Doãn Quốc Sỹ đã viết những điều cần viết, và sẵn sàng ung dung chấp nhận tất cả mọi hậu quả, trong khi không bao giờ, phải, ông không bao giờ tự nhận mình là một chiến sĩ, một người đấu tranh. Trước sau ông vẫn là một nhà giáo kiêm nhà văn, với tất cả ý nghĩa cao đẹp của hai nghiệp vụ đó.
Nguồn: Văn Học số 31, tháng Tám 1988
Nguồn bản điện tử: nguyenmonggiac.info