Duyên Anh
Phần 1
Ateacher affects eternity.
He can never tell where his influence stops.
HENRY ADAMS
Công trạng của thầy giáo tồn tại muôn kiếp.
Và ảnh hưởng của thầy không đời nào ngưng.
1
NGƯỜI TÙY PHÁI GIÀ HỎI TÔi – Thầy bị đổi xuống đây à?
Tôi lắc đầu :
– Không, tôi chọn trường này…
Người tùy phái tỏ vẻ ái ngại. Ông ta nhìn tôi, muốn nói chuyện gì đó nhưng lại ngập ngừng. Cuối cùng, ông ta rót nước mời tôi uống và để tôi ngồi một mình chờ ông hiệu trưởng. Qua khung cửa văn phòng, tôi có thể ngó ra sân trường.Vài cậu học trò, miệng ngậm thuốc lá, lững thững bước dưới nắng lửa. Cỏ sân khô cháy.
Tóc họ chắc cũng bị khô cháy. Và tôi biết đây là những cậu học trò bỏ ngang giờ học. Tôi mới dời trường cao đẳng sư phạm, tuổi nghề vừa ăn thôi nôi. Năm ngoái, tôi dạy ở một tỉnh miền Đông, dân chúng sống bằng nghề chài lưới. Học trò của tôi, phần đông con nhà nghèo nên rất chăm chỉ. Khi người ta mơ ước thoát khỏi cuộc đời cùng cực người ta thường gắng sức phấn đấu. Và cuộc phấn đấu làm người ta say mê. Những cậu học trò của tôi không chịu chấp nhận số phận hẩm hiu của phụ huynh họ. Qua vài lần tâm sự, tôi hiểu họ muốn bãi bể của họ sẽ có nhiều tầu đánh cá thay cho những chiếc ghe chài nhỏ bé dễ bị sóng gió vùi dập ngoài khơi. Và chính họ sẽ lái những chiếc tàu đánh cá tối tân, sẽ biến tỉnh lỵ buồn hiu hắt của họ thành nơi trù phú. Như thế, chỉ còn cách duy nhất là đầu tư tuổi trẻ của mình vào sự học.
Tôi yêu những người học trò ấy. Để khích lệ họ, tôi thích kể về tôi, một kẻ thân lập thân. Tôi đã phải bán báo suốt bảy năm trung học. Những người lơ bến xe đò Lục Tỉnh đều quen mặt tôi. Năm giờ sáng, tôi đạp xe chở chồng báo đến bến xe. Sáu giờ, tôi tới bãi tập võ. Hồi đó sinh hoạt dễ dàng. Mỗi ngày bán báo một giờ là dư tiền trả cơm trọ, sắm sửa quần áo sách vở. Tôi dành dụm tiền mua được cây vĩ cầm. Tôi nhớ đã ôm cây vĩ cầm về nhà trọ hôm tôi đọc thấy tên mình trúng tuyển vào Đại học Sư phạm ban Hán Việt. Lên đại học, có học bổng, tôi chấm dứt nghề bán báo. Chỉ cần kiếm một chỗ kèm trẻ lấy tiền tiêu vặt. Tôi ghi tên học thêm ở Đại học Văn khoa.
Ngày sung sướng nhất đời tôi, ngày mà tôi cho rằng đã thực hiện được lời hứa với cha tôi, là ngày đâu lên ngồi trong giảng đường đại học. Thuở sinh tiền, đã một lần, lần ấy tôi còn bé lằm, cha tôi dẫn tôi qua khu đại học Hà Nội, ông chỉ tay vô đất thiêng đối với thằng nhóc con, giọng ông run run: “Bố ước ao lớn lên con sẽ học ở trường này”. Bấy giờ, tôi không hiểu tại sao cha tôi xúc động. Mãi bây giờ, tôi mới hiểu vì nhà tôi nghèo, cha tôi đã rướn với trái hạnh phúc quá cao tầm tay của ông. Trái hạnh phúc đã nằm gọn giữa bàn tay tôi. Nếu cha tôi chưa mất tôi sẽ bắt ông dẫn tôi đến trường Văn khoa Sài Gòn, nắm chặt tay cha tôi để ông bớt xúc động và thưa với ông: “Con đã học ở trường này”. Tôi muốn sống lại đoạn đầu đời.Mà không được. Ngồi trong giảng đường đại hoc, lẩm nhẩm bài Tôi đi học của Thanh Tịnh, tôi đã khóc. Dưới đất lạnh, cha tôi không thể ngờ một đứa trẻ nhà nghèo đã leo lên nổi cái bậc thang mơ ước của cha nó.
Kết luận những mẩu chuyện về tôi, luôn luôn, là có nhiều Châu Trí trên cuộc đời. Học trò của tôi thương tôi hơn và tin tưởng, một mai, họ sẽ lái những chiếc tầu đánh cá gắn ra đa. Tôi cũng tưởng sẽ dạy ở đây mãi mãi, dù được thuyên chuyển về Sài Gòn, tôi vẫn tình nguyện gắn bó đời mình với đời những người học trò miền bể nghèo nàn này. Vì tôi thích, vài chục năm sau, một trong những người học trò của tôi sẽ tạo nên sự nghiệp vẻ vang, về thăm trường cũ, anh ta sẽ bắt chước ông Carnot: “Thưa thầy, con là X. đây, thầy còn nhớ con không?” Nhưng tôi phải dời tỉnh lỵ miền Đông vì một tai nạn nghề nghiệp! Đầu niên học năm nay tôi được Bộ Giáo dục chỉ định làm chánh chủ khảo kỳ thi vào đệ thất, lấy lý do tôi vừa tốt nghiệp cao đẳng sư phạm vừa có cử nhân văn chương giáo khoa. Tôi chưa nhiều tuổi nghề so với ông hiệu trưởng và các đồng nghiệp khác, song tôi nhiều bằng cấp hơn họ. Bằng cấp nhiều không có nghĩa là kiến thức uyên bác.Nghề sư phạm đòi hỏi kinh nghiệm. Ở Việt Nam, mọi lãnh vực, người ta vẫn đánh giá trị tài năng qua bằng cấp. Do đó, xẩy ra nạn kiêu khoa bảng. Và người ta cứ lầm tưởng khoa bảng là trí thức. Cho nên, muốn được xưng tụng là trí thức, cần học hành nhất loài vẹt đã đỗ đạt nhiều bằng cấp. Bằng cấp cao đứng trên, bằng cấp thấp đứng dưới, bất chấp tuổi tác, kinh nghiệm nghề nghiệp và cuộc đời.
Trước ngày thi một tuần, ông hiệu trưởng mời tôi ăn cơm. Ông trao cho tôi danh sách ba chục thí sinh, yêu cầu làm ngơ để họ trúng tuyển. Tôi bảo ông chờ tôi suy nghĩ. Ông quả quyết ba chục thí sinh này toàn nhà nghèo đáng nâng đỡ. Tôi về, hỏi thăm vài phụ huynh học sinh tin cậy, họ nói khác ông hiệu trưởng. Nghĩa là, ba chục thí sinh ông hiệu trưởng muốn ban ân huệ, đều là con các thương gia giầu có trong thị xã. Tôi nghĩ ngay đến tôi, đứa trẻ con nhà nghèo, ngày xưa, đã học mòn người suốt ba tháng hè, đã vất vả quật ngã mấy chục đối thủ mới được vào đệ thất trường công học miễn phí bẩy năm. Nếu bị quật ngã, tôi không thể có ngày nay. Tôi phải cẩn trọng cái chức vụ của mình. Tôi đã làm việc trong phòng chánh chủ khảo mấy ngày đêm, nhờ tùy phái mua cơm ăn tại chỗ, coi lại mấy trăm bài thi. Ba chục thí sinh của ông hiệu trưởng gửi gấm bị loại bỏ vì bài thi của họ không xứng đáng, dù những bài thi này được cho điểm thật cao. Tôi phàn nàn các giáo sư chấm thi. Ông hiệu trưởng bảo tôi nên biết điều. Ông ta dọa tôi rằng sau kỳ thi vào đệ thất, tôi chỉ là giáo sư dưới quyền ông ta. Ngày tuyên bố kết quả, ông hiệu trưởng giận dữ. Ông đã xổng một áp phe bạc triệu. Ông để tâm thù tôi. Ông ta đã vận động với Bộ đổi tôi đi nơi khác. Tôi thừa biết ông đã báo cáo về tôi nhơ nhuốc lắm.Bộ gọi tôi về.Tôi trình bầy sự thật.Rất tiếc sự thật không mang lợi lộc cho cấp trên. Mặc dầu Hội Phụ huynh Học sinh can thiệp giữ tôi, Bộ vẫn muốn tôi dời tỉnh lỵ miền Đông. Bộ còn ưu đãi tôi bằng cách thay vì tống tôi lên Cao nguyên, lại để tôi chọn ba trường ở miền Tây. Và tôi đã chọn tỉnh miền Tây xa nhất.
Tách nước trên bàn ông hiệu trưởng đã nguội ngắt. Người tùy phái già bước vào :
– Thầy dùng nước đi.
Tôi cám ơn ông ta và hỏi:
– Thường thường, buổi chiều ông hiệu trưởng có đến văn phòng không?
– Ổng làm việc đúng giờ giấc.
– Tại sao chiều nay?
– Chắc ông bận họp bên Ty Tiểu học. Thầy xuống được mấy bữa rồi?
– Một.
– Vậy gấp chi. Nghỉ cho khỏe đã.
– Tôi muốn dậy ngay.
– Thầy sẽ mệt à…
Tôi không hiểu ý nghĩa tiếng “mệt” của ông tùy phái già, bởi, nói xong câu “thầy sẽ mệt à”, ông lại nhìn tôi tỏ vẻ ái ngại:
– Thầy biểu thầy chọn trường này à?
– Phải.
– Không hề bị đổi chứ?
– Không.
Ông tùy phái già hơi tò mò. Dường như, ông có cảm tình với tôi.
– Nói thiệt, tôi mà là thầy, tôi không thèm chọn trường này. Tôi mần ở đây lâu rồi. Chưa hề thấy học trò hư đốn như bây giờ.Bọn nó là giặc. Mấy ông thầy trước bị bọn nó phá quá, dạy hết nổi, cậy cục xin đổi hết trơn.
Ông ta rụt rè:
– Nè thầy…
Tôi mỉm cười :
– Ông muốn dạy tôi vài kinh nghiệm chăng?
Ông tùy phái lễ độ:
– Đâu dám. Có điều thầy chớ nặng lời với bọn nó. Bọn đệ nhị B2 nhiều thằng dao búa…
Ông ta bỏ ngang chuyện bọn đệ nhị B2, hỏi tôi:
– Thầy trọ ở đâu?
Tôi đáp:
– Hiện tôi thuê phòng khách sạn. Tôi sẽ kiếm một căn gác nhỏ gần trường.
Vừa lúc đó, có tiếng bánh xe hơi lăn trên lớp đá sỏi trước cửa văn phòng. Ông tùy phái vui mừng báo tin:
– Ổng tới đó…
Và ông kiếm thêm cái tách, châm nước. Rồi bỏ ra ngoài.Ông hiệu trưởng bước vào. Tôi đứng dậy chào ông. Ông bắt tay tôi và mời tôi ngồi.
– Hy vọng đây không phải là giáo sư mới.
Ông mỉm cười sau câu nói mở đầu nên tôi biết ông thích khôi hài.
– Ông hiệu trưởng thất vọng rồi.
Ông nhún vai:
– Giáo sư mới à? Người ta cứ gửi cho tôi những ông thầy trẻ măng, rồi những ông thầy trẻ măng cứ bắt tội tôi ký đơn chấp thuận để các ông ấy bỏ rơi tôi. Ký và phê thật xấu đặng Bộ có lý do bê các ông ấy đi.
Tôi nói:
– Chắc tôi không van nài ông hiệu trưởng báo cáo xấu để bỏ rơi ông đâu.
Ông hiệu trưởng trạc ngoài bốn mươi. Nhờ mái tóc ông ngả mầu muối tiêu, thành thử, trông phớt gương mặt ông, lần đầu, có thể nghĩ ông đã trên năm mươi. Ông còn trẻ vì ông vui tính. Ông chìa tay bắt tay tôi:
– Hứa nhé!
– Dạ.
Tôi trình sự vụ lệnh. Đọc tên tôi, ông đứng dậy, chìa tay lần nữa, nắm chặt tay tôi lắc lia lịa:
– Toa hả, Định? Trần Mình Định. Moa phục toa lắm. Giới trẻ cần nhiều thằng quân tử Tầu như toa. Vụ của toa Bộ bàn cãi kịch liệt. Họ đau xót hộ toa bởi sợ xích mích giữa hai thế hệ giáo già, giáo trẻ. Moa về phe toa. Giáo dục không thể là chỗ ăn bẩn.
Tôi ngạc nhiên. Một chút kiêu hãnh nhẹ. Tôi không ngờ vụ chống đối ông hiệu trưởng miền Đông lại gây sôi nổi thế. Sôi nổi âm thầm. Miễn có người hiểu tôi làm phản. Chỉ cần vậy. Là đủ để tôi tin tưởng và kiêu hãnh nghề dạy học của tôi.
– Ông làm tôi đỏ mặt.
– Moa ca ngợi toa. Mai này, toa sẽ ngồi chỗ của Tổng trưởng Giáo dục.
Ông hiệu trưởng đã buông tay tôi ra. Ông cầm gói thuốc mời tôi. Tôi từ chối.
– Không đúng “gu” của toa, hả?
– Thưa ông, tôi không biết hút thuốc.
– Rượu?
– Không.
– Xì phé, chắn cạ?
– Cũng không.
– Toa làm moa sững sờ đấy.
Ông hiệu trưởng coi tôi như một người bạn quen biết đã lâu. Như vậy tôi tin rằng, ít nhất, tôi cũng dạy ở đây đúng hai năm. Rồi đi đâu sẽ tính sau.
– Toa muốn nghỉ dưỡng sức ít ngày không?
– Không.
– Vậy sáng mai bắt đầu. Thứ ba đó.
– Vâng, sáng mai.
– Moa đích thân giới thiệu toa với học trò.
– Cám ơn ông hiệu trưởng.
– Tối nay, moa mời toa dùng cơm. Kêu moa bằng anh đi.Cho nó thân mật.
– Cám ơn anh.
Bỗng ông hiệu trưởng nhìn tôi không nói. Ánh mắt đăm chiêu lạ lùng. Tôi ném viên đá nhỏ xuống cái giếng đăm chiêu của ông:
– Lớp đệ nhị B2 có nhiều cậu dao búa. Ngày mai tôi muốn dạy lớp đó trước.
Ông hiệu trưởng cắn môi. Giây lát, ông bật que diêm, mồi điếu thuốc đã rút sẳn.
– Toa còn trẻ quá, moa sợ…
– Anh sợ gì?
– Sợ toa lại bắt moa không chấp nhận toa dạy ở đây.
– Tôi không muốn học đòi những ông khí phách xằng, hễ ai chê mình trẻ là đọc vanh vách một đoạn Le Cid. Tôi không thể hạ gục nổi ai nhưng tôi đủ kiên nhẫn chịu đựng bất cứ nghịch cảnh nào. Anh đã biết, tôi làm thầy giáo và tôi chọn nghề dạy học vì yêu mến nghề dạy học.
Ông hiệu trưởng xua tay:
– Toa đừng hiểu lầm moa.
Tôi nói:
– Người trị được ngựa chứng là người bị ngựa chứng quật ngã nhiều lần. Mới bị quật ngã một lần đã tởn, không đời nào làm nghề trị ngựa chứng được.
Ông hiệu trưởng đưa tay xoa cằm râu tua tủa:
– Toa bị ngựa chứng đá lần nào chưa?
Tôi đáp:
– Chưa. Chưa cưỡi.
– Vậy sửa soạn nhẩy lên lưng ngựa. Chúc toa may mắn. Trước khi cưỡi ngựa nhớ tối nay dùng cơm với vợ chồng moa. Toa ở đâu?
– Khách sạn Thanh Bình.
– Moa đến đón toa. Nhớ nhé, Định!
Tôi dời văn phòng ông hiệu trưởng sau khi đã thanh toán xong một thủ tục hành chánh. Tôi không ngờ thủ tục được thanh toán nhanh chóng và nồng nhiệt thế. Vừa ra khỏi cổng trường thì kẻng ra chơi đổ. Tôi ngoái lại nhìn. Cảnh tượng y hệt cảnh tượng ngôi trường ở miền Đông. Tôi bắt đầu nghĩ về “những thằng dao búa” lớp đệ nhị B2, nghĩ về những con ngựa chứng trong sân trường. Yên chí, ngày mai chúng mình sẽ gặp nhau.
***
TÔI VÀO LỚP MỘT MÌNH, TỪ CHỐI sự dẫn dắt của ông hiệu trưởng. Tôi muốn chứng tỏ mình đã lớn, đã là một ông thầy dạy học trò thi tú tài, dù tôi chỉ mới hai mươi bốn tuổi. Học trò lớp đệ nhị B2 chào đón tôi bằng tiếng hô “nghiêm” dõng dạc. Tôi không giật mình.Thằng hô “nghiêm” đeo kính đen, ngồi đầu ghế bàn cuối lớp. Nó ngồi hút điếu thuốc lá đang cháy, kẹp giữa hai ngón tay nó. Tất cả đều đứng lên.
Tôi bình tĩnh nhìn khắp lớp. Bắt gặp vài khuôn mặt kính cẩn giả tạo, khuôn mặt của những anh hề hạng bét trình diễn tài nghệ trước đám khán giả khó tính. Tôi thong thả bước xuống chỗ thằng đeo kính đen. Nó đã ngậm điếu thuốc và đang nhả khói. Vỗ khẽ vai nó, tôi nói:
– Cám ơn anh.
Nó hất đầu, ngạo mạn:
– Cám ơn gì?
Tôi cười làm quen:
– Cám ơn đã hô “nghiêm”. Tôi rấ ghét nghi thức. Nghi thức thường vụ hình thức. Mà hình thức thường giả tạo. Ở lớp học chỉ cần thành thật. Hãy ném sự giả tạo ra cuộc đời. Anh đã hô “nghiêm” làm ơn hô “nghỉ” giùm tôi.
Con ngựa chứng – tạm gọi thế – phá ra cười. Nó ngó đám bạn mà tôi đoán thuộc băng của nó, gỡ kính, đặt trên một bàn:
– Ông nói, tụi mày hiểu gì không?
Nó dụi điếu thuốc, đứng dậy, khoanh tay:
– Thầy mới chịu chơi số dách. Ông khoái “nghỉ”, không khoái “nghiêm”.Vậy tụi mày “nghỉ”.
Tôi vẫy tay:
– Có nghĩa là các anh ngồi xuống.
Cả lớp ngồi xuống. Riêng con ngựa chứng. Nó vẫn đứng. Một chân ghếch lên ghế. Nó búng ngón tay tách một cái. Ba thằng cùng bàn nó đặt hết chân trên bàn y hệt những người khán giả thiếu tự trọng trong rạp chiếu bóng, thích gác chân lên thành ghế của hàng ghế trước mình. Tôi chưa biết phản ứng ra sao. Những lớp học ở mạn Đông của tôi không có ngựa chứng.Tôi xoay lưng, thong thả bước lên bục và ngồi xuống ghế của tôi. Tôi nhìn những cậu học trò gần tôi nhất, đọc được từ ánh mắt họ nỗi xót thương.
– Chúng ta có thể bắt đầu.
Con ngựa chứng đầu đàn nhún vai:
– Đi đâu vội thế, giáo sư? Phải giới thiệu cuộc đời ái tình và sự nghiệp của giáo sư chứ?
Tôi cười:
– Em pha trò duyên dáng đấy.
Tôi bỗng chợt thấy mình giống Audie Murphy trong một phim cao bồi, nhan đề Le nettoyeur. Thị trấn đầy du đãng, lưu manh, sức mạnh là khẩu súng và trái đấm. Người shérif già bất lực, đành vùi đầu ở một góc văn phòng, tối ngày say sưa. Để khỏi phải rút súng, cầm chắc cái chết. Thị trấn cần một shérif tài ba để dọn dẹp rác rưới, tạo lại an ninh, trật tự. Anh chàng Audie Murphy đã tới bằng chuyến xe đầy hành khách. Bọn cao bồi hay tin, đón chờ anh. Bước xuống xe sau cùng, Audie Murphy nhỏ thó, ăn diện như công tư bột, tay xách chiếc lồng chim. Shérif mới đã làm bọn cao bồi ôm bụng cười nghiêng ngửa. Tôi đang ngồi ở bàn của mình, bên phải là bảng đen, trước mắt tôi là những cậu học trò chỉ kém tôi vài tuổi, nhiều cậu to con hơn tôi. Tôi tự nhủ sẽ chịu đựng những gì sắp xẩy ra.Và, như thế, cần bình tĩnh. Chống tay lên cằm, tôi hỏi con ngựa chứng đầu đàn:
– Anh có hay xem chiếu bóng không?
– Lu bù.
– Coi phim Le nettoyeur chưa?
– Ai đóng vai chính?
– Audie Murphy.
– Chưa.
– Coi phim Blackboard jungle chưa?
– Phim Tạc giăng à?
– Không, phim học đường. Người ta dịch là Bầy thú trước bảng đen, Glenn Ford đóng vai thầy giáo.
– Kể sơ phim Le nettoyeur đi!
– Sẽ có dịp.
– Tôi sợ ông không còn dịp.
– Thế hả! Chúng ta cứ chờ đợi. Bây giờ, tôi đề nghị anh ngồi xuống, ngồi ngay ngắn, tôi sẽ giới thiệu “cuộc đời ái tình và sự nghiệp” của tôi.
Con ngựa chứng nhún vai:
– Ông này ngon đa! Tụi mày ngồi đàng hoàng.
Nó ngồi xuống ghế trước tiên. Ba thằng trong băng của nó cũng rút chân khỏi mặt bàn. Con ngựa chứng giơ tay
– Giáo sư!
– Chi đó?
– Tôi hít thuốc được chứ? Giáo sư chịu chơi là giáo sư để học sinh hít thuốc “líp” trong lớp. Hít thuốc không vụ hình thức. Ô kê?
Nó không đợi tôi trả lời, rút thuốc, mồi lửa.Ba thằng cùng bàn nó bắt chước nó. Chúng gân cổ rít thật nhanh, phà khói thật nhiều. Tôi im lặng. Con ngựa chứng đứng dậy:
– Mời giáo sư một điếu!
Nó vất gói thuốc và hộp diêm lên bàn tôi. Cử chỉ của nó khiêu khích ra mặt. Tôi chưa biết tên nó. Nhưng tôi sẽ biết. Ở trường sư phạm, người ta không dạy tôi cách đối phó với những đứa học trò ngang tàng. Người ta chỉ truyền cho tôi những kinh nghiệm sư phạm và khả năng chuyên môn. Tôi đã thực tập tại nhiều trường. Những lớp tôi tới thực tập toàn là lớp kiểu mẫu. Tôi cũng đã đọc thêm nhiều sách viết về tâm lý giáo dục. Tuyệt nhiên, tôi chưa được học, được đọc cách giáo huấn phủ đầu những học trò như những thằng đang khiêu khích tôi. Tôi hơi bối rối. Chiều hôm qua, tôi đã nói mạnh với ông hiệu trưởng. Vì tôi không thể tưởng tượng Bầy thú trước bảng đen lại có thật trước bảng đen trong lớp học của tôi. Tôi là đứa trẻ nghèo khổ đã chinh phục mọi nỗi gian nan để vươn lên. Tôi kiêu hãnh điều đó. Tôi đã chiến thắng cuộc đời thì không thể thua một vài con ngựa chứng.
Tôi thản nhiên rút một điếu thuốc lá, quẹt diêm mồi thuốc. Tôi hít một hơi đẫy, hơi trề hàm dưới, kéo hết khói vào đằng mũi rồi nhả vòng khói tròn lớn, sau đó, thổi thêm một vòng khói nhỏ chạy qua vòng khói lớn. Học trò ngơ ngẩn nhìn. Tôi đã thôi miên họ bằng một chút tài còm. Con ngựa chứng gật gù:
– Tuyệt.
Tôi liệng điếu thuốc ra ngoài hành lang. Con ngựa chứng hỏi:
– Giáo sư biết nhảy đầm không? – Biết.
– Cờ bịch?
– Biết.
– Thích không?
– Thích. Khi tôi dội trường sư phạm, những sở thích ấy đã bị chôn vùi. Giáo sư hút thuốc lá trong lớp sẽ không cấm được học sinh hút thuốc lá trong lớp.Anh hiểu ý tôi chứ?
Con ngựa chứng cười lớn:
– Ông chửi xéo tụi mình đó.
Tôi nói:
– Chúng ta nên tìm hiểu nhau. Trước khi làm nghề dạy học, tôi đã làm học trò. Tuổi trẻ có nhiều lầm lẫn đáng yêu nhưng cần đề phòng một lầm lẫn khiến mình phải ân hận suốt đời.
Con ngựa chứng đưa hai tay bưng mặt:
– Ông đi một đường luân lý giáo khoa thư.
Lớp học không cười ồ nữa. Nhiều khuôn mặt nhăn nhó. Nhiều ánh mắt phẫn nộ. Một vài cái đầu đã quay xuống nhìn con ngựa chứng. Chỉ còn tiếng cười khô khan, trơ trẽn của ba thằng thuộc băng ngựa chứng. Tự nhiên, tôi phấn khởi. Người ta dễ nghiêng cảm tình về những kẻ yếu đuối, những kẻ tưởng chừng đang bi số đông bắt nạt. Tôi muốn kéo dài không khí ngộp thở này. Tôi thèm nghe những lời chọc gan của con ngựa chứng. Tôi chờ nó nói một câu thật mất dạy để đón nhận một phản ứng của những người học trò thầm lặng. Tôi đã nghiến răng chịu nhục với cuộc đời. Tôi sẽ nghiến răng nhẫn nhục chịu đựng những con ngựa chứng. Để chiến thắng. Bởi vì, ngựa chứng trong sân trường vẫn chỉ là học trò. Nhiệm vụ của một ông thầy khác hẳn nhiệm vụ của một ông giám thị trại giáo hóa. Người ta dạy chim sáo chim yểng nói được những câu chào hỏi lễ phép; người ta dạy con khỉ, con vượn làm được trò vui; người ta dạy con hổ, con sư tử làm được theo ý muốn của người ta. Thì tại sao một ông thầy không dạy được những học trò ngang ngược?
– Anh chê luân lý giáo khoa thư?
Con ngựa chứng liếm mép:
– Hình như giáo sư chỉ đến lớp dạy Việt văn? Đã lâu rồi, tôi không được học luân lý. Và cũng chẳng anh nào khoái dạy luân lý. Giáo sư biết tại sao chưa?
– Tại sao?
– Tại vì tụi thầy nhóc con vô luân!
Tôi mỉm cười:
– Câu trả lời thấm thía lắm. Người ta bảo tuổi trẻ hôm nay không thích suy nghĩ và tàn nhẫn. Nhưng mà thành thật.
Tôi cố gắng thân thiện với con ngựa chứng:
– Anh!
Nó vênh váo:
– Tôi?
– Phải.
– Gì?
– Tên anh?
– Mai mốt giáo sư sẽ đến nhà tôi chơi phé. Có thể, tôi sẽ cùng chơi nếu thiếu người. Chúng ta sẽ tháu cáy và sẽ chửi nhau nếu có thằng chơi bịp.
Tôi thấy đau nhói tận tim. Nghẹn ngào. Chợt nhớ câu kết tội của người tùy phái già: Chưa hề thấy học trò hư đốn như bây giờ. Tôi chớp mắt, nhiều đôi mắt đối diện tôi cũng chớp mau. Có đôi mắt ứa hai giọt lệ và đọng ở đuôi con mắt. Một người học trò đứng dậy:
– Thưa thầy, xin thầy giảng bài.
Con ngựa chứng đấm nắm tay xuống bàn:
– Lát nữa tao dạy mày! Để nghe giáo sư kể cuộc đời ái tình và sự nghiệp cái đã. Tiên học tán quét, hậu học Việt văn.
Người học trò yêu cầu tôi giảng bài vẫn đứng thẳng. Chiếc áo sơ mi trắng nó mặc đã ngả mầu cháo lòng và nhăn nheo. Nó bắt tôi nghĩ tới những người học trò miền Đông cửa tôi. Đôi mắt nó mở rộng, không chớp như thể nó muốn tôi hiểu rằng nó tội nghiệp giùm tôi. Tôi niềm nở hỏi nó:
– Anh tên gì?
– Thưa thầy Nguyễn Văn Lành.
– Cám ơn anh Lành, anh ngồi xuống. Tôi sẽ không dạy thiếu chương trình.
Lành ngồi xuống. Tôi nói:
– Đáng lẽ ông hiệu trưởng sẽ giới thiệu “cuộc đời ái tình và sự nghiệp” của tôi. Các anh đã nghe tôi tâm sự: tôi rất ghét hình thức. Phải giới thiệu mình là một điều khó khăn. Vì dễ gây ngộ nhận. Tôi xin vắn tắt: Tên tôi, Trần Minh Định, tốt nghiệp đại học sư phạm ban Hán Việt, có bằng cử nhân văn chương giáo khoa, bằng ngôn ngữ học Michigan. Chẳng đáng quan tâm những mảnh bằng đó. Điều tôi muốn các anh phải biết là tôi là đứa trẻ con nhà nghèo, bán báo từ năm học đệ thất lấy tiền ăn học. Tôi yêu nghề dạy học nên thi vào sư phạm. Chưa có vợ. Chưa có cả người tình. Năm ngoái tôi dạy ở một tỉnh miền Đông. Chống gian lận thi cử bị trả về Bộ. Tôi chọn trường này.
Tôi nhìn thẳng vào mặt con ngựa chứng:
– Và tôi sẽ dạy ở đây, ít nhất là hết niên học.
Con ngựa chứng cười nửa miệng:
– Không bị đi lính à?
Tôi lắc đầu:
– Tôi đã được huấn luyện quân sự chín tuần. Vì nhu cầu giáo dục, người ta cho tôi vô dạy học.
Con ngựa chứng rít qua kẽ răng:
– Đó là điều tôi không ưa mấy anh giáo sư nhóc. Tại sao bạn bè tôi, và rồi tôi nữa, đi lính là đi luôn?
Tôi nhún vai:
– Tại vì anh chỉ lo bất mãn, phản kháng, phẫn nộ vô duyên cớ.
Nó cầm cái kính, liệng mạnh vào tường:
– Vô duyên cớ? Ông mới về đây biết con mẹ gì. Lớp này trước hơn sáu chục mạng. Mỗi ngày một vơi đi, giờ chỉ còn ba chục. Bạn bè tôi lần lượt đi lính. Nhiều đứa đã chết. Tôi cóc muốn học. Tôi khoái nổi loạn, chờ ngày đăng lính. Ông cứ việc đuổi tôi. Tôi tởm những thằng giáo sư trẻ. Chúng nó vô tư cách. Tôi muốn ông cuốn gói càng sớm càng tốt.
Con ngựa chứng chộp cuốn vở gấp đôi, nhét vào túi. Nó bỏ lớp ra ngoài. Ba thằng bạn nó đi theo nó. Tôi đưa hai tay bưng mặt. Cơn xúc động kéo dài.
– Thưa thầy…
Nguyễn Văn Lành đã đứng dậy. Tôi buông đôi tay rơi bịch trên bàn.
– Thưa thầy…
Tôi vẫy nhẹ, bàn tay còn run run:
– Cám ơn anh, anh ngồi xuống. Tôi sẽ dạy hết niên học, dù chỉ còn một mình anh, Lành ạ!
Nhiều tiếng nói nhao nhao:
– Chúng em học thầy.
Nguyên Văn Lành chưa chịu ngồi. Nó ngần ngại muốn nói với tôi.
– Anh có thể nói.
– Thưa thầy thầy phải đề phòng bọn thằng Phong. Tụi nó giao du với những tên du đãng.
– Cám ơn anh. Tôi không bao giờ nghĩ phải đề phòng học trò của tôi. Các anh nhắn giùm Phong và bạn nó hãy đi học. Thầy giáo không thể thù học trò. Chúng ta bắt đầu làm việc. Tôi muốn giảng về Cao Bá Quát, kẻ sĩ nổi loạn trong một xã hội mục nát.
Những cuốn tập mở rào rào. Lớp học im lặng. Tôi say sưa giảng giải thơ văn Cao Bá Quát và nói vài quan niệm riêng của tôi đối với tư tưởng Cao Bá Quát. Tôi không bắt học trò ghi chép quan niệm riêng của tôi. Họ muốn đỗ, họ chỉ được nhai lại những “giáo điều” trong những cuốn sách đã được Bộ Giáo Dục công nhận. Tôi rất lạc quan. Chỉ có bốn con ngựa chứng. Việc gì phải ồn ào, la hoảng?
Nguồn: http://khotruyenhay.vn/truyen-doc/chapter/264661/first.html