VĂN HỌC MIỀN NAM 54-75 (137): BÙI GIÁNG (2)

buigiang0Bùi Giáng,

bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu

và một màu hoa trên ngàn

 

bùi vĩnh phúc

 

Người đã bỏ đường kia ở lại

Để đi vào đối diện hư không

Bờ thánh thót thu sau về vạn đại

Lời chào kia nức nở lạnh vân mồng

(Lá Hoa Cồn)

 

.1.

Người thi sĩ ấy đã ra đi. Cho dù người đã yêu thương thắm thiết trần gian và cuộc tồn sinh này. Nhưng giờ hẹn đã đến, và người phải rời bỏ cuộc lữ hiện tại để lên đường đi về một biên giới khác. Cho dù cuộc lữ người vừa rời bỏ có thể vẫn còn lắm chuyện thiết tha, người đã chọn cuộc lên đường, bỏ con đường kia ở lại. Trước khi đi vào đối diện hư không, giữa lòng những đêm thâu lục nhạt của cuộc đời, người đã nằm suy nghĩ và mơ ước những gì? Có phải người mơ được trở lại “một miền quê hẻo lánh, xung quanh có ruộng đồng sông núi trùng điệp, những đám cỏ chạy dài suốt cả tuổi thơ” (1). Người muốn trở về đó để tìm kiếm lại một màu xanh không còn nữa của những ngày tuổi nhỏ, hay để tìm lại một ánh trăng châu thổ, một giọt sương tỳ hải, những cánh châu chấu chuồn chuồn mà ai đó đã thả đầy trong mấy vạt nắng mong manh sầu úa một chốn quê nhà? Chốn quê nhà kia, nơi có những bóng tre, một màu rạ, một bờ ruộng, một con đường, một khúc sông… mà lúc nào người cũng mãi gìn giữ trong chính thịt xương thân thể mình:

Con đường, bờ ruộng, khúc sông…

Bóng tre, màu rạ như trong ruột rà

(Martin Heidegger và Tư tưởng Hiện Đại II)

Hay là người vẫn còn mãi nhớ về bờ lúa cũ, nơi người vẫn còn nhìn thấy in đậm một dấu chân em:

Em chết trên bờ lúa

Để lại trên đường mòn

Một dấu chân bước của

Một bàn chân bé con

 

Anh qua miền cao nguyên

Nhìn mây trời bữa nọ

Đêm cuồng mưa khóc điên

Trăng cuồng khuya trốn gió

 

Mười năm sau xuống ruộng

Đếm lại lúa bờ liền

Máu trong mình mòn ruỗng

Xương trong mình rã riêng

 

Anh đi về đô hội

Ngó phố thị mơ màng

Anh vùi thân trong tội lỗi

Chợt đêm nào gió bờ nọ bay sang.

(Bờ Lúa, trích nguyên bài)

Hay là người muốn trở lại những ngày xưa để lùa bò vào đồi sim trái chín:

Anh lùa bò vào đồi sim trái chín

Cho bò ăn cỏ giữa rừng sim

Anh nhìn lên trời xanh đỏ chín

Anh ngó bốn bề cây lá gió rung rinh

 

(….)

 

Cây lá bốn bên song song từng lứa

Sánh đôi nhau như ứa lệ ngàn hàng

Hạnh phúc trời với đất mang mang

Với bò giữa rừng hoang đương gặm cỏ

Với người ngó ngất ngây đương nằm đó

Không biết trời đất có ngó mình không

(Anh lùa bò vào đồi sim trái chín)

Hay người muốn tìm lại những ngày tháng ngao du cũ, những sương bình nguyên, một màu hoa trên ngàn, và những đêm sâu đầy màu sử lịch của một khúc sa mạc trường ca? Người đã sống điên dại giữa đời, hay đúng hơn, người đã chọn một cuộc chơi vĩ đại, trầm thống với tất cả “thân thể máu me và da xương” của chính mình mà mẹ cha cũng như trời đất đã ban cho. Chẳng mấy kẻ trên đời này đã dám xông vào trận như thế. Người làm ta nghĩ đến Paul Gauguin, kẻ đã dám từ bỏ thế giới văn minh của con người để đi tìm một sắc màu thơ mộng mới cho chính cuộc tồn sinh mình. Gauguin, cũng như người, đã suốt đời lang thang để đi tìm một màu hoa sơ thủy. Người cũng đã làm ta nghĩ đến Van Gogh, kẻ đã tự ý đánh mất cái khôn ngoan của những con người sống giữa đời thường, để có thể đi sâu vào trong ánh sáng điên cuồng chói lọi của những starry nights, của những đêm sao lồng lộng, và nhìn ra ở đó những chính bản của cuộc đời. Cuộc đời như chúng ta đang sống chỉ là những phó bản với thật lắm điều sai chệch. Bùi Giáng đã van xin:

“… Hãy để yên cho tôi điên tôi dại. Đừng ai nói đến tôi. Và nhất là đừng có bàn đến thơ tôi. Tôi không dám si mê, cũng không dám hoài vọng. Một mai tôi chết. Nghĩa là tôi không còn sống. Tôi sống trong cơn dại cơn điên. Tôi làm thơ trong cơn điên cơn dại. Nghĩa là tôi chết hai ba lần trong trận sống…”

Hãy nghe lời kinh Cầu Nguyện Ca mà người thi sĩ đã viết:

Hãy mang tôi đến giữa đời

Giết tôi chết giữa cõi đời mốc meo

Hãy mang tôi tới nắng chiều

Giết tôi chết giữa một triều khe nương

Hãy mang tôi tới dặm trường

Giết tôi chết giữa con đường bơ vơ

Hãy mang tôi tới bất ngờ

Giết tôi ngẫu nhĩ trong giờ ngẫu nhiên

Hãy mang tôi tới diện tiền

Giết tôi chết giữa người thuyền quyên kia…

(Sa Mạc Trường Ca)

 

.2.

Nhắc đến Bùi Giáng, người ta hay nói về thơ của ông. Đó cũng là điều tất nhiên. Ông là một thi sĩ bát ngát, ngây thơ và cỏ hoa điên đảo. Cỏ hoa điên đảo trong cõi đời cũng như trong những cõi phi-đời và pha-đời. Còn ngây thơ, bát ngát là ở trong cõi bờ tịch lặng của triết lý uyên nguyên mà ông vẫn hằng lui tới. Thơ Bùi Giáng tràn đầy thiên nhiên hoa cỏ của một thế giới sơ đầu vẫn còn giữ mãi một hồn nguyên tiêu ẩn mật. Thơ ông đựng đầy ẩn ngữ, mật ngữ, nhưng không trì nặng mà vẫn bay lượn phiêu diêu như những cánh châu chấu chuồn chuồn ở ngoài đồng nội. Ông làm thơ, nhưng không cần biết thơ là gì:

Bắt chước ông Khổng Tử

Con chim thì ta biết nó bay

Con cá thì ta biết nó lội

Thằng thi sĩ thì ta biết nó làm thơ

Nhưng thơ là gì

Thì đó là điều

Ta không biết

(Sa Mạc Trường Ca)

Kẻ thi sĩ không biết thơ là gì, nhưng ông biết rõ tại sao ông lại làm thơ:

“Thơ tôi làm (…) chỉ là một cách dìu ba đào về chân trời khác. Đi vào giữa trung tâm bão động một lúc thì lập tức xô ngôn ngữ thoát ra, phá vòng vây áp bức. Tôi gạ gẫm với châu chấu chuồn chuồn, đem phó thác thảm họa trần gian cho chuồn chuồn mang trên hai cánh mỏng bay đi. (…) [T]ôi ra bờ sông nằm ngủ khóc một mình thơ dại giữa chiêm bao. Trong chiêm bao thơ về lãng đãng thì từ đó vần bất tuyệt cũng lãng đãng chiêm bao…”

Có những người đã thử bàn về thơ của Bùi Giáng. Tôi cũng đã thử có lần “vạch hai lá cỏ ra nhìn” để rủ một lũ chuồn chuồn châu chấu trở về bay liệng trong thơ ông (2). Tôi yêu cái hình ảnh của Bùi Giáng trong một màu trăng châu thổ và trong đìu hiu của hoang vu những lá hoa cồn, hay trong những bài ca quần đảo; nhưng tôi cũng rất thích cái nét thơ mộng đầy nhiệt tình, nhiệt thú, nhiệt huyết của ông trên cả hơn một ngàn trang sách trong ba tập Tư Tưởng Hiện Đại (in khổ lớn). Để thấy được những nét tài hoa và cái đọc, cái biết phơi phới (3) của Bùi Giáng về văn học, tư tưởng và triết lý Tây phương cũng như Đông phương, tôi nghĩ người ta phải tìm vào những trang sách này. Những trang sách mà Bùi Giáng đã viết trong những năm ngoài ba mươi tuổi của mình, những năm đầu thập niên sáu mươi. Con người này tài hoa rất mực, chu du trong thế giới tư tưởng và ngôn ngữ Tây phương nhưng lúc nào cũng yêu thương thắm thiết một màu hoa bên ngàn của ngôn ngữ Việt.

Có lần ông nói với Trần Tuấn Kiệt là ông viết về triết học, bàn về tư tưởng hiện đại là để cuối cùng nêu lên mấy câu về Kiều hay của Huy Cận chơi. Quả thật là có thế. Nhưng không phải chỉ là như thế. Bùi Giáng nói chơi đấy thôi. Trong những quyển này, ông bàn về một số những khuôn mặt lớn của tư tưởng hiện đại như Karl Jaspers, Jean-Paul Sartre, André Malraux, Saint-Exupéry, Gabriel Marcel, Albert Camus, Paul Claudel, Simone Weil, Martin Heidegger, William Faulkner, Nietzsche, Kierkegaard… Từ những khuôn mặt này, và đặc biệt là từ Heidegger, Bùi Giáng đã bàn rộng ra về những vấn đề của triết lý và tư tưởng hiện đại. Đọc mấy cuốn này để hiểu Bùi-Giáng-trẻ là như thế nào. Ông vẫn luôn là một nhà thơ, một con người hết sức thơ mộng. Nhưng ông lại là một con người của lý luận và mang đầy tính “vượt biên” trong cung cách dắt dìu ngôn ngữ, tư tưởng của mình. Ông gạt bỏ mọi rào cản trong sự diễn tả và trong mạch lý luận. Ông sẵn sàng đưa Khổng, Lão, Trang cũng như cả Thúy Kiều, Kim Cương, Phùng Khánh, Brigitte Bardot, Marilyn Monroe, Dương Quí Phi, Ariane, Diane, Nausicaa, Juliet, Desdemona… vào trong cuộc thảo luận mà ông bày ra với Heidegger, Nietzsche, Sartre, cũng như với những nhà tư tưởng lớn khác của thế giới. Bùi Giáng cho rằng những người con gái đó “phải trở về bủa rộng chiêm bao để thiết lập mộng luân lưu giữa thời gian bay múa”, và có như thế thì “cuộc tồn hoạt của tồn sinh [mới] được tiếp xúc trở lại với hương màu vạn cổ…”

Bùi Giáng không thích Sartre vì, trong cái nhìn của ông, Sartre đã quá bất công với Camus, không hiểu Faulkner cũng như kỹ thuật thời gian đồng hiện của nhà văn này trong The Sound and the Fury, và không ngay thẳng với Heidegger. Sartre đã tìm cách giết chết Camus trong việc “giải thích” L’Étranger một cách không đúng tinh thần mã thượng trong bài Explication de l’Étranger của mình. Và Sartre đã bóp méo, xuyên tạc, rồi sau đó tấn công Heidegger, tung hỏa mù về tư tưởng của Heidegger vào thế giới trí thức Tây phương. Trong quyển đầu, Tư Tưởng Hiện Đại, Bùi Giáng còn khá nghiêm túc, tính chất “vượt biên” trong ngôn ngữ, tư tưởng của ông, phần lớn, còn nằm đằng sau những con chữ, những mặt chữ, chứ chưa lộ hẳn ra ngoài. Những nhận định của ông về Sartre, trong khi bàn về Camus, còn sự quý mến và nể trọng. Qua đến quyển hai, Martin Heidegger và Tư Tưởng Hiện Đại I, vì giận Jean Wahl, giáo sư đại học Sorbonne, qua quyển Vers la fin de l’Ontologie của ông này nhằm phê bình quyển Introduction à la Métaphysique (Einfuhrung in die Metaphysik) của Heidegger, và giận Sartre trong việc ông cho rằng Sartre đã xuyên tạc triết gia này, có những chỗ Bùi Giáng đã “mày tao chi tớ” với họ. Ông cho rằng Jean Wahl đã “bám vào những chi tiết mấp mô mà bỏ quên nguồn thác chảy. Cái phần sâu thẳm trong chiêm niệm viễn tượng siêu hình “dư dục vô ngôn” Heidegger gọi là cái phần Im-pensé […] hoàn toàn bị Jean Wahl và Sartre hững hờ không dọ tới. Jean Wahl là hình ảnh biểu trưng trọn vẹn cái sa đọa của duy lý thô thiển mài miệt trong cái học công truyền đo đếm quanh năm […] Cái gì gì Jean Wahl cũng nằng nặc đòi cho được “tout à fait”. Đức Khổng Tử thấy vậy, Ngài bèn lắc đầu: Nếu đòi hỏi mãi cho được cái “tout à fait” thì than ôi! còn chi là cái cõi lòng của ta nữa […] Cái phần vô-suy tư là cái phần quý báu ta trao gửi êm đềm cho mỗi mỗi tinh anh. Hãy mở tâm thức mình ra mà đón lấy…”

Bàn về việc Sartre, trong cái nhìn của Bùi Giáng, bóp méo và xuyên tạc rồi tấn công Heidegger trong khái niệm “In-der-Welt-sein” của triết gia này trong cuốn l’Être et le Néant ( Hữu Thể và Hư Vô) của mình, Bùi Giáng viết:

“Ở đây, rõ ràng ý Sartre muốn triệt để công kích Heidegger cho tả tơi tan tành trong-hào-ngoài-lũy—bằng cái toán quan quân kỳ dị truy sát đuổi dài. Bởi đâu ta dám bảo như vậy. Bởi rằng: cái tiếng l’être-au-milieu-du-monde là tiếng của Heidegger. Vật-thể-trong-đời hay tại-thể-trong-thế-gian chính là In-der-Welt-sein—một khái niệm cốt yếu trong tư tưởng Heidegger. Và sở dĩ ta bảo rằng đám loạn quân truy sát của Sartre quả thật là kỳ dị, ấy bởi rằng: Sartre xuyên tạc trước, rồi tra tấn sau. Sartre bóp méo tư tưởng của người ta rồi lên án người ta.

Cái khái niệm “trong đời” của Heidegger không có nghĩa ù lì, trơ trơ gỗ mục như Sartre bảo. Tại-thể-trong-đời, là xuất võng ngoại tồn phát tiết tinh hoa ra ngoài cõi đời để mở-phô-đời-cõi, thiết lập lại bên dòng cái cuộc đời rời rã cho kết-tụ-tròn-đầy lài liễu soi gương, khâm phụng lên đường theo thiết tha phóng hoạt—là thiên chức con người trước tiếng gọi Vô Ngôn.

Sartre đã đẩy Logos Hình Nhi Thượng của Heidegger cho té xuống bình diện Hình Nhi Hạ. Phusis bị dập hết hương màu. Thế còn chi là hồng nhan em Thúy? Tha hồ mà đo đếm đuổi xô. Đem bụi lầy bết vào thân tiên tử, đem bùn-đen trát vào mình mẩy mềm mại của giai nhân, rồi la to:–Con đĩ kia ơi! Mày hãy đưa tứ chi cho ông xiềng xích lại, rồi vào ngục tối mà nằm. Ông là nhân viên kiểm tục.

Duy có điều: Sartre vẫn đáng được ta mến là ở chỗ: Cái điệu tài-tình-ba-gai của Sartre nghe ra lắm chiều ngộ nghĩnh. Dường như Sartre thử đùa một cuộc chơi—để xem thử thiên hạ sẽ nghĩ như thế nào. Nếu ta nói chơi, mà đời lại nghe theo làm thật, lại ngây thơ hơn con trẻ, cứ lượm đá mà ném mãi vào thân thể giai nhân để tự-biến-mình-làm-quỷ—thì cũng là đáng cho cái kiếp các ngươi lắm đó. Giai nhân chết đi, thì rồi các người sẽ cưới ma-cuồng về mà ôm ấp (…)” (4)

Phong cách diễn tả của Bùi Giáng cho thấy ông có sở học rộng, mặc dù ông cũng rất chủ quan. Ở đây, ông là một nhà phê bình; nhưng cái chất nghệ sĩ trong con người ông còn mãnh liệt hơn cái chất phê bình kia. Và nghệ sĩ nào mà lại không chủ quan. Ông có cái tài hoa trong ngôn ngữ, cái nhiệt tình trong việc bênh vực cho lẽ phải trong quan điểm của mình, và cái cao ngạo, “pha” đời của một người coi thường cái học từ chương, trường ốc, khinh thường cái nhóm “trường trại lao xao”. Tự nói về ngôn ngữ của chính mình, ông bảo: “Lời mông-lung-cỏ-lá là xem thường hệ-thống-lý-luận-phỉnh-gạt của những phường giá áo túi cơm là cá chậu chim lồng” (M.H. và TTHĐ II) và “Đã là người Việt Nam thì chẳng lẽ lại viết triết học bằng chữ. Phải viết bằng lời. Mà lời của biển dâu không thể là lời văn xuôi. Phải là lời thơ “tái tân thanh” tái tạo. Văn xuôi cũng phải buộc là thơ. Và mở cửa cho thơ rúc vào nằm trong một vòng tròn trịa méo mó ôm nhau.” (M.H. và TTHĐ I).

Bởi vậy, cho dù ngoài thơ ra, Bùi Giáng có dịch một số tác phẩm của văn chương thế giới, có bình luận chú thích về tư tưởng hiện đại, thật sự, tất cả những gì ông viết ra đều nằm trong một bài thơ lớn. Một bài thơ lớn theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Bài thơ đó chính là đời sống của ông, là cuộc tồn lưu kỳ thú mà ông đã chọn lựa để sống trọn vẹn sinh mệnh mình trong cuộc lữ trần gian này:

Tôi đã nguyện yêu trần gian trọn vẹn

Hết tâm hồn và hết cả da xương

(Mưa Nguồn)

Bùi Giáng viết mấy quyển Tư Tưởng Hiện Đại chỉ là để, cuối cùng, nêu lên mấy câu của Tố Như trong Kiều hay mấy câu thơ của Huy Cận. Thì thực là như thế đó. Nhưng ông cũng viết những quyển sách ấy để nói lên những vấn đề trầm trọng của sử lịch Việt Nam, của con người Việt Nam, giữa mấy trời lửa khói:

Bóng mây trời cũ hao mòn

Chiêm bao náo động riêng còn hai tay

Tấm thân với mảnh hình hài

Tấm thân thể với canh dài bão dông

Cá khe nước cõng lên đồng

Ruộng hoang mang khóc đêm mồng một giêng

Tạ từ tháng chạp quay nghiêng 

Ầm trang sử lịch thu triền miên trôi

 

*

 

Bỏ trăng gió lại cho đời

Bỏ ngang ngửa sóng với lời hẹn hoa

Bỏ người yêu bỏ bóng ma

Bỏ hình hài của tiên nga trên trời

Bây giờ riêng đối diện tôi

Còn hai con mắt khóc người một con

(Mắt Buồn / trích nguyên bài trong tập Mưa Nguồn)

Ầm trang sử lịch. Sử lịch. Hình như đây là chữ đặc biệt của Bùi Giáng. Trước ông, hình như chưa có ai dùng từ sử lịch. Và kể từ Bùi Giáng, mỗi khi viết về ông, hoặc mỗi khi viết theo thể điệu của ông, người ta thường dùng từ này để nói lên cái tính lịch sử của đời sống , của con người, của một cuộc lữ, hay của một vòng quay, một dòng vận động. Có thể nhiều người trong chúng ta thấy từ ấy lạ, đầy nét Bùi Giáng, và đã tưởng là người thi sĩ cho “nét chữ lên đàng quẩn quanh”. Và chúng ta cũng cho nét chữ của mình quanh quẩn lên đàng đuổi theo nét chữ của người. Điều đó cũng là hợp lý khi đi tìm hay khi nói về phong cách của nhà thơ. Có lẽ ít người biết rằng, dù là có một phong cách dùng từ độc đáo, trong việc dùng từ “sử lịch” này, Bùi Giáng có quan niệm rõ ràng của ông. Ông sáng tạo ra từ “Sử Lịch”—hoặc nếu nó đã có trước đó, trong văn mạch của ông nó đã được dùng theo một nghĩa đặc biệt—để diễn một khái niệm triết lý của Heidegger. Ở đây không phải chỉ là chuyện “hóa ra nét chữ lên đàng quẩn quanh” mà thôi. Sử lịch là lịch sử nhuốm đẫm màu thời gian pha phôi thiên cổ. Ở phần phụ lục cuối sách trong quyển Martin Heidegger và Tư Tưởng hiện Đại II, trong phần chú giải về những ngôn từ cốt yếu của Heidegger (vài chục từ) mà Bùi Giáng có nhắn gửi với người đọc là: “Nắm lấy chừng này Ngôn từ, bạn sẽ có cái Chìa Khóa mở một Cửa Mộng”, ông chú giải về từ Geschichte theo thể điệu Bùi Giáng:

” (…)

Geschichte: Sử Lịch, Sử Mệnh, Sử Kiếp, Hồng Sử, Thanh Sử…

Trên trang sách Heidegger, tiếng Geschichte có âm vang kỳ bí não nùng như những tiếng Cổ Lục Sử Xanh của Nguyễn Du. Trong Đức Ngữ cũng có tiếng Historie như History (Anh), Histoire (Pháp).

Theo nghĩa thông dụng thì trong Đức Ngữ hai tiếng HistorieGeschichte vẫn không khác gì nhau. Nhưng trong sách Heidegger thì triết gia phân biệt hẳn hai nghĩa. Historie được dùng theo nghĩa sử là sử ký, sử sự, sử kiện, sử chi li biến cố. Tĩnh tự là historisch. Còn Geschichte thì có nghĩa man mác mênh mông của Thời Gian hòa vào Vĩnh Thể trong tâm thức con người là Tại Thể hoài vọng luân lưu. Âm hưởng Sử Lịch phiêu bồng trong chiều hướng quá vãng theo về bờ cõi mai sau.

Những tiếng Geschichte, geschichtlich, Geschichtlichkeit đều mang đủ những gì trầm trọng của Sein und Zeit (5) của Zeitlichkeit chan gội tồn lưu tố chất… Dịch giả Anh, Pháp đã bối rối rất nhiều trước những tiếng này. Việt Nam nhờ có Nguyễn Du nên đỡ sợ.

Tạm đưa một vài thí dụ để dễ nhận nghĩa hơn: khi bàn tới tiếng philosophia của Cổ Hy Lạp, Heidegger bảo: vì tiếng kia là của Hy Lạp ngàn xưa mênh mông, nên lời của philosophia là lời của nghĩa Con Đường, lời của Đạo. Đến bây giờ, theo dấu cỏ, ta đi. Bước trên đường, và ta hiểu đạo philosophia. Nhưng thật ra cái con đường của yêu thương cái sophon đã mất nhiều cỏ hoa vì bàn chân ta thô bạo. Ta bứt trụi lá cây. Và từ đó ta tưởng mình quen biết con đường, nhưng thật ra cũng hầu như không biết. Biết rất mù mờ, dù có nhớ rõ vanh vách những hòn sỏi, những cồn lau. Dù có thuộc làu làu những gì trong Cổ Sử: chuyện trước, chuyện sau, câu đầu, hàng cuối, sử ký, sử ghi, sử sự tràn lan đùn đẩy. Vẫn chưa rõ đạo của đường. Bởi đâu?

[Bỏ một đoạn trích tiếng Đức của Bùi Giáng để làm bật nghĩa historische Kenntnisse.]

Ấy bởi rằng những Sở Tri Sử Ký chồng chất kia (viele historische Kenntnisse) nó nằm trong trí óc lao xao, nó xui ta bận trí đếm đo hoài, nên ta không còn tâm linh mà mặc niệm. Ta bỏ lạc tồn lưu và mất trụi cái cốt thiết của Căn Cơ ẩn kín (innerst Grundzug) của Sử Lịch là Geschichte nằm trong Sử-tố-chất của Tại Thể—die Geschichtlichkeit des Daseins.

Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ

Quán thu phong đứng rũ tà huy

Lời cổ độ gây rung động dị thường. Vì Dasein đã nhìn vạn vật trong vẻ kỳ ảo Sơ Khai. U huyền trong cổ độ, huyền mộng trong tà huy, mộng tình trong thệ thủy, tình tự trong thu phong… Đứng rũ vì nhớ nhung, ngồi trơ vì thê thiết. Quán và Cầu là hình ảnh của hoài niệm về Sơ Thủy không nguôi….”

Đoạn trích dẫn vừa rồi khá dài. Nhưng, ở đây, tôi chỉ muốn cho người đọc thấy rằng nhiều khi chúng ta cứ tưởng rằng Bùi Giáng chỉ thích đùa cợt gùn ghè giỡn chơi với chữ nghĩa, nhưng thật sự thì chẳng phải vậy. Ông đùa giỡn, điên đảo, quẩn quanh hoa cỏ thật, nhưng ông cũng là một người thật hết lòng nghiêm cẩn với chữ nghĩa của mình. Ta hãy thử đọc vài ba định nghĩa nữa của ông về mấy từ thiết yếu trong sách của Heidegger, người mà Bùi Giáng rất mực tâm đắc và yêu mến.

Sein: Hữu Thể, Tồn Thể, Vĩnh Thể.

Seiende: Hiện sinh, Hiện Thể, Vật Thể

Gefrage: Điệu hỏi ò e, lao xao, theo lối trường trại ồn ào, làm tan nát màu hương của chiêm niệm u uyên.

Hai từ đầu nghiêm cẩn. Từ thứ ba rất “mông lung cỏ lá”, diễn được cái ý xem thường “lối trường trại” ồn ào của Bùi Giáng.

 

.3.

Con người của Bùi Giáng không chỉ để lộ nét tài hoa trong thơ của mình. Hay trong hằng ngàn trang sách của Tư Tưởng Hiện Đại, và trong hằng mấy ngàn trang sách khác nữa của những quyển khảo luận về văn chương, tư tưởng Việt Nam cũng như về văn chương, tư tưởng thế giới. Nét tài hoa ẩn mật mở phơi hào hứng của ông còn được thể hiện rất rõ trong những dịch phẩm mà ông đã để lại cho đời. Tùy vào cái tạng của mỗi người mà chúng ta có thể cảm hay không cảm, thích hay không thích, cái phong cách dìu ba đào về những chân trời viễn mộng trong những bản dịch của Bùi Giáng. Dù sao, ai cũng phải công nhận đó là những bản dịch đặc biệt, những bản dịch có một không hai trong văn dịch của chúng ta.

Có một lần, Bùi Giáng đã thổ lộ về quan niệm dịch văn của mình trong lời Tựa quyển Cõi Người Ta (6) mà ông dịch từ Terre des Hommes của Saint-Exupéry như sau:

” (…) Theo dõi giấc mộng dài của Saint-Exupéry, lại gọi ngôn ngữ Việt Nam về hạ tứ, nhiều phen phải bàng hoàng: Chúng ta đứng trước mấy lần hiểm họa của màu sắc lục hồng cứ trùng điệp rủ nhau bay, tung lên phủ xuống (…)

Dịch văn—sao cứ gọi là dịch?—dịch văn biến thành câu chuyện; vừa bay lên, vừa lặn xuống, vừa lẽo đẽo nối liền hai bờ ngôn ngữ quá xa nhau. Thật vừa vui, vừa mệt mỏi.

Ngôn ngữ đa âm đòi hỏi lối phiên dịch như thế nào qua ngôn ngữ đơn âm? Đó là điều đáng xui chúng ta tư lự đăm chiêu.

Vì lẽ: tiết điệu đa âm có một phong thái dồi dào đương yêu cầu được tái hiện. Đây là trường hợp: ở bên kia từ ngữ, tiết điệu của ngôn ngữ đương nói rất nhiều.

May sao, Việt ngữ đơn âm lại giàu sang âm vận. Nhưng không phải ở mọi cơ hội đều giản dị giàu sang. Do đó cần thêm một chút chuyển hóa thỏa đáng thì lời dịch sẽ tái lập được “cung bậc” gieo vàng của nguyên ngôn. Mà nguyên ngôn Saint-Exupéry lại chứa chan những thơ mộng khi u trầm, ngậm ngùi lúc lộng lẫy. Cái điệu nói la cà diệu vợi, vừa chát chát vừa hắt hiu, lúc nhắc tình bạn hữu, lúc gợi tiếng U già, lúc chuyện trò với gái trên nhịp cầu hai cõi hoang vu. “Tả nhi nữ tư tình, đãng khí hồi trường. Tả anh hùng sự tích, nghĩa bạc vân tiêu.” (…)

Trong bản dịch, có mấy chỗ thêm vài lời, ấy là gắng đưa ngôn ngữ đơn âm đuổi theo tiết điệu ngôn ngữ đa âm. Thỉnh thoảng lại bớt vài lời, ấy là bởi: Việt ngữ mang nhiều tính chất parataxique trong khi Pháp ngữ lại triệt để là một ngôn ngữ syntaxique. (…) “

Sau đây, ta hãy thử đọc một đoạn trong Terre des Hommes của Saint-Exupéry, rồi thử tìm xem cái giọng điệu lãng đãng thơ mộng ấy của Saint-Exupéry ngân vang bồi hồi trong bản dịch Cõi Người Ta của Bùi Giáng ra sao:

J’ai atterri dans la douceur du soir. Punta Arenas! Je m’adosse contre une fontaine et regarde les jeunes filles. A deux pas de leur grâce, je sens mieux encore le mystère humain. Dans un monde où la vie rejoint si bien la vie, où les fleurs dans le lit même du vent se mêlent aux fleurs, où le cygne connait tous les cygnes, les hommes seuls bâtissent leur solitude.

Quel espace réserve entre eux leur part spirituelle! Un songe de jeune fille l’isole de moi, comment l’y joindre? Que connaitre d’une jeune fille qui rentre chez elle à pas lents, les yeux baissés et se souriante à elle-même, et déjà pleine d’inventions et de mensonges adorables? Elle a pu, des pensées, de la voix et des silences d’un amant, se former un Royaume, et dès lors il n’est plus pour elle, en dehors de lui, que des barbares. Mieux que dans une autre planète, je la sens enfermée dans son secret, dans ses coutumes, dans les échos chantants de sa mémoire. Née hier de volcans, de pelouses ou de la saumure des mers, la voici déjà à demi divine.

Punta Arenas! Je m’adosse contre une fontaine. Des vieilles viennent y puiser; de leur drame je ne connaitrait que ce mouvement de servants. Un enfant, la nuque au mur, pleure en silence; il ne subsistera de lui, dans mon souvenir, qu’un bel enfant à jamais inconsolable. Je suis un étranger. Je ne sais rien. Je n’entre pas dans leurs Empires. (7)

Lời văn của Saint-Exupéry mang tiết điệu trầm buồn, u hoài, đầy nét vợi xa lãng đãng. Và, từ đó, Bùi Giáng dịch là:

Tôi hạ cánh giữa tịch mịch chiều vàng. Punta Arenas! Hãy nhìn ta tựa lưng vào bờ giếng mà ngó gái giữa thanh xuân. Cách nhau hai bước, tôi càng cảm thấy rõ cái lẽ huyền nhiệm kiếp người… Trong một thế giới mà sự sống giao tiếp dễ dàng với sự sống, mà những cành hoa giữa lòng gió hồn nhiên hôn phối với những cành hoa, một thế giới mà con thiên nga nào cũng quen biết mọi con thiên nga, trong thế giới đó, chỉ riêng con người là xây dựng căn lầu mộng cô đơn.

Phần tinh anh còn cách biệt nhau nghìn trùng. Một giấc mộng “đầu hoa ngang ngửa thắm” của gái xuân càng chia nường biệt lập tôi, biết làm sao mà tìm cái lối vào trong nẻo đó ở trong kia? Làm sao hạnh ngộ, làm sao nghe ra, làm sao ngóng thấy, làm sao biết rõ những cơn man mác trong nhịp bước gái tơ đi lững thững chiều hôm về căn nhà cha mẹ, mắt lim dim khép mở hai hàng, hai đôi má núng đồng tiền mở nụ, một mình mỉm cười với gió ẩy tà xiêm một mình em hay, một mình em biết, một mình rộn lên những trận viễn du khai phá, những mộng tưởng phát minh, những u hương rập rình quân nhạc dối nhau xiêu đình đổ quán… Nàng đã tự thiết lập một điện đài ẩn bí trong một vương quốc rẽ riêng, bằng những gì của riêng ai đem lại, bằng những gì của gã tình nhân đăm chiêu tơ tưởng? bằng điệu nói của chàng? bằng lặng lẽ của anh? Từ đó về sau, đối với em, chỉ riêng chàng là hoàng tử chí tôn, ngoài chàng ra, người người trong thiên hạ thảy thảy là bọn lưu manh man dại côn đồ? Em khép thân ngà trong một cõi, kín đáo hơn lối vào một viễn cách hành tinh, em che lấp đời riêng trong những lối đi về kiều diễm, trong những thói nhà băng tuyết, trong những âm thanh dìu dặt của ký ức não nàng lờ lững phỉ phong. Sinh ra từ giữa lòng núi lửa, từ giữa lòng thảo hoa, từ chất muối trùng khơi thổi mặn, mới đó hôm qua, nay em đã hầu thành Tiên Nữ.

Punta Arenas! Tôi tựa lưng vào bờ giếng. Những đàn bà già nua tới đây lấy nước. Trong tấn bi kịch đời họ, ngày mai tôi sẽ biết riêng chỉ một cử động tôi đòi ấy thôi. Một bé con ngửa cổ vào tường, khóc lặng lẽ. Ngày mai trong kỷ niệm của tôi, sẽ chỉ còn ghi riêng hình ảnh một đứa bé lạc loài, sầu khổ không nguôi. Tôi là kẻ lạ tới đây. Tôi không biết, không biết gì hết cả. Thế giới họ, tôi không thể bước vào. Làm sao tôi dám nói.

Ngày còn trẻ, những năm mười tám, mười chín, hai mươi, đọc Terre des Hommes, rồi đọc bản dịch Cõi Người Ta của Bùi Giáng, thú thật, tôi chịu không nổi. Trong những tháng năm tuổi trẻ ấy, cái gì mình cũng muốn đâu vào đấy, cái gì mình cũng muốn thẳng lối ngay hàng. Mình thích sự nghiêm cẩn, thích sự gọn gàng chính xác. Câu văn của Bùi Giáng thêm thắt lòng vòng, ngõ trước vườn sau, mông lung lá cỏ. Làm sao tuổi hai mươi ngày ấy chấp nhận được. Nhưng rồi thời gian trôi qua lãng đãng. Bây giờ, đọc lại câu văn dịch của Bùi Giáng, tôi thấy bập bềnh cái hơi thở u hoài của trần gian thênh thang mà miên man lồng lộng. Trên những câu văn của Bùi Giáng, tôi vẫn thấy còn sót lại một vạt nắng vàng trong man mác chiều tà. Người con gái đầy ắp xuân thì, cúi đầu, tự mỉm cười với chính mình, bước đi lững thững về nhà, trong lòng chất đầy mơ mộng. Những bà già ra giếng kín nước. Một cậu bé con ngửa cổ vào tường, khóc lặng lẽ. Câu văn dịch của Bùi Giáng lòng vòng diệu vợi. Thế mà bây giờ, đọc lại, sao tôi lại thấy nó để lại trong lòng mình những ấn tượng thật mạnh và buồn (8)

Một bản dịch khác của Bùi Giáng, cũng là một tác phẩm của Saint-Exupéry, mà tôi rất thích là quyển Le Petit Prince. Bản dịch của Bùi Giáng là Hoàng Tử Bé (9). Đây là một cuốn sách tuyệt vời. Và bản dịch của Bùi Giáng cũng đạt được độ tuyệt vời của nguyên tác. Cuốn sách kể lại câu chuyện của một chú hoàng tử bé, sống trên một tinh cầu xa xăm. Chàng có một đóa hoa và chàng đã ngày ngày tận tâm tưới nước, chăm sóc cho đóa hoa ấy. Đó là một đóa hoa đặc biệt của một chủng tử đặc biệt trên tinh cầu chàng. Đó là đóa hoa duy nhất của chủng tử nọ, và chính là vì đóa hoa yêu kiều diễm lệ này mà hoàng tử bé đã lên đường phiêu lưu. Chàng đi qua nhiều tinh cầu khác nhau và thấy được nhiều sự lạ lùng trong tính chất của “con người”: một ông vua, một người hay khoe khoang, một chàng thích ăn nhậu, một người làm áp-phe, một người chuyên đi thắp đèn, một nhà địa lý. Tới trái đất, sau khi gặp một con rắn, sau khi gặp những đóa hoa hồng, hoàng tử bé kia gặp một con chồn. Và, trong nguyên tác cũng như trong bản dịch của Bùi Giáng, con chồn này quả là phiêu hốt và thơ mộng đáng yêu quá thể.

Sau khi gặp gỡ, chào hỏi nhau, hoàng tử bé nói chàng muốn con chồn đến ở chơi với chàng, vì chàng buồn quá. Con chồn trả lời là nó không thể chơi đùa với chàng được vì nó chưa được “tuần dưỡng”, bởi thế tính khí chưa thuần. Hoàng tử bé hỏi con chồn “tuần dưỡng” là gì. Nhưng con chồn nói sang chuyện khác. Sau hai, ba lần như thế, hoàng tử bé vẫn không quên câu hỏi của mình. Chàng lại hỏi con chồn: Tuần dưỡng có nghĩa là gì?

– Đó là một điều bị quên lãng quá nhiều, con chồn đáp: đó có nghĩa là “tạo nên những mối liên lạc…”

– Tạo nên những mối liên lạc?

– Hẳn thế, con chồn nói. Đối với tôi, chú hiện giờ chỉ là một đứa trẻ giống y như trăm nghìn đứa trẻ bé khác. Và ta không cần thiết gì tới chú. Và chú cũng chẳng cần gì tới ta. Đối với chú, ta chỉ là một con chồn lũi lang thang như trăm nghìn con chồn lũi phất phơ phiêu hốt dưới sương trời lỗ đỗ thế thôi. Nhưng nếu chú tuần tuần thiện dưỡng ta, thì chúng ta sẽ cần tới nhau. Chú sẽ trở nên duy nhất trong cõi đời, đối với ta. Ta sẽ trở nên duy nhất trong cõi đời, đối với chú…

– Ta bắt đầu hiểu rồi đó, hoàng tử bé nói. Có một đóa hoa… ta tưởng nàng đã tuần dưỡng ta… (…)

Thế rồi con chồn tâm sự:

– Đời ta tẻ nhạt. Ta đuổi bắt những con gà mái, loài người đuổi bắt ta. Mọi con gà mái đều giống nhau, và mọi mọi con người đều giống nhau (dù là người phồn hoa rực rỡ, dù là người phố thị đìu hiu…) Vậy nên ta có u sầu chán ngán đôi chút. Nhưng nếu chú tuần dưỡng ta, cuộc sống của ta sẽ sáng sủa ra, kể như có bóng mặt trời chiếu vào vậy (…) Và này coi kìa! chú thấy ở đằng xa kia kìa những cánh đồng lúa mì đó chớ? Ta không ăn bánh mì. Lúa mì đối với ta vô dụng. Những cánh đồng lúa mì chả có nhắc nhở ta cái gì ráo. Và cái điều đó, thật đáng buồn! Nhưng chú có những sợi tóc màu vàng óng. Vậy nên sự vụ sẽ trở thành huyền diệu, một khi chú đã tuần dưỡng ta xong! Lúa mì, màu vàng óng, từ đó về sau sẽ nhắc nhở ta nhớ tới chú. Và từ đó ta sẽ yêu tiếng gió thổi thánh thót trong lúa mì hiu hiu… (…)

Rồi con chồn thủ thỉ hẹn hò. Cho nhu cầu “tuần dưỡng”, nó yêu cầu hoàng tử bé đến đúng giờ, mỗi ngày. Và nó giải thích rõ lý do vì sao chàng phải đúng giờ như thế:

– (…) Nếu chú đến, chẳng hạn, vào lúc bốn giờ chiều, thì khởi từ lúc ba giờ chiều, cõi lòng ta đã bắt đầu sung sướng. Tới bốn giờ chiều thì, ha! ta loay hoay, e ngại, ta ngồi đứng không an; ta sẽ khám phá được ý nghĩa vô ngần hắt hiu của phù du mênh mông hạnh phúc! Nhưng nếu chú tới bất kể lúc nào, thì ta sẽ chẳng biết đâu vào đâu mà mò ra cho đúng cái giờ phải chuẩn bị cho cái trái tim, cái phút phải vận y phục vào cho cái cõi lòng đón chào tươm tất… Cần phải có những nghi thức thơ mộng, những điển lễ phôi pha. (…)

“Tuần dưỡng”, từ này nghe lạ. Bùi Giáng khéo chọn từ, nó làm cho mình nhớ mãi. Trong những dịp đi lang thang vào các nhà sách bên Âu châu, năm này năm nọ tôi đã mua được năm sáu bản dịch khác nhau của tác phẩm này. Vì là sách dành cho trẻ con (!) (10), ấn bản của ngôn ngữ nào cũng in thật đẹp với những hình vẽ bằng màu nước của chính Saint-Exupéry. Trở lại với “tuần dưỡng”. Ở đây, xin lấy ra vài bản dịch với những ngôn ngữ thông dụng. Trong nguyên tác, Saint-Ex dùng từ “apprivoiser”. Bản Anh dịch của Katherine Woods, dùng từ “tame”. Bản Tây-ban-nha, dịch giả Bonaficio del Carril dùng “domesticar”. Những từ này, nói chung, là những từ bình thường, quen thuộc, không đặc biệt tạo ra một ấn tượng rõ nét. Từ của Bùi Giáng dùng, đối với người Việt chúng ta, nghe thấy lạ lẫm. Và nó tạo được ấn tượng sâu sắc làm cho ta nhớ mãi.

Câu con chồn nói, “Đối với chú, ta chỉ là một con chồn lũi lang thang giống như trăm nghìn con chồn lũi phất phơ phiêu hốt dưới sương trời lỗ đỗ thế thôi” là một câu đầy nét Bùi Giáng. Bản chính chỉ là “Je ne suis pour toi qu’un renard semblable à cent millle renards.” Bản Anh dịch là, “To you, I am nothing more than a fox like a hundred thousand other foxes.” Bản Tây-ban-nha, “No soy para ti más que un zorro semejante a cien mil zorros.” Cái sự vụ “lang thang (…) phất phơ phiêu hốt dưới sương trời lỗ đỗ” hoàn toàn là do Bùi Giáng thêm vào. Nhưng sao nó lại làm cho câu văn phiêu bồng phất phơ thơ mộng làm vậy! Dịch được một câu như thế có lẽ vì chính Bùi Giáng cũng đã là một con người “lang thang phất phơ phiêu hốt dưới sương trời lỗ đỗ” suốt cả đời mình.

Câu “Cần phải có những nghi thức thơ mộng, những điển lễ phôi pha”, trong chính bản, chỉ là, “Il faut des rites.” Bản tiếng Anh, “One must observe the proper rites…” Bản Tây-ban-nha, “Los ritos son necesarios.”

Câu “Mọi con gà mái đều giống nhau, và mọi mọi con người đều giống nhau (dù là người phồn hoa rực rỡ, dù là người phố thị đìu hiu…). Vậy nên ta có u sầu chán ngán đôi chút”, trong chính bản là “Toutes les poules se ressemblent, et tous les hommes se ressemblent. Je m’ennuie donc un peu.” Bản Anh, “All the chickens are just alike, and all the men are just alike. And, in consequence, I am a little bored.” Bản Tây-ban-nha, “Todas las gallinas se parecen y todos los hombres se parecen. Me aburro, pues, un poco.” Cái phần thêm thắt vào, “dù là người phồn hoa rực rỡ, dù là người phố thị đìu hiu”, của Bùi Giáng, trong cảm nhận của riêng tôi, thật là “đã”. Nó làm cho con chồn lũi ấy phất phơ phiêu hốt hơn những con chồn trong chính bản và trong các bản dịch kia nhiều. Nó làm cho cuộc đối thoại của hoàng tử bé và chú chồn ấy “có da có thịt” thêm. Nó làm cho những “nhân vật” ấy có cá tính hơn nữa.

Như thế, ta thấy rõ là Bùi Giáng đã làm đúng với quan niệm dịch văn mà ông đã đề ra, “Dịch văn biến thành câu chuyện; vừa bay lên, vừa lặn xuống, vừa lẽo đẽo nối liền hai bờ ngôn ngữ quá xa nhau. (…) Trong bản dịch, có mấy chỗ thêm vài lời, ấy là gắng đưa ngôn ngữ đơn âm đuổi theo tiết điệu ngôn ngữ đa âm. (…)” Bùi Giáng, trên một số phương diện, quả đã thành công một cách đáng yêu trong những bản dịch của mình.

 

.4.

Tôi nhớ trong tập Mưa Nguồn, Bùi Giáng có viết: 

Em về mấy thế kỷ sau

Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không

Ta đi gửi lại đôi dòng

Lá rơi có dội ở trong sương mù

Bùi Giáng đã ra đi rồi. Nhưng vầng trăng ông để lại vẫn mãi còn nguyên một màu sơ thủy. Những lá hoa cồn hay những dòng chữ mà ông để lại cho đời vẫn thấp thoáng mãi trong những bóng sương mù của thi ca, của hồn nguyên tiêu ngày cũ. Mãi mãi, chúng sẽ còn để ngân lại trong lòng những người yêu quý ông những tiếng gọi trở về. Trở về bến sơ đầu của những cơn mưa nguồn ngày cũ, của những bài ca quần đảo hoang vu, của những lời cố quận mịt mù gang tấc. Hẳn đã nhiều lần trong cuộc tồn sinh của mình, Bùi Giáng đã nhận thấy rằng quê hương của ông, cố quận của ông đã không còn như xưa. Dù quê hương hay cố quận đó có được hiểu như thế nào đi nữa thì ông cũng đã “chết nhiều lần trong trận sống”, và trong cuộc đời này, hình như nhiều lúc ông đã lạc mất lối về. Bởi thế, để tìm về đường xưa lối cũ của những hồn nguyên tiêu (Ngõ ban sơ, hạnh ngân dài / Cổng xô còn vọng điệu tài tử qua / Lỡ từ lạc bước bước ra / Chết từ sơ ngộ màu hoa trên ngàn), có lẽ người thi sĩ ấy chỉ còn có thể tìm về và tìm vào những cuộc chiêm bao:

Hỗn mang về giữa hiên nhà

Bây giờ cố quận tên là chiêm bao

(Rượu Uống)

Một giấc chiêm bao có mang mang thật nhiều nắng lạ:

Người nằm ngủ thấy gì

Thấy thật nhiều nắng lạ

(Mưa Nguồn)

Nắng lạ ấy có lẽ là thứ nắng đã làm cho “trời xanh đỏ chín” trong rừng sim những ngày chăn bò tuổi nhỏ của Bùi Giáng. Và chắc đó cũng là thứ nắng làm cho ông thấy “cây lá bốn bên song song từng lứa / sánh đôi nhau như ứa lệ ngàn hàng” khi ông để cho bò tự do gặm cỏ trong rừng sim, còn mình thì nằm ngó ngất ngây trời đất, nghe “mùi thoang thoảng lách lau sương đượm / mùi gây gây gấy gấy của hương rừng / mùi lên men phủ ngập mông lung / không biết nữa mà cần chi biết nữa”.

Bùi Giáng đã yêu trần gian, yêu cuộc sống, yêu cuộc chơi mà ông đã dấn thân vào với tất cả hồn xác, với tất cả “thân thể máu me và da xương” của mình biết bao:

(…) Xin yêu mãi yêu và yêu nhau mãi

Trần gian ơi! cánh bướm cánh chuồn chuồn

Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại

Con vi trùng cùng sâu bọ cũng yêu luôn

 

Còn ở lại một ngày còn yêu mãi

Còn một đêm còn thở với trăng sao

Thì cánh mộng còn tung lên không ngại

Níu trời xanh tay với kiễng chân cao.

(Mưa Nguồn)

Đọc Bùi Giáng, biết về cuộc sống của ông sau này, thương yêu và quý mến ông làm có những khi tôi tự hỏi rằng tuổi thơ của ông đã như thế nào, và ông đã sống tuổi trẻ của mình ra sao. Ông đã nhìn thấy những gì khi ông vừa biết mở rộng cặp mắt để ngó vào đời. Những viễn tượng nào trong thuở đầu xanh mà ông nhìn thấy đã đẩy ông vào cuộc lữ:

Cũng vô lý như lần kia dưới lá

Con chim bay bỏ lại nhánh khô cành

Đời đã mất tự bao giờ giữa dạ

Khi lỡ nhìn viễn tượng lúc đầu xanh

 

Buổi trưa đi vào giữa lòng lá nhỏ

Tiếng kêu kia còn một chút mong manh

Dòng nức nở như tia hồng đốm đỏ

Lạc trời cao kết tụ bóng không thành

 

Lá cũng mất như một lần đã lỡ

Trời đã xanh như tuổi ngọc đã xanh

Trời còn đó giữa tháng ngày lỡ dở

Hồn nguyên tiêu ai kiếm lại cho mình

 

Đường vất vả vó ngựa chồn lảo đảo

Cồn sương đi vào sương lạnh miên man

Bờ bến cũ ngậm ngùi sông nước dạo

Đêm tàn canh khắc vợi nguyệt gương ngàn

 

Một lần đứng lên mấy lần ngồi xuống

Ngón trên tay và tóc xõa trên đầu

Tình đếm lại muôn vàn thôi đã uổng

Để bây giờ em có biết nơi đâu

 

Bờ trùng ngộ một phen nầy phen nữa

Tờ cảo thơm như lệ ứa pha hồng

Hồn hoa cỏ Phượng Thành Hy Lạp úa

Nghe một lần vĩnh viễn gặp hư không

(Hư Vô và Vĩnh Viễn / trích nguyên bài trong Mưa Nguồn)

Nguyễn Đức Quỳnh có lần nói Bùi Giáng giống như là Lão Tử. Ông không dẫn giải gì thêm. Thật sự, so sánh nào cũng khập khễnh, nhất là khi ta so sánh những đối tượng sống xa nhau cả trong thời gian lẫn không gian như thế. Nhưng nếu ta chấp nhận tính tương đối của sự so sánh, hẳn nhiên nhận xét ấy có những điểm đích đáng của nó. Lão Tử chống lại và mạt sát lễ. Chương 38 sách Lão Tử (Đạo Đức Kinh) chép: “Thất Đạo nhi hậu Đức, thất Đức nhi hậu nhân, thất nhân nhi hậu nghĩa, thất nghĩa nhi hậu lễ. Phù lễ giả, trung tín chi bạc nhi loạn chi thủ”, có nghĩa là “Đạo mất rồi sau mới có Đức, Đức mất rồi sau mới có nhân, nhân mất rồi sau mới có nghĩa, nghĩa mất rồi sau mới có lễ. Lễ là biểu hiện sự suy vi của trung tín (trung hậu, thành tín), là đầu mối của sự hỗn loạn”(11). Bùi Giáng cũng không thích lễ nghi phiền toái. Ông rất ghét cái thói “lễ nghĩa” của những kẻ từ chương, trường ốc mà ông gọi là “bọn trường trại lao xao”. Ông không thích cái giọng mà ông gọi là “bo-bo-lễ-nhượng-hương-nguyện-lưa-thưa” của họ. Ông cũng rất ghét những màn thủ tục lễ nghi rườm rà. Thậm chí, theo Mai Thảo, có những lần Bùi Giáng ra đứng tắm ở cái máy nước trước tòa soạn báo Văn cũ ở đường Phạm Ngũ Lão, Sài gòn, thản nhiên trước bao nhiêu người qua kẻ lại, quần áo lướt thướt đi qua đường, một đám con nít tròn mắt đi theo. Ông mặc quần áo thùng thình, mái tóc dài đạo sĩ, cái túi vải trên vai, lại thêm một cây gậy chống nữa. Ông lang thang đây đó, ngủ bất cứ ở đâu, dưới trời sao, dưới một gầm cầu, hay dưới một mái hiên. Có những lúc lại thấy ông đeo một xâu chuỗi toàn giày dép và quần áo phụ nữ quanh cổ. Trẻ con và người lớn đều xem ông là một người điên. Bùi Giáng điên vì đời. Nhưng , ở một mặt nào đó, ông lại là một người rất sáng suốt. Lão Tử giấu mình, ẩn danh. Bùi Giáng sống với đời, thiết tha với cuộc chơi mà ông đã chọn với tất cả “thân thể máu me và da xương” của mình. Tôi nghĩ, trong nhiều khía cạnh, có lẽ Bùi Giáng giống Trang Tử hơn. Trang Tử chọn lối sống tiêu dao, lại thích lý luận, tranh cãi hào hứng với mọi người, đặc biệt với bạn thân là Huệ Tử. Một cá tính nữa của Trang là vui sống, thiết tha với cuộc sống (12). Tất cả những điều này ta đều thấy thể hiện nơi con người Bùi Giáng. Ông là con người của tiêu dao, lang thang phiêu hốt dưới sương trời lỗ đỗ, không chấp nhận bất cứ một hình thức gò bó nào. Và ông chấp nhận trả giá cho cuộc chơi, cho cuộc tồn sinh của mình.

Nói mà chơi chứ Bùi Giáng chẳng phải Trang mà cũng chẳng phải Lão. Ông là một con người Việt Nam, yêu truyện Kiều, yêu Nguyễn Du, Huy Cận, và yêu luôn ca dao chuồn chuồn châu chấu. Ông yêu ngôn ngữ quê hương, và ông đã cả đời ăn nằm, chơi nghịch nghiêm trang với nó. Bùi Giáng là một người đã đi lang thang trong chốn tư tưởng của nhân loại, trong cõi thi ca của thế giới, nhưng lúc nào ông cũng chỉ muốn cuộn mình “tròn trịa méo mó” để nằm trong vòng nôi của ngôn ngữ dân tộc. Hôm nay, ông đã bỏ đi. Bỏ đi để tìm lại một màu hoa cũ. Một màu hoa trên ngàn. Một hồn nguyên tiêu. Một giấc mộng ban đầu đã bao năm khuất bóng. (Hỏi tên rằng biển xanh dâu / Hỏi quê rằng mộng ban đầu đã xa). Xin chúc ông lên đường phơi phới. Xin chúc ông tìm lại được một bầy nắng lạ. Và nguyên sơ một vầng trăng cũ. Một vầng trăng châu thổ. Cùng những sắc màu thiên thu cổ độ. Và xin bẻ tặng ông một nhành mai ngày cũ.

Những nhành mai sớm sương bên lá

Những nhành liễu chiều gió bên cây

Cũng lay lắt bởi đời xuân em ạ

Thế nên chi anh cũng viết dòng này

 

Hồng vàng tụ bữa kia em có thấy

Nước xuôi dòng là cổ độ nhìn theo

Tuổi mười sáu bây giờ lên gấp gảy

Mộng miên man là mây phủ lưng đèo

 

Buồn phố thị cũng xa bay như gió

Cộ xe nhiều cũng nhảy bổng như hươu

Bờ cõi dựng xuân xanh em còn đó

Bến đào nguyên anh khoác áo khinh cừu

 

Tìm theo dấu chân người xưa tư lự

bên đường ngóng dõi khánh vân bay

Mờ con mắt một lần lên tiếng thử

Em ồ em, anh nói một lời này

(Những Nhành Mai / Trích nguyên bài trong Mưa Nguồn)

Bùi Giáng, có lẽ đã đến lúc ông lên đường trở về cố quận. Chúng ta phải chia tay. Lần cuối, xin tiễn ông một bài thơ cũ. Một bài thơ năm nào. Tôi vẫn tin rằng, một ngày nào đó, một cách nào đó, ông sẽ trở về. Và, ở đây, tôi xin phép được không nói lời vĩnh biệt. 

Người đã bỏ đường kia ở lại

Để đi vào đối diện hư không

Bờ thánh thót thu sau về vạn đại

Lời chào kia nức nở lạnh vân mồng

 

Bóng trắng như sương vàng bay pha hạc

Quanh Trường Thành bờ cõi đất in rêu

Dòng trở lại ngậm ngùi khe bến cát

Gió mông lung vì mây nổi lưng đèo

 

Xuân đi đến đi về nằm ở giữa

Hẹn một kỳ bấn loạn mấy mùa đông

Màu tuyết bạch mơ màng trang lệ ứa

Rớt chung quanh là đú đởn cầu vồng

 

Từ vĩnh biệt một lần đi từ đó

Nước xuôi dòng cổ độ chẳng nhìn theo

Lòng lây lất bên trời phương hướng nọ

Mắt ngu ngơ nhìn bọt nước sa bèo

(Từ Thức / Trích nguyên bài trong tập Lá Hoa Cồn)

 

Bùi Vĩnh Phúc

Irvine, California.

1998

_________________________

Chú Thích:

(1) Trong Ngày Tháng Ngao Du, Bùi Giáng thổ lộ: “(…) Hồi nhỏ, tôi đã được sanh ra và lớn lên trong miền quê hẻo lánh, xung quanh có ruộng đồng sông núi trùng điệp, những đám cỏ chạy suốt cả tuổi thơ (làng tôi xưa kia có nhiều cỏ mọc. Cỏ mọc từ trong làng ra ngoài ruộng, tới những cồn, gò, đồi núi thật xanh. Từ đó về sau, tôi tìm kiếm mãi một màu xanh không còn nữa vì những trái bom và hòn đạn thiêu nướng khổng lồ….”

(2) Xem Bùi Vĩnh Phúc, Vấn đề thẩm thức một tác phẩm nghệ thuật, Văn Học số 10 (tháng 11, 1986). Đăng lại trong Hai mươi năm văn học Việt Nam hải ngoại, 1975-1995 (California: Đại Nam, 1995) và Lý luận và phê bình / Hai mươi năm văn học Việt ngoài nước, 1975-1995 (California: Văn Nghệ, 1996).

(3) Đọc sách có nhiều cách đọc, và cách đọc của Bùi Giáng (và ngay cả cách dịch của ông) mang rất đậm tính phơi phới, phóng khoáng và thơ mộng. Dù là trong thi ca, trong dịch thuật, hay trong việc phê bình tư tưởng hiện đại, cách làm của Bùi Giáng mang cái cung cách của một thi sĩ. Với tự do của chính hắn ta. Điều đó có thể rất trái chống với tinh thần làm việc một cách khoa học, phân minh và nghiêm túc. Nói như vậy để đặt trở lại tất cả tác phẩm của Bùi Giáng (kể cả và nhất là thơ) trong một mắt nhìn nào đó mà tôi nghĩ tôi muốn có khi tiếp cận những gì ông viết. Dĩ nhiên, một con người như Bùi Giáng có thể được tiếp cận từ nhiều giác độ khác nhau. Và chính những sự khác biệt trong mắt nhìn của người đời ấy tạo nên vóc dáng của Bùi Giáng.

(4) Trong Martin Heidegger và Tư Tưởng Hiện Đại II (Saigon: Bờ Cửu Long Nam Việt), 1963. [Đề tên nhà xuất bản như thế, nhưng tôi nghĩ đây là nhà xuất bản An Tiêm của thày Thanh Tuệ]. Ở đây, phê bình Sartre, nhưng Bùi Giáng phần nào vẫn còn lòng quý mến Sartre; bởi thế, ông áp dụng chiến thuật vừa đánh Sartre lại vừa đỡ đòn cho triết gia này. Tôi nghĩ, dù sao đi nữa, Bùi Giáng vẫn còn lòng quý mến Sartre, đặc biệt qua vở kịch Les Mouches .

(5) Sein und Zeit, Hữu Thể và Thời Gian, một tác phẩm cốt yếu của Heidegger.

(6) A. de Saint-Exupéry, Terre des Hommes. Bản dịch Cõi Người Ta của Bùi Giáng. Sài gòn: Quế Sơn Võ Tánh, 1960, trang 77-9.

(7) A. de Saint-Exupéry, Terre des Hommes. Paris: Gallimard, 1963 (trang 71-2) (theo bản in năm 1939)

(8) Để thấy rõ phong cách dịch văn của Bùi Giáng, có lẽ sẽ không thừa trong việc ghi lại ở đây phần dịch Anh văn của cùng một đoạn văn trên trong bản dịch Terre des Hommes của Lewis Galantière dưới tựa đề Wind, Sand and Stars (San Diego, New York, London: Harcourt Brace Jovanovich, Publishers, 1967):

I landed in the peace of evening. Punta Arenas! I leaned against a fountain and looked at the girls in the square. Standing there within a couple of feet of their grace, I felt more poignantly than ever the human mystery.

In a world in which life so perfectly responds to life, where flowers mingle with flowers in the wind’s eye, where the swan is the familiar of all swans, man alone builds his own isolation. What a space betweeen men their spiritual natures create!

A girl’s reverie isolates her from me, and how shall I enter into it? What can one know of a girl who passes, walking with slow steps homeward, eyes lowered, smiling to herself, filled with adorable inventions and with fables? Out of the thought, the voice, the silences of a lover, she can form an empire, and thereafter she sees in all the world but him a people of barbarians. More surely than if she were on another planet, I feel her to be locked up in her language, in her secret, in her habits, in the singing echoes of her memory. Born yesterday of the volcanoes, of greenswards, of brine of the sea, she walks here already half divine.

Punta Arenas! I lean against a fountain. Old women come up to draw water: of their drama I shall know nothing but these gestures of farm servants. A child, his head against the wall, weeps in silence: there will remain of him in my memory only a beautiful child forever inconsolable. I am a stranger. I know nothing. I do not enter into their empires. [Man in the presence of man is as solitary as in the face of a wide winter sky in which there sweeps, never to be tamed, a flight of trumpeting geese.]

Phần trong dấu ngoặc đứng là phần được Saint-Exupéry thêm vào trong những ấn bản sau. Phần này không có trong nguyên bản tiếng Pháp xuất bản năm 1939 và tái bản trong tủ sách Le Livre de Poche năm 1963. Trong bản sửa chữa và thêm thắt của những lần in sau, có những đoạn và những chương Saint-Exupéry sắp xếp lại hoặc thêm vào mà bản đầu tiên không có. Bản tiếng Anh, dịch giả Galantière lấy lại tựa đề cũ của Saint-Ex cho Terre des HommesDu vent, des sables et des étoiles / Wind, sand and stars, có đủ tất cả những thay đổi, thêm thắt và sửa chữa mà Saint-Ex đã thực hiện về sau. Bản Bùi Giáng dịch là bản cũ.

(9) A. de Saint-Exupéry, Le Petit Prince. Bản dịch Hoàng Tử Bé của Bùi Giáng. Paris, California: An Tiêm (in lần ba), 1990.

(10) Quyển Le Petit Prince của Saint-Exupéry đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ trên thế giới. Bùi Giáng có lẽ rất thích thú khi nó được coi là sách của trẻ con. Tôi nghĩ khi dịch quyển này, Bùi Giáng cũng có được cái hạnh phúc rất là con trẻ như Saint- Exupéry khi viết nó vậy. Cuốn sách thật thích hợp với con người Bùi Giáng. Nó là sách kể chuyện cho trẻ con, nhưng người lớn xem vào lại còn thích thú hơn là con trẻ nữa. Cái tuyệt vời và đáng yêu của Saint-Exupéry là ở đây. Viết truyện trẻ con để nêu ra mấy câu hỏi triết lý vừa trầm trọng vừa thơ ngây về con người, về đời sống chơi! Trẻ con tha hồ đọc mà không hề hấn gì. Người lớn cũng tha hồ đọc để sung sướng tìm lại một đứa bé con trong tâm hồn mình.

(11) Xem Nguyễn Hiến Lê, Lão Tử Đạo Đức Kinh. Hà Nội: Văn Hóa, 1994, trang 17.

(12) Xem Nguyễn Hiến Lê, Trang Tử Nam Hoa Kinh. Hà Nội: Văn Hóa, 1994.

—————————————————————–

Trích đoạn bàn về thơ của Bùi Giáng trong tiểu luận

Vấn đề thẩm thức một tác phẩm nghệ thuật

của Bùi Vĩnh Phúc

(…)

Nếu nhiều bức tranh của Picasso xem ra quái dị và không thể chú giải nổi thì chính là bởi cách nhìn của chúng ta. Chúng ta chỉ quen với cái nhìn, qua đó, thực thể hiện ra trước mắt chúng ta trên một mặt phẳng. Thật khó để có thể thay đổi cái nhìn khiến cho nó đem đến chochúng ta, cùng một lúc, những khía cạnh, những mặt khác nhau của sự

vật.

 

Vấn đề thẩm thức ở đây đã trở nên phức tạp. Chúng ta có quyền chê tranh Picasso, và người khác cũng có quyền nhận xét về những… kinh nghiệm mỹ học dễ dãi của chúng ta.

 

Đọc thơ cũng thế.

 

Chúng ta hãy thử xét hai câu lục-bát này của Bùi Giáng:

 

Bây giờ em ở nơi đâu

Cỏ trên mình mẩy em sầu ra sao

 

(Sa mạc trường ca)

 

Chúng ta thấy hai câu thơ thế nào? Có dị hợm quá chăng? Có chất thơ chăng? Hai câu thơ này có nằm trong những ước lệ bình thường của thi ca hay không?

 

Trước hết, ta có thể thấy hai câu lục-bát trên đây là hai mệnh đề độc lập với nhau. Mỗi mệnh đề là một câu hỏi; và hai câu hỏi được đưa ra liên tiếp. Chẳng khác gì mấy chàng Anh, Mỹ gặp nhau nói, “How do you do? Business looking up, eh?” Câu hỏi ở vế lục, nếu bỏ bớt từ “nơi” thì không khác gì một câu nói, một lời hỏi thăm bình thường. Bây giờ em ở đâu? Ngôn ngữ rất giản dị. Y như là lời nói hằng ngày.

 

Câu hỏi ở vế bát có một vài điểm nên phân tích.

 

Thứ nhất, “cỏ” và “sầu”. Một là danh từ, một là bổ-túc-từ (complement) (động từ “thì” được hiểu ngầm). Cả hai đều là những từ chúng ta dễ bắt gặp trong thơ. Tuy nhiên, cách dùng hai từ này trong câu thơ của Bùi Giáng có những điểm đặc biệt. Tại sao để thăm hỏi một người con gái, một người em nào đó, thi sĩ lại hỏi về cỏ. Cỏ đây là cỏ nào? Sao không dùng những ước lệ bình thường? Chẳng hạn như hỏi, “Lòng em, (hoặc tim em) có buồn không?” …

 

Vấn đề thứ hai là, tại sao cỏ lại sầu?

 

Trong thi ca, hình ảnh của cỏ cây, hoa lá có khi là một hình ảnh của sự vươn dậy, hớn hở, sáng tươi, bềnh bồng, tha thướt…

 

Như Nguyễn Du đã viết:

 

Cỏ non xanh tận chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa

 

hay thơ mộng, lãng-mạn-hồng như cỏ của Phạm Duy:

 

Rước em lên đồi cỏ non ngập lối

Rước em lên đồi hẹn với bình minh

Đôi chân xinh xinh như tình đang khép nép

Hãy vứt chiếc dép bước đi trên cỏ hồng

 

(Lời bài “Cỏ hồng”, Phạm Duy)

 

Có lúc, cỏ cây cũng buồn… Cỏ cây chia theo cái nhịp tâm ý của con người. Lại Nguyễn Du:

 

Sè sè nấm đất bên đàng

Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh

 

Hay Xuân Diệu tiền chiến:

 

Gió lướt thướt kéo mình qua cỏ rối

Đêm bâng khuâng đôi miếng lẩn trong cành

 

Hoặc Tư Không Thự đời Trung Đường trong “Tặc Bình Hậu Tống Nhân Bắc Qui”:

 

Thế loạn đồng nam khứ,

Thời thanh độc bắc hoàn.

Tha hương sinh bạch phát,

Cựu quốc kiến thanh san.

Hiểu nguyệt quá tàn lũy,

Phồn tinh túc cố quan.

Hàn cầm dữ suy thảo,

Xứ xứ bạn sầu nhan.

 

(Lúc loạn cùng nhau lánh

Khi yên về một mình

Quê người tóc đã bạc

Núi cũ mây còn xanh

Trăng sớm vượt tàn lũy

Sao khuya trọ cổ thành

Cỏ hoang chim chóc lạnh

Đây đó sầu mông mênh)

 

(Đào Mộng Nam dịch)

 

Vậy là cây cỏ cũng buồn. Buồn vui ở đây là do cái tâm ta chiếu vào. Tâm ta là cái tâm vô định, cho nên cỏ có lúc buồn lúc vui.

 

Tại sao Bùi Giáng thấy cỏ sầu?

 

Bởi lẽ thi sĩ xa người em nên chính cái tâm của thi sĩ động trước, thi sĩ sầu. Và, vừa dùng phương pháp nội quan (introspection) của tâm lý học ngôi thứ nhất để nhìn vào lòng mình, vừa dùng phương pháp của tâm lý học ngôi thứ hai để tìm đến và chia sẻ với em, thi sĩ thấy em cũng sầu. Dựa trên một quan hệ thân mật nào đó đã có với nhau từ trước mà ta không rõ, thi sĩ biết chắc là cỏ trên mình mẩy em cũng sầu, cũng héo. Đây là một hình ảnh cụ thể, có tính cách vật lý. Không phải lòng sầu hay tim sầu, nhưng là cỏ sầu. Cỏ trên mình mẩy là một vật có thực chứ không phải cỏ mọc trong linh hồn, hay cỏ mọc trên nỗi-buồn-tôi trong văn chương hiện sinh.

 

Đến đây, không cần phải trình bày thêm, có lẽ chúng ta đã thấy rõ hai từ “cỏ” và “sầu” trong câu thơ Bùi Giáng đã được dùng một cách rất đặc biệt.  Cỏ chính là … người, sau khi thi sĩ đã liên tiếp áp dụng hai phương pháp so sánh ngầm (ẩn dụ) và hoán dụ. Còn “sầu” được dùng theo lối nhân cách hóa.

 

Từ kép “mình mẩy”, nếu tách khỏi hai câu thơ của Bùi Giáng kể trên, sẽ bị nhìn là không mang màu sắc thi ca. Mình mẩy thiếu chất thơ. “Mình” nếu đi với một tính từ nào khác, chẳng hạn như mình ngọc (da ngà), thì chúng ta thường thấy trong thi ca; còn mình mẩy thường chỉ xuất hiện trong văn chương. Loại tả chân. Nhất là nếu từ “mẩy”, dùng độc lập, lại được dùng như tính từ. Hoặc trong những câu nói thông thường hằng ngày, như: “Vào trong tắm rửa mình mẩy đi anh, rồi muốn làm gì thì làm. Em đâu có biến mất đi đâu. Cắt cỏ xong người anh hôi rình à! Chịu ‘hổng’ nổi!!”…

 

Tuy nhiên, đọc lại hai câu thơ của Bùi Giáng, chúng ta phải nhận là khó có thể tìm được từ nào hay hơn để thay vào chỗ của từ kép “mình mẩy” mà Bùi Giáng đã dùng. Những từ “cỏ” và “mình mẩy” cuộn lấy nhau, cho chúng ta một hình ảnh rõ nét trong nhãn trường của thi sĩ, đồng thời, cho chúng ta hiểu rõ tâm tư ông và những ước muốn thầm kín của ông. Từ “sầu” đi theo ngay sau đó làm ta bỡ ngỡ. Và khiến cho ta thấy thi sĩ

đáng yêu quá, thơ mộng quá.

 

Từ “cỏ” và “mình mẩy” trong câu thơ của Bùi Giáng đặt lại vấn đề cái tục (profanity) trong văn chương. Cái tục của Bùi Giáng ở đây có thể được so sánh với cái tục của D. H. Lawrence trong Lady Chatterley’s Lover, của Anais Nin trong những quyển erotica như Delta of Venus Little Birds, của Flaubert trong Madame Bovary, của Henry Miller trong Black Spring, Tropic of Cancer Tropic of Capricorn… Đây là những cái tục thơ mộng, làm đẹp chứ không làm xấu văn chương.

 

Về ý nghĩa, ta thấy hai câu thơ Bùi Giáng có thể diễn ra văn xuôi đại loại như sau: Em ở đâu? Anh nhớ em lắm. Anh mong có em ở bên cạnh để anh ân-cần-săn-sóc-nhỏ-to-âu-yếm-vuốt-ve em. Em có buồn nhớ anh từng-chút-một không?!…

 

Thật sự thì không nhất thiết phải diễn giảng hai câu thơ của Bùi Giáng ra như thế, có thể có những cách diễn giải khác. Nhưng đại loại, tinh thần hai câu thơ là vậy. Ai quen biết với luật ngôn-ngữ-tạo-tác (transformational/generative grammar) của Noam Chomsky đều hiểu rằng những câu nói bình thường mỗi ngày của chúng ta đều là kết quả của một chuỗi những cách sắp xếp văn phạm khác nhau với những luật biến hoá liên tiếp, xảy ra một cách tự động trong tiềm thức ta, để, cuối cùng, cho ra những câu nói gọn gàng kia. Có được cái khả năng sắp xếp, biến đổi hết sức đặc biệt và nhanh chóng đó là vì ta đã được nuôi dưỡng trong một dòng văn hoá luôn nhồi nắn, dạy dỗ cho ta cái ngôn ngữ mà ta sẽ sử dụng sau này ngay từ khi ta mới chào đời.

 

Thi sĩ cũng thế. Sở dĩ thi sĩ tìm được những cách nói thơ mộng, súc tích, hay đẹp đẽ, độc đáo, bất ngờ—so với những câu nói bình thường của chúng ta trong đời sống mỗi ngày—chính là do nơi hắn đã luôn sống, mơ, và trau giồi cái ngôn ngữ của hắn để có thể diễn tả lại một cách trọn vẹn, độc đáo và đầy hình tượng những giấc mơ mà hắn có.

 

Về mặt nhịp điệu, hai câu thơ của Bùi Giáng có thể được ngắt đoạn như sau:

 

Bây giờ / em ở nơi đâu

Cỏ trên mình mẩy em / sầu ra sao

 

Trên quan điểm từ-vụ-học, và hiểu một cách bình thường, thì câu lục bắt buộc phải ngắt 2-4, câu bát 5-3. “Bây giờ” là một trạng từ, đứng vai trò của một trạng ngữ (adverbial phrase), phải được tách ra khỏi mệnh đề chính. Mệnh đề “em ở nơi đâu” là một câu hoàn chỉnh và ngắn, không cần tách đoạn.

 

Câu bát, nguyên cả cụm từ “Cỏ trên mình mẩy em” là chủ từ. Nó là một danh-ngữ (noun phrase), đứng vai trò chủ ngữ (subject) và không thể tách ra được. Dù sao, ta nhận thấy trong cụm từ này, “Cỏ” là danh từ chính, và “trên mình mẩy em” (hiểu ngầm động từ “mọc”) là trạng ngữ chỉ nơi chốn (hay vị trí), làm rõ nghĩa cho danh từ “cỏ” (hay rõ và đúng hơn là cho động từ hiểu ngầm “mọc”). Cụm từ “sầu ra sao” là vị ngữ (predicate), trong đó “sầu” là bổ túc từ (complement) (với động từ “thì” được hiểu ngầm), “ra sao” là trạng từ. Trong Anh và Pháp ngữ, cũng như trong một số ngôn ngữ khác, trạng từ ra sao này được một luật biến hóa (transformational rule) cho phép nhẩy lên đầu câu để biến thành những từ HowComment, v.v…; đồng thời luật này lại kéo theo một luật nữa, bắt buộc việc đảo ngược chủ từ và động từ trong câu.

 

Vậy thì với nhịp điệu như vậy, cách ngắt như thế, vần “đâu” và “sầu” trở nên rõ ràng và được nhấn mạnh. “Đâu” vì là vần ở cuối câu lục nên dĩ nhiên được chú ý. “Sầu” được chú ý nhấn mạnh vì “mình mẩy em” đã được đọc nhỏ đi, sau khi “cỏ” ở đầu câu được nhấn mạnh. Vậy “nơi đâu” và “sầu”, hai ý chính trong câu thơ lục-bát của Bùi Giáng, với cách sắp xếp nhịp điệu và cách ngắt giọng của thi sĩ, đã được để ý rõ ràng.

 

Ngoài ra, ở câu bát, vì ngắt nhịp lẻ 5-3 nên câu thơ đưa ra được một cảm xúc bồn chồn, lo lắng, bứt rứt, bồi hồi… Nó cho thấy sự bất an. Điều đó diễn tả được tâm ý của thi sĩ.

 

Về phương diện phát âm học, âm “âu” trong “nơi đâu” và “sầu” là một âm chúm. Tôi muốn nói là khi phát ra âm này, đôi môi người đọc hay nói phải chúm lại. Động tác chúm môi tạo hình ảnh một cái hôn, một sự trao gửi, yêu thương. Từ “đâu”, bắt đầu bằng phụ âm đờ trong tiếng Việt, là một âm mà khi phát ra, đầu lưỡi phải chạm vào thành lợi ở ổ răng phía sau những răng cửa ở hàm trên. Tiếng Anh gọi âm này là apico-alveolar. Gần giống như âm [ð ] của những từ do, did trong tiếng Anh, nhưng ở âm Việt không có hiện tượng phì hơi gió. Từ “đâu” lại có thanh phù bình chứ không phải trầm bình. Bởi thế, câu hỏi được đặt ra một cách nhẹ nhàng, âu yếm: Em ở nơi đâu?

 

Từ “sầu” bắt đầu bằng phụ âm sờ, đọc là [s] theo lối Bắc, đọc là [š ] theo lối Nam hoặc Trung, đều là những âm xuýt, phát ra hơi gió một cách liên tục. Tuy nhiên, nếu đọc theo lối Nam và Trung [š ] thì cuống lưỡi phải chạm vào phần vòm cứng ở ngay sau ổ răng cửa hàm trên, hơi gió được cuộn, ép lại, và đẩy ra mạnh hơn. Nếu đọc theo lối Bắc [s]

thì nó cũng giống như trường hợp của âm [ð ] trong đâu. Bùi Giáng sinh ở Quảng Nam, người miền Trung, cho nên chắc đọc “sầu” với âm đầu là [š ].  Từ “sầu”, như thế, sẽ có âm gió thở mạnh ra, lại thêm thanh trầm bình (huyền) đè xuống một cách thiết tha, da diết, rất hợp với tâm trạng thi sĩ.

 

Có người sẽ nói: “Những từ “đâu” và “sầu” thì ai cũng phát âm như thế, cứ gì phải đến khi thi sĩ nói thì chúng mới có được những tác dụng vừa kể”. Nhận xét này rất đúng; nhưng chính vì thế, nó lại càng nhấn mạnh được sự tinh tế và tính trực cảm của người thi sĩ khi hắn biết dùng, biết chọn lựa những từ, những âm thích hợp để diễn tả ý mình.

Thật ra thì Bùi Giáng cũng có thể viết:

 

Bây giờ em đã đi luôn

Cỏ trên mình mẩy em buồn ra sao

 

Nhưng, nếu viết như thế, ngoài việc không giữ lại được cái ngữ ý và ngữ khí đáng yêu của câu thơ tuyệt vời kia, câu thơ được sửa đổi đó cũng sẽ không đưa đến được một số hiệu ứng như chúng ta vừa phân tích. Những hiệu ứng liên tưởng xẩy ra từ phương diện phát âm.

 

Như thế, ta thấy là chỉ vỏn vẹn với hai câu thơ của Bùi Giáng, đọc qua tưởng là chơi, thử phân tích một chút như vậy thì ta thấy nó là một cấu trúc rất hoàn chỉnh. Cấu trúc này thi sĩ không cố tìm cách sắp xếp như những phương trình toán học hay như một tòa kiến trúc với những dụng công tỉ mỉ. Thi sĩ thở ra thơ. Trong vô thức, trong tiềm thức, thi sĩ luôn sống với giấc mơ của mình; bởi thế, khi thở ra, thơ đã là một chỉnh thể vừa có tính thơ mộng của thi ca, vừa chứa đựng trong nó tất cả những yếu tố ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp, ngữ khí và  ngữ ý cần thiết để diễn tả tâm ý mình.

 

Nếu đọc thơ cho kỹ, ta sẽ thấy con người tác giả hiện rõ mồn một.

 

Lại lấy bốn câu khác, cũng của Bùi Giáng. Sở dĩ tôi đưa Bùi Giáng vào trong bài tiểu luận này là vì ông là một thi sĩ đặc biệt. Như Picasso đã phá hết những qui ước cổ điển trong hội họa với những bức tranh lập thể, Bùi Giáng, trong thế giới thi ca, đã phá vỡ mọi thứ đều đều như thế. Hình tượng, ngôn ngữ, tình ý trong thơ ông bị đảo tứ lộn tam

và bị sắp xếp lại. Lưu tồn khuyên giải thấp cao. Chưa xong tồn lý đã dào tồn lưu. Những hình tượng, ngôn ngữ đó thoắt biến thoắt hiện và làm mở bùng ra nhiều khía cạnh khác nhau của cõi người ta, để người thưởng ngoạn nhận ra chúng cùng một lúc. Ấy là cõi thơ Bùi Giáng. Thơ phá ngôn, phá ý và phá hình.

 

Người con gái / lội qua khe

Bàn chân với nước lạnh / đè lên nhau

Nỗi niềm / tưởng lại xưa sau

Bàn chân với nước / cùng nhau lại đè

(Gái lội qua khe)

 

Chúng ta sẽ thôi không phân tích mấy câu thơ này như cách chúng ta đã làm với hai câu thơ trước nữa. Cho dù chúng ta có thể viết được cả một tiểu luận về bài thơ đặc biệt này. Tạm thời, ở đây, ta có thể cùng thấy với nhau là qua cái nhịp ngắt mà ta đã thử làm 3-3 / 5-3 / 2-4 / 4-4, những hình tượng trong thơ được mở ra. Động tác lội qua khe có vương nét gập ghềnh, chao đảo với nhịp lẻ. Nước lạnh và bàn chân đè lên nhau, cứ thế liên tục và tranh chiếm chỗ của nhau, động tác không được nhịp nhàng, cũng với nhịp lẻ. Thế rồi, một, hai, chục năm sau ta ngồi nhớ lại, và trăm ngàn năm nữa sau khi ta đã mất đi, những hình ảnh đó vẫn mãi còn trong cái vũ trụ của vật lý lượng tử kia. Mỗi hình ảnh đã xảy ra đều còn mãi trong chốn không gian, thời gian mênh mang bất tuyệt và thẳm sâu dàn trải không cùng này. Thật ra thì phải nói là ta đã xảy ra với hình ảnh em lội qua khe, phải không? Vì ta rồi sẽ mất đi, mà cái hình ảnh em lội qua khe sẽ còn mãi, dù cho một, hai ba triệu năm sau có tồn lưu lui tới.

 

Bởi thế, khi tưởng lại sự vụ em lội qua khe như vậy, mọi thứ bây giờ thảy đều nhịp nhàng, êm ái trong nỗi tưởng tôi. Mọi thứ vẫn vậy, vẫn khe, vẫn nước lạnh cùng bàn chân đè qua đè lại, thế nhưng mọi sự bây giờ là thơ mộng, là dịu dàng xuôi chảy. Đúng với những nhịp chẵn của hai câu dưới.

 

Người con gái, lội, khe, bàn chân, nước, lạnh, đè (những hai lần) làm cho ta liên tưởng kha khá đến cái dục tính libido và Freud. Nhưng, Bùi Giáng và Nguyễn Đức Sơn thì lúc nào mà lại chẳng… libido trong thi ca Việt Nam.

 

Những nhận xét vừa rồi về các bức tranh của Matisse, Picasso, và về một vài câu thơ của Bùi Giáng cũng có thể cho ta thấy là vấn đề thẩm thức nghệ thuật có những cái công phu của nó. Chúng ta dễ dàng chấp nhận cái quen thuộc, cái gần gũi, và, nhiều khi, cái giản dị, mà chối bỏ những cái khác lạ, kỳ bí. Nhưng thật sự có những cái khác lạ, kỳ dị

ẩn giấu trong chúng những nét sáng tạo. Bởi thế, thẩm thức phải là một thói quen cần phải được luôn luôn trau giồi để mỗi ngày mỗi trở nên tinh tế, sắc bén. Trong sự thẩm thức tác phẩm nghệ thuật ở bất cứ một bộ môn nào, nỗ lực đi đến gần hơn nữa những đối tượng mà lúc ban đầu ta cảm thấy khó hiểu sẽ luôn đưa lại một phần thưởng quí báu là, một lúc nào đó, ta sẽ làm tác phẩm mở bùng ra trước mắt nhìn hạnh phúc của mình.

 

(…)

______________________________________________

Xin xem toàn bài trong Bùi Vĩnh Phúc, Vấn đề thẩm thức một tác phẩm nghệ thuật, nguyệt san Văn Học số 10 (tháng 11, 1986). Đăng lại trong Hai mươi năm văn học Việt Nam hải ngoại, 1975-1995 (California, Đại Nam, 1995) và Lý luận và phê bình / Hai mươi năm văn học Việt ngoài nước, 1975-1995 (California, Văn Nghệ, 1996)

 

 

 

 

Comments are closed.