Văn học miền Nam 54-75 (170): Nhất Linh (22) – Xóm Cầu Mới (18)

Nguyễn Tường Thiết 

Về lần tái bản năm 2002 

XCMCuốn truyện dài Xóm Cầu Mới của Nhất Linh, thân phụ tôi, đã được ấn hành lần đầu tiên ở Sài Gòn năm 1973 bởi nhà xuất bản Phượng Giang do tôi chủ trương. 

Sau biến cố tháng Tư năm 1975, khi ở trong nước sách của Nhất Linh không được phép lưu hành thì ở hải ngoại hầu hết các tác phẩm của ông đã được một số các nhà xuất bản cho in lại ở Hoa Kỳ. 

Những năm gần đây, sách của Nhất Linh cũng như của các nhà văn khác thuộc nhóm Tự Lực Văn Đoàn lại thấy dần dà xuất hiện ở trong nước. Tuy nhiên, chỉ những sáng tác của Nhất Linh ra đời trước năm 1945 mới được ấn hành; còn những tác phẩm về sau của ông thì không những không thấy in lại mà ngay cả trong các sách bình luận văn học xuất bản ở trong nước cũng không thấy đề cập tới. 

Đó là lý do tôi dự định cho tái bản hai tác phẩm cuối đời của ông, hai tác phẩm mà tôi may mắn còn giữ nguyên được bản thảo. Đó là hai cuốn Xóm Cầu Mới và Giòng sông Thanh Thuỷ

Để cho quyển sách này được trung thực với nguyên tác, không phạm những lầm lỗi về ấn loát như trong lần xuất bản trước, tôi không tái bản bằng cách cho sao in lại từ ấn phẩm cũ, mà là khởi công đánh máy lại từ đầu dựa hoàn toàn vào nguyên gốc bản thảo. 

Đánh máy non năm sáu trăm trang sách với khả năng đánh “mổ cò” của tôi, việc này vừa chậm vừa tốn công. Nhưng tôi thấy việc tự tay mình đánh máy lấy là cần thiết, vả lại cũng vui thích nữa. 

Thứ nhất là rất khó tìm được một chuyên viên đánh máy nào có thể vừa đọc vừa đoán những hàng chữ nhỏ li ti trong bản thảo mà không sai ý tác giả. Tôi nói nhiều chữ phải đoán ý vì bản thảo được viết cách đây đã trên một nửa thế kỷ, nhiều nét mực đã mờ đi theo với thời gian [1] . 

Thứ hai là trong suốt mấy tháng cặm cụi trước bàn máy vi tính, cận kề với những trang chữ bản thảo, gõ cọc cạch từng chữ từng chữ, tôi thực sự đã sống với ông nhiều nhất kể từ ngày ông ra đi cách đây đã non bốn mươi năm. Nhìn những hàng chữ viết tay của ông, những hàng chữ gẫy vụn, nhỏ nhí, vùi dập, những ký chú bên lề riêng tây, thân mật, tôi thấy rõ là khi đọc từ bản thảo tôi gần gũi tiếp cận với tác giả nhiều hơn là đọc qua ấn phẩm. Vừa đọc, vừa đánh máy vừa thưởng ngoạn tác phẩm này, khi thì tôi tách ra bình tâm đọc văn ông như một độc giả, khi thì tôi nhập vào bồi hồi nhớ tới hình dáng một người cha thân yêu và tưởng tượng ông ra sao khi ông viết tác phẩm này, ông vui ông buồn nổi trôi theo những nhân vật và tôi vui tôi buồn theo ông qua những hàng chữ. 

Tôi hình dung một Nhất Linh vui. Hay ít ra cũng nhiều vui hơn buồn khi ông viết cái tác phẩm mà đã có lần ông định đặt tên là Vui buồn này. Các nhân vật cứ đua nhau mà mỉm cười (tôi tẩn mẩn đếm được cả thảy 269 chữ mỉm cười trong toàn tác phẩm). Và tác giả mỉm cười cũng nhiều lần không kém. Hẳn thế. 

Rồi tôi cũng mỉm cười liên tưởng tới một sự kiện trớ trêu: 52 năm trước ông ngồi viết những hàng chữ bản thảo này ở Hồng Kông (Trung Hoa), 52 năm sau tôi đọc những hàng chữ đó ở Seattle (Hoa Kỳ). Đều là hoàn cảnh lưu lạc cả. Nhưng tâm trí của cả người viết lẫn người đọc đều qui về một cái huyện nhỏ ở quê nhà nằm bên con đường sắt Hà Nội – Hải Phòng thuộc tỉnh Hải Dương. Huyện Cẩm Giàng. Nơi ông đã tiểu thuyết hoá thành Xóm Cầu Mới [2] . Nơi tôi đã sống những ngày ấu thơ [3] . 

Về hình thức trình bầy cuốn sách tôi cũng tận dụng bản thảo. Trước hết là cái bìa sách. Tôi để nguyên không sửa đổi nguyên trang đầu của bản thảo mà Nhất Linh đã tự phác cái bìa cho cuốn truyện tương lai của mình. Sau đó các hình vẽ của Nhất Linh trong bản thảo tôi cũng cho in đầy đủ. 

Sau cùng, để cho cuốn sách thêm phần phong phú, tôi có nhờ hai nhà văn Nguyễn Thị Vinh và Võ Phiến viết bài đặc biệt để đăng trong lần tái bản cuốn Xóm Cầu Mới này. Nhân đây xin nhị vị nhận cho lòng biết ơn của chúng tôi. 

*

Nguyễn Thị Vinh 
Nhà văn Nhất Linh & Xóm Cầu Mới 

Lẽ ra, tôi nghĩ phải viết cái tựa trên, như thế này mới đúng: “Nhớ về anh Tam & Xóm Cầu Mới”. Có nghĩa là tôi nhớ lại tác phẩm XCM đã được nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam bắt đầu viết lại toàn bộ ở Hương Cảng trong hai năm 1948 và 1949, rồi sau đó lại viết lại và viết tiếp ở Sài Gòn, Đà Lạt cho tới 1957. Đồng thời, tôi cũng xin nhấn mạnh: Nhà cách mạng Nguyễn Tường Tam và nhà văn Nhất Linh là một. Văn học và chính trị, nơi ông, không hề tách biệt hay đối nghịch: Văn học hướng đến một nền chính trị độc lập, dân chủ; và chính trị nhắm tới một nền văn học tự do, nhân bản và khai phóng. Đặc biệt: Nhất Linh, người mà lúc sinh thời vẫn thích bằng hữu và các “đàn em”, trong đó có tôi, gọi là “anh Tam”, đã vui buồn ra sao khi viết tiểu thuyết XCM? 

Kể từ dòng này trở xuống, tôi xin dùng chữ “anh Tam, chị Tam”, với tất cả tấm lòng tưởng niệm đầy tôn kính. 

Nỗi nhớ thường có điều quên và “nhớ lại” cũng không thể đồng nghĩa với “lại nhớ” được hết mọi chuyện. Nên hy vọng rằng ở “Nhà văn Nhất Linh & Xóm Cầu Mới”, nếu có gì thiếu sót, xin quý anh và quý bạn chiến đấu thời lưu lạc ở Hương Cảng niệm tình mà thứ lỗi cho tôi. Trong không khí “văn nghệ” của bài viết, tôi tự giới hạn nhiều chi tiết liên quan đến một số nhà cách mạng, hoạt động chính trị, cùng các quan điểm đa dạng của quý vị ấy, bao gồm thân thế, sự nghiệp, đi đúng đường hay lạc hướng. Tôi chỉ viết dưới dạng Tâm Cảm, coi như một bài “bạt” gửi nhà xuất bản Văn Mới, nhân dịp gia đình họ Nguyễn Tường tái bản lần thứ nhất cuốn Xóm Cầu Mới: 

Năm 1948, tôi sang Hương Cảng, nơi tôi ở là một căn nhà… không, phải gọi là một túp lều mới ổn. Túp lều của chúng tôi nằm trên một, trong nhiều các ngọn núi đá thấp. Vách ghép bằng các mảnh ván thùng, mái lợp cao su dầy, màu đen. Bên trong ngăn ra làm hai buồng nhỏ, buồng nào cũng có cửa sổ không lớn, nhưng đủ thoáng mát. Bếp ở phía sau lều, vách dựng sơ sài bằng các mảnh thùng sắt tây cũ . Nhu cầu nước, đã có con suối gần nhà, được những mỏm đá thiên nhiên bao bọc rất kín đáo, chúng tôi có thể ra tắm ở đây. Ông Woòng, người chủ của hai túp lều cho chúng tôi thuê, đã có sáng kiến lấy một ống cao su dẫn nước từ suối, cho chảy vào khu nhà bếp, nên việc nấu ăn, rửa bát của chúng tôi rất tiện. 

Đời tôi từ bấy đến nay, thời gian qua đi già nửa thế kỷ; đã từng được ở những nơi nhà cửa cao rộng, đầy đủ tiện nghi, mà sao tôi vẫn không thể nào quên được túp lều (trên núi) của chúng tôi. Chao ơi, mỗi khi tắm, tôi chưa thấy có một vòi “hoa sen” nước nào có thể so sánh được với dòng suối ngày ấy. Tiếng suối reo, ào ạt suốt ngày đêm, hoà với tiếng u. u… u… của gió núi, khi thổi lùa qua những hốc đá, đã trở thành “bản nhạc núi” tuyệt vời. Nơi đây, không có hoa lá và ngay cỏ dại cũng chẳng mọc nhiều; dân cư ở xa, nên không cả mùi khói bếp. Không, không có mùi gì hết, tại sao tôi vẫn cảm nhận được mùi thanh khiết của núi đá, của nước. Không khí nhẹ nhàng quá. Phải chăng, tôi chỉ ngửi được bằng hai lá phổi, chứ không bằng mũi… 

Tôi biết kể sao cho hết nỗi vui thích của tôi, mỗi khi ra suối tắm. Mặt trời đụng vào dòng nước đang chảy, vỡ tung, thành muôn vàn mảnh ánh sáng nhỏ lấp lánh đủ màu, loang loáng chảy ào ạt lên người tôi. Tôi tưởng như mình đang ở một xứ thần tiên, trong truyện cổ tích nào đó, tôi đã được đọc từ thuở còn bé!. 

“Nhà của chúng tôi”, nếu tính từ trung tâm thành phố Hương Cảng về, phải ngồi xe điện mất gần một tiếng. Đến trạm chót, còn phải đi bộ một thôi dài, tới đường Happy Valley gần khu Phảo-mã-tỷ (trường đua ngựa) đến chân núi. Khốn nỗi, lại mất khoảng hai mươi phút từ chân núi, leo ngược con dốc đá thoai thoải, mới lên đến “nhà” lều. Con đường này, mùa hè cũng như mùa đông, mới sáng tinh mơ đã có rất nhiều người dân lao động đến ngồi ven núi, đập đá thuê. (Thời ấy, có một số nhà cách mạng Việt Nam, từng bôn ba sang Tàu; qua Thượng Hải, Quảng Châu v.v.V Rồi trôi dạtt đến Hương Cảng, khi kẹt cũng phải mưu sinh tạm bằng nghề đập đá thuê ở đây). 

Sở dĩ tôi phải kể dài dòng cảnh “trên núi” như trên, là vì: Trên bản thảo XCM, còn có tên là Bèo giạt, anh Tam đã ghi lại: “Hương Cảng, trên núi, lúc 01giờ 30 trưa, ngày 16 tháng 10 năm 1949”. Bản thảo XCM, được viết lại lần đầu, ở Hương Cảng và Sường Châu. Sường Châu, hay Sheng Chou là một hòn đảo nhỏ, cách Hương Cảng một hay hai giờ tầu thuỷ, tuỳ theo chuyến chạy nhanh hay chậm. Nơi có gia đình ông Woòng, đã mấy đời, làm nghề cho các thuyền đánh cá trên đảo thuê bến bãi đậu thuyền. Nhà ông Woòng ở sát bờ biển, phong cảnh đẹp, không khí khoáng mát pha mùi nước biển. Gia đình ông, ai cũng hiếu khách, rất quý trọng các nhà chính trị, chí sĩ hay nghệ sĩ lưu vong. Ông Woòng để riêng hẳn một phòng cho khách ngụ, dù ở bao lâu cũng được. Nhưng, ai muốn ở chơi lâu, đều đề nghị với chủ nhà cho ăn riêng, tự nấu lấy bằng cái bếp dầu tây, bằng đồng. Vì thế người Việt Nam tại Hương Cảng thường hay ra Sheng Chou chơi (trong số này thời đó có anh chị hoạ sĩ Võ Lăng cùng con gái nhỏ, tên Hương Anh, cũng đã tới đảo Sheng Chou một thời gian để vẽ; anh Lăng là em ruột anh Võ Hải, bí thư của tổng thống Ngô Đình Diệm, thập niên 1960). 

Anh Tam cũng từng vẽ phong cảnh Sường Châu. Giờ đây, mỗi khi có dịp nhìn lại những tấm bìa cũ, các tựa sách do anh Tam phác hoạ, làm mẫu cho nhà in “typo” của nhà xuất bản Đời Nay hay Phượng Giang, nằm trong bộ tài liệu sưu tập của Nguyễn Tường Thiết, con trai anh Tam, lòng tôi lại nhen lên một ánh lửa hồi ức, của que diêm kỷ niệm văn nghệ tưởng như đã tàn. Mẫu bìa XCM, anh Tam vẽ, tuần tự từ trên xuống dưới: “Nhất Linh, Trong Tự Lực Văn Đoàn, Truyện dài, Chữ ký của Nhất Linh 13.01.1950, Huy hiệu và tên nhà xuất bản Đời Nay, 1950”. Các nhà phê bình văn học viết về nội dung, bố cục và bút pháp của XCM; còn riêng tôi, lại nhớ những ngày tháng được nhìn thấy nét “chữ con kiến bò” của anh Tam. Nhỏ, nhưng không tới nỗi quá khó đọc, chạy trên mấy trăm trang giấy bản thảo. Bản thảo đầu tiên của XCM, anh Tam thai nghén từ năm 1940 tại nhà riêng phố Hàng Bè Hà Nội đã mất hết trong chiến tranh, và tới năm 1948 mới được anh viết lại ở Hương Cảng… 

Như đã kể, năm 1948, khi đến Hương Cảng, tại túp lều kể trên, tôi được gặp anh Tam lần đầu. Tôi không biết anh là nhà văn Nhất Linh. Khoảng một tuần sau, trong bữa cơm, “cả nhà” ngồi quanh cái bàn dài bằng gỗ ván thùng, do các anh đóng lấy. Nhân một câu chuyện tình cờ, khi biết anh là nhà văn Nhất Linh, tôi đặt bát cơm ăn dở xuống bàn, vội vàng, đến gần như vô lễ, tôi nhìn anh, lắp bắp hỏi: “Anh, anh là ông… Nhất Linh đấy hả?” Anh mỉm cười gật đầu, còn các anh cùng bàn thì bật cười thành tiếng. Tôi lại hỏi tiếp: “Thế anh… chính anh, viết cái cuốn Đoạn tuyệt đấy hả?” Lần này thì anh khẽ cười thành tiếng và trả lời “vâng!” 

Hàng ngày, tôi ít dám nói chuyện với anh, bởi vì trên gương mặt anh toát ra một vẻ nghiêm khắc, trầm lắng, rất buồn bã. Ánh mắt luôn luôn như nhìn về một cõi xa xăm…, mọng lên nỗi chứa chất u sầu. Tới nỗi tôi có cảm tưởng, nếu có một tiếng động dù nhỏ, bất chợt vang lên, cũng đủ làm cho những màng nước trong mắt anh oà vỡ! Cặp môi anh có lúc rung rung, như đang nói chuyện với ai đó, vô hình, đôi khi lại thoáng nét nhẹ, thật nhẹ, như mỉm cười! 

Không chỉ mình anh Tam, mà tất cả anh em trong nhà đều buồn; vì chúng tôi đang có một cái tang chung! Một chiến sĩ, chí sĩ, một nhà cách mạng hay một nhà văn và cũng là Bạn Chiến Đấu của chúng tôi. Người mới từ giã cõi đời, anh Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long, là em ruột anh Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Anh Long từ Quảng Châu về Hương Cảng, dự một phiên họp, (nghe nói buổi họp này gồm “đủ mặt” từ mấy phía, có cả vua Bảo Đại… Ôi! Buổi họp cuối cùng của tác giả “Mười điều tâm niệm” và “Trước vành móng ngựa”… ! Họp xong, anh Long vội rời Hương Cảng đi Quảng Châu, chẳng may đã mất ở trên chuyến tầu hoả đó. Năm 1948. 

Năm 1946, Khái Hưng bị giết, năm 1948 lại đến Hoàng Đạo! Vì đâu và do ai? Ai đã gây ra? Trong vòng năm năm, nhóm Tự Lực Văn Đoàn tắt mất hai ngôi sao chủ lực. Đất nước Việt Nam đã mất hai nhà văn, cũng là hai nhà cách mạng, đầy ý chí muốn mở mang dân trí, qua ngòi bút và hành động chính trị vì tình Yêu Nước! 

Nỗi đau mất Khái Hưng còn đó, lại tiếp thêm mất Nguyễn Tường Long… Anh Long mất, anh Tam không chỉ mất người em ruột, mà còn là mất một người Bạn Chiến Đấu, một nhà Tư Tưởng thân thuộc, một Bạn Văn đã cùng chung khai sáng Tự Lực Văn Đoàn. Tình trạng đất nước ngày ấy đang thay đổi, với chiều hướng suy đồi, anh Tam nhìn thấy trước mà không đỡ nổi. Cho nên chẳng lấy gì làm lạ, khi thấy anh buồn bã, như tôi đã kể. 

Anh là người thương Nước, xót Dân thật sự; bày tỏ một thái độ chính trị Quốc Dân (Quốc gia, Dân tộc) trước sau như một, hết sức trong sáng, rõ ràng. Anh Tam không phải là người “làm chính trị” có chủ trương dựa vào các thế lực ngoại quốc, như: Nhật, Nga, Tàu, Pháp, Mỹ. Để mong “cõng rắn về…” lấy cớ “cứu nước”. Tâm hồn anh lại là một tâm hồn nghệ sĩ lớn. Anh rung động, nhạy cảm, vui buồn với tất cả mọi chuyện xảy ra trong xã hội, trong đời sống thường ngày của mọi người, quanh anh. Và anh đã gửi gấm được tấm lòng này vào trong bộ truyện XCM, cùng với bao nỗi khắc khoải. 

Thêm vào đó, “cảnh trên núi” nhà chúng tôi lúc ấy lại vắng đi mấy người, anh Đỗ Đình Đạo, anh Trần Văn Tuyên v.v., vì công việc chung cũng như việc riêng, đã trở về nước. Các anh khác đều bận việc, anh Bảo Sơn làm cho hãng hàng hải của Hoà Lan, tuốt dưới phố; anh Lễ làm cho nhà “băng”, sáng đi, chiều về. May lúc ấy, nhờ Kim Anh, con gái tôi, năm 1948 mới được hai tuổi; chưa biết vui buồn là gì, thường luẩn quẩn bên anh Tam. Nơi nào có trẻ con, không khí sinh động, vui hẳn lên. Đôi lúc anh Tam bế Kim Anh, sửa lại giọng ngọng nghịu, bi bô tập nói của cháu; và thường đùa vui bằng cách sai vặt, thí dụ: “Kim Anh, đưa cho bác cái bật lửa!” Nếu cháu hiểu ra, làm được theo đúng ý anh, anh cười thành tiếng v.v. Như các anh khác, tôi cũng mừng, tiếng cười của người này, thường làm cho người khác vui lây, quên đi phần nào cảnh anh em, bạn bè chia lìa nhiều ngả, mất mát. 

Sau khi được tin anh Nguyễn Tường Long mất, chị Long cùng với người con gái lớn của anh chị, là Minh Thư, vội sang Hương Cảng. Anh em đi đón chị Long và Minh Thư từ phi trường, lên thẳng trên núi. Hai ngày sau, mẹ con chị Long đáp tầu hoả đi Quảng Châu. Chắc để lo việc thu nhận di cốt của anh Long. Tôi không nhớ rõ. 

Dù không gần gụi, nhưng mọi người thân của anh Tam ở quê nhà, cũng đoán được, chắc chắn anh Tam sẽ đau buồn về chuyện mất anh Long; anh sẽ xuống tinh thần không ít! Vì vậy chẳng bao lâu, chị Tam từ Hà Nội đã sang Hương Cảng thăm anh. Có chị trên núi, không khí nơi đây như tươi lên được đôi chút. Chị Tam kín đáo săn sóc anh, luôn tìm cách nhắc lại về thời anh làm báo, viết sách. Chỉ những khi đó, như một phép lạ, nét mặt anh vui, ánh mắt tươi sáng. Kỳ diệu thay, sức mạnh của văn chương và nghệ thuật! Tôi biết, văn nghệ không làm cho anh quên việc đất nước, nhưng nó làm cho anh tạm yên, để từng bước một bình tĩnh, lo toan nhiều chuyện lớn. 

Tôi đưa chị Tam đi chợ “Trung Vàn Cái Xỉ”, là chợ lớn nhất Hương Cảng, giống như chợ Bến Thành ở Sài Gòn. Chúng tôi bị nhiều người lớn nhìn ngó, trẻ con bu coi; họ thấy lạ mắt vì chiếc áo dài Việt Nam chị mặc. Tôi phải đi mua mấy thước lụa Thượng Hải, rồi dẫn đến tiệm đo, may áo Tàu “sường sám” cho chị. Từ những lần sau, ra phố, chúng tôi cùng mặc “sường sám”, nên việc đi lại được tự nhiên, thoải mái. Chị Tam nói riêng với tôi: “Anh Tam yêu văn chương lắm, nhẽ ra anh không nên “đụng” vào chính trị, chính em. Chỉ viết văn, làm báo không thôi, cũng đã đủ thứ bận bịu rồi!” 

Tôi cãi: “Nhưng tình hình đất nước như thế này! Rất cần đến những người như anh Tam góp công, góp sức, làm lơ sao đành, hả chị?” Chị Tam nói: “Thì cứ viết những điều mình cho là đúng, là lý tưởng của mình vào sách, cũng tốt thế, chứ sao!” 

Tôi nhìn chị Tam với lòng kính mến. Một người phụ nữ không làm văn hoá, văn nghệ, chính trị… Chị chỉ lo “buôn tần, bán tảo”, chăm sóc họ hàng hai bên nội, ngoại, nhất là giúp đỡ chồng con. Việc buôn bán cau khô của chị, trước sau cũng chỉ mong sao kiếm lời, để chồng yên tâm gánh vác việc xã hội, khỏi bận lòng về chuyện nhà, nuôi nấng các con ăn học. Thế mà chuyện chính trị, chị lại bảo: “Cứ viết vào sách, cũng tốt thế, chứ sao!” 

Lời nói dễ hiểu mà chí lý. Mặt khác, tôi nghĩ là chị Tam ngờ ngợ, “nhìn ra”, thế “lưỡng đầu thọ địch” của anh Tam, một bên là thực dân, một bên là cộng sản. Sau hai cái tang Khái Hưng và Hoàng Đạo, dường như chị e ngại cho… Song trên thực tế, sự đóng góp tuy gián tiếp nhưng tận tình của chị vào sự nghiệp văn hoá, chính trị của anh, theo tôi biết, không phải là nhỏ. 

Tính anh Tam quen tự do như gió trời. Rày đây, mai đó. Đến nơi ở, cũng không có chỗ nhất định; vỏn vẹn chỉ hai bộ quần áo, giặt bộ này mặc bộ kia, được thứ hàng không cần tới bàn là, càng tốt; nếu không, vải bị nhàu một chút cũng chẳng sao. Anh không có tủ sách riêng, khi cần, chạy ra thư viện mượn. Người như thế làm sao có thể “chu đáo”, gần gụi với gia đình vợ con cho được! 

Những ngày ở trên núi với chúng tôi, mỗi lần đi chợ về, chị tự tay nấu các món ăn cho cả nhà. Tôi chỉ phụ với chị rửa rau, thu dọn việc vặt. Khi nào mua thịt bò, chị nhờ anh Tam giúp làm món “beefsteak”, chị Tam khoe anh còn biết nấu súp “bouillabaisse”, (nấu với nhiều thứ hải sản: tôm, cua, cá, sò v.v. rất ngon.) Mà ngon thật, y như ăn ở hiệu cơm Tây nổi tiếng. Chị nói riêng với tôi: “Cứ để anh làm cho vui.” Tôi cũng kể với chị: “Lúc chị chưa sang, dù buồn cách mấy, hễ sau bữa ăn trưa, anh Tam nhất định giành việc rửa bát.” Anh Nguyễn Gia Trí cũng phải bảo nhỏ tôi: “Để anh làm cho vui.” Sau này, tôi mới biết tính anh Tam, không chỉ lúc ở Hương Cảng, dù ở đâu anh cũng thích làm một vài món ăn, rửa bát, quét nhà. Anh bảo: “Đó là cách nghỉ ngơi, giải trí của tôi!” Thường buổi chiều, lúc chị không ở cùng, anh không ăn cơm, chỉ tự nấu lấy vắt mì khô, với ít tôm khô và rau cải. Anh ăn mì, uống ly bia xong, yên lặng nằm nghỉ, chẳng chuyện trò với ai, trừ khi có các anh em ở xa đến mở buổi họp, cần có anh. 

Tôi thấy hình như anh thích ở những nơi đồi núi và thích nghe tiếng suối. Sau này, ở Sài Gòn, anh cũng thường hay lên Đà Lạt, để được sống bên suối Đa Mê… 

Cách nhà bếp không xa, ngay phía trước dòng suối “không tên”, có một hang đá; cửa hang rộng chừng sáu thước, cao gần hai thước, khá sâu, nhưng thoai thoải thấp dần, thấp dần. Từ ngoài cửa vào, khoảng bốn năm thước là đã bị đụng đầu, không đi tới thêm được. Nền đá phía dưới rộng, sạch sẽ và mát lạnh. Vào mùa hè, cả nhà thường vào đấy đọc sách báo, bàn chuyện chính trị. Nếu muốn có thể nằm lăn ra ngủ, nghỉ, chỉ tội, hơi đau mình một chút vì mặt đá lồi cồi, không trơn phẳng. 

Phía trước hang, một khoảnh sân, lộ thiên; không biết bằng cách nào, mầm cỏ từ đâu lạc tới, đâm chồi trong các kẽ đá; mọc lên từng đám cỏ xanh non, tươi mát, lả lướt đùa rỡn trong nắng gió. Tôi thầm nghĩ: “Đây là một, trong các món quà tặng của Trời, đã cho muôn vàn sự sống nẩy sinh trên trái đất này!” Một thân cây không lớn lắm, nhưng già cỗi, mọc ghé bên bờ sân, nghiêng ra ngoài vực; vực không sâu, có thể đi men men xuống. Bên dưới, rất nhiều ốc sên, chẳng có gì đẹp, nên không ai buồn xuống đó. Anh Nguyễn Gia Trí thường đem giá gỗ, ngồi vẽ dưới gốc cây. Cũng ở nơi đây, tôi đã ngồi làm mẫu, để anh vẽ “portrait”. Tấm tranh này, sau anh phải bán cho ông bà Lãnh sự Anh ở Hương Cảng, khoảng năm 1948 hay 1949. 

Chị Tam mua một chiếc ghế vải, có thể ngồi hay nằm tựa và chiếc bàn nhỏ, kê ở trong hang đá, rồi gọi nơi đó là “nhà mát”. Anh Tam đem vào nhà mát một chiếc cặp da đựng bản thảo XCM cùng với bình thuỷ nước sôi, cà phê, vài bao thuốc lá hiệu “Bastos xanh”, một cái gạt tàn thuốc to gần bằng cái đĩa tây. Với ngần ấy thứ, anh có thể ngồi suốt ngày trong hang đá, viết, viết và viết… Cháu Kim Anh thích quanh quẩn chạy chơi loanh quanh chỗ bác Tam viết, rồi lại chạy ra chỗ bác Trí vẽ. Các anh chỉ vui thêm chứ không lấy thế làm phiền. Anh Trí còn bế cháu lên, cho cháu cầm cọ vẽ nghịch vài nét ngay trên tấm tranh đang vẽ dở của anh. Anh bảo: “Không hề gì, rồi sửa lại, được mà!” 

Anh chị Tam, thường hay mời “cả nhà” đi ăn hiệu, (nhậm sà, uống trà), với đủ các thứ bánh trái, xíu mại, há cảo, bánh bao v.v., ăn xong lại cùng đi dạo cảnh Hương Cảng. Ai cũng biết đó là ý riêng của chị Tam bày vẽ ra thế, muốn để anh có dịp đi nơi này, nơi kia cho khuây khoả. Khi về, anh Tam bảo chị mua thêm vài thứ bánh, để làm quà cho một “bà già dưới chân núi”. Căn nhà của bà, cũng vách ván thùng cũ, mái cao su đen. Cửa chính hướng về phía núi. Trước nhà có mảnh sân, trồng dăm luống rau cải, cà chua và một dàn mướp. Lại thêm cái chuồng gà nơi góc sân, nom hệt như mảnh vườn quê ở Việt Nam. Trông vào mà thấy ấm cả lòng! Ấm lòng hơn nữa, bà già chủ nhà lại là người Việt Nam, chừng bảy mươi, vóc dáng xem còn mạnh khoẻ. Bà thường xuyên mặc bộ quần áo Tàu rộng rinh, bằng vải dầy màu lam sẫm đã bạc phếch, vá vài ba chỗ. Mái tóc trắng xám, khô, xơ xác, cắt ngắn, lộ ra cái gáy đen đủi, nhăn nheo. 
Vài năm trước đó, bà nhận ra chúng tôi là đồng hương, vì có một lần, anh Đạo và anh Sơn đã nói chuyện với nhau trong lúc đi ngang qua nhà bà. Bà chỉ nghe âm thanh của giọng mà nhận ra các anh là “Nàm dần”, tức người An Nam. Hầu như bà đã quên hết tiếng mẹ đẻ; không còn nói và hiểu nổi ý nghĩa. Trừ mỗi một câu duy nhất, nói được mà lại phát âm lơ lớ bằng giọng Tàu: “Mìn dơ… i tó… ti dờ… dồ…” Nghĩa là “Mình ơi có đi Bờ Hồ…”, một câu, trong bài hát vui, tếu. Đầu thế kỷ 20, bài này được giới bình dân ở Hà Nội và Hải Phòng ưa thích. “Mình ơi có đi bờ hồ. Cùng tôi chén kem kẹo dừa. Xin đừng, là đừng chê nhé. Trong túi tôi có mười đồng xu…” 

Chồng bà, gốc dân Tàu nghèo, xưa kia từng lưu lạc sang làm phu mỏ ở Hòn Gai, Móng Cái. Gặp và lấy bà, rồi đưa nhau về Tàu. Chẳng may, ông mất trong thời chiến tranh Nhật Hoa. Bà chỉ có một người con trai. Năm gặp chúng tôi, anh ta khoảng trên bốn mươi, chưa vợ. Vóc người to cao, vạm vỡ. Hàng ngày phơi mình ngoài nắng gió, làn da bị bụi đá và mồ hôi bám két lại, sần lên, đen xám, như da của con voi con, tóc bờm xờm cứng đơ. Nhưng tính anh rất hiền, quá hiền đến gần như ngây ngô. Chúng tôi có hỏi han chuyện gì, anh ta cũng chỉ nhe hàm răng xỉn, cười cười, không trả lời. Mỗi buổi sớm, anh ta đi đập đá; mình bà mẹ ở nhà, vào ra trông coi, săn sóc vườn tược. Bà khéo trồng, nên rau, trái mọc xanh um; hoa màu dùng để nhà ăn và đem bán cho mấy người đập đá thuê, quanh nhà, cũng phụ thêm được tiền gạo chợ cho hai mẹ con. Thỉnh thoảng, bà già sai con trai đem lên núi cho chúng tôi, khi thì vài quả mướp, mấy quả cà chua, hay rau cải v.v. Một buổi xế trưa, chắc người con đi làm chưa về. Bà lọm khọm bưng lên núi một “thố”, loại nồi đất có chiều cao, đựng canh chân giò, nấu với rau cải khô. Chẳng biết bà phải leo bao lâu, lúc đến trước cửa nhà chúng tôi, mới thoáng thấy anh Tam, bà đã quýnh quíu, vừa thở dốc vừa gọi: “Sần, sếng sáng, Sần… sếnh…” (Ông Trần, ông Trần ơ…) Anh Tam họ Nguyễn, nhưng hồi ở Tàu các anh em lại lấy họ Trần để gọi anh. Chưa dứt lời, bà vấp ngã, thố canh đổ vỡ tung toé. Anh Tam hốt hoảng, đỡ bà đứng lên, bà không chịu. Ngẩn người nhìn những miếng chân giò và rau rơi vãi trên nền đá, rồi cuống quít nhặt lên. Miệng không ngớt kêu rên bằng một tràng tiếng Tàu, chẳng vì đau cái đau mới ngã, mà hình như chỉ tiếc nồi canh. Anh Tam vội cúi xuống phụ bà nhặt, vừa vội vàng nói với bà: “Không sao, không sao đâu bà ơi, chỉ rửa đi, rồi đem nấu lại, vẫn ăn được mà. Vẫn ăn được mà…! Bà đứng lên đi, để tôi xem chân bà có đau lắm không…?” 

Khi đã nhặt hết, không còn cọng rau và miếng thịt nào, bà mới chịu đứng lên, nhìn xuống; cũng may nhờ vải quần dầy, chỉ xước nơi đầu gối một chút. Bà đòi mang chỗ canh đổ về, để đổi phần canh của mẹ con bà lên biếu anh em. Ai ngăn sao bà vẫn cứ nhất định làm theo ý mình. Anh Tam nói: “Thì chúng ta cứ làm theo ý bà đi… Lòng thương nhớ đất nước của bà, bà gửi vào tình đồng hương đấy!” Anh H., một người bạn trẻ, hôm đó lại phải theo bà xuống núi để đổi lấy phần canh mới. 

Đến “mùa hàng” cau khô, chị Tam phải trở về Hà Nội. Anh Tam, phần nào đã tạm ổn định tinh thần, viết văn lại và viết rất đều tay cuốn XCM, khiến chị yên tâm. Sau này, chị Tam còn sang Hương Cảng lần nữa. Ông Woòng mời anh chị qua Sường Châu ở chơi mấy tháng. Nơi đây anh đã nghe chị, người vợ và cũng là người bạn của anh, nhẹ nhàng, từ tốn khuyên giải. Anh viết tiếp, viết tiếp, viết cả văn chính luận, cho đến khi trở về Sài Gòn. 

Buồn thay, trước tình hình đất nước dầu sôi, lửa bỏng vào những năm cuối đời viết văn của anh, “con người” cách mạng trong anh không tài nào chịu sống cách xa các anh em cũ, đã từng cùng anh kề vai, sát cánh đấu tranh, chia nhau từng nắm cơm, gói mì. Anh lại rời bàn viết. Tới ngày 07 tháng 07 năm 1963… Những ai có dịp sống gần, quen thân anh lâu, đều hiểu được tấm lòng anh: Anh mang chí hướng Tự Lực, như nhân sinh quan của vị anh hùng dân tộc Nguyễn Thái Học, lúc ngồi viết sách trên căn gác Nam Đồng thư xã ở Hà Nội: “Không thành công thì thành nhân!” 

Nguyễn Tường Tam của tư tưởng và hành động Cách mạng Quốc dân, Nhất Linh của văn học, báo chí và Tự Lực Văn Đoàn, hoạ sĩ, nhà văn, nhạc sĩ v.v. Tất cả, trước sau, vẫn là anh Tam của XCM, nơi những người dân bao đời nghèo khó, lầm than trong cảnh “bùn lầy, nước đọng”, như “gia đình bác Lê”, rất cần đến tiếng nói chia sẻ, bênh vực họ từ phía: Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. 

Na Uy, Oslo tháng 4 năm 2002 

*

Võ Phiến 
Đọc bản thảo của Nhất Linh 

Tên bài như trên chẳng qua là đặt cho gọn thôi. Nó mơ hồ, thiếu sót, có thể gây ngộ nhận. Tôi không từng “nghiên cứu”, cũng chưa đọc được bao nhiêu bản thảo của Nhất Linh, để phát giác ra điều nào đáng kể trong sự nghiệp trước tác của ông. 

Sự thực Nhất Linh đã viết nhiều sách, bản thảo những tác phẩm xuất bản trước 1954 không nghe nói có lưu giữ được không?, nhiều hay ít?, hiện tàng trữ ở đâu? Còn lại là cái phần được in ở Sài Gòn sau đó. Trong phần bản thảo ấy tôi cũng chỉ có dịp đọc qua một số ít – rất ít – mà thôi. 

Dù vậy sự tiếp xúc với những trang chữ của bậc tiền bối lỗi lạc từng sống một đời đầy giông bão và kết thúc đau thương, sự tiếp xúc ấy gây xúc động và nghĩ ngợi. Ở đây chỉ là dăm ba ý nghĩ căn cứ vào một số trang bản thảo may mắn được xem qua thôi. 

Niềm vui 

Thoạt tiên người đọc để ý đến điều này: là Nhất Linh thường ghi thời điểm bắt đầu viết mỗi tác phẩm, thậm chí có khi mỗi phần trong tác phẩm: 

  • Ở trang đầu bản thảo Giòng sông Thanh Thuỷ, có dòng chữ: “Khai bút ngày 26 tháng 11 năm 1960”. Dưới đó, bằng nét chữ nhỏ hơn, màu mực khác hẳn, lại có câu: “Bắt đầu viết 28-11-60. Viết xong 28-1-61”. 
  • Ở bản thảo cuốn Viết và đọc tiểu thuyết, nơi trang ghi phác sơ lược thứ tự dàn dựng toàn tác phẩm – từ “Mấy lời nói đầu” đến “Kết luận” – ông đề ngày 21-4-52. Nơi trang 1 (Mấy lời nói đầu) ông đề ngày 10-5-52 [4] . Nơi trang 21 (Nói về các nhân vật) đề ngày 26-6 v.v. 

Ghi ngày ghi tháng: Chưa đủ. Có những trường hợp Nhất Linh còn ghi kỹ cả giờ, cả phút nữa! 

  • Ở trang đầu cuốn Xóm Cầu Mới (Bèo giạt) có hàng chữ: “Trên Núi, ngày 16 tháng 10 năm 1949, 1 g 30 trưa”. 
  • Ở trang phác hoạ bìa cuốn truyện dài Hai con mắt có dòng chữ: “Vụt nghĩ ra 26-4-1961 – 11 giờ (12 tháng 3 năm Tân Sửu)”. 

“Trên Núi” là một chỗ ở Hương Cảng. “Trên Núi”, hai chữ ấy đưa ra thêm một chuyện nữa: Là, ngoài thời điểm, lắm khi Nhất Linh còn ghi địa điểm sáng tác: 

  • Ở trang phác hoạ bìa cuốn truyện dài Vui buồn (trong bộ Xóm Cầu Mới) bản thảo viết lại lần thứ ba, có lời ghi: “Hàng Bè. 1951”. Rồi ở trang đầu tiên cũng bản thảo này, bấy giờ lại mang tên Xóm Cầu Mới, có lời ghi: “Saigon – 1951. Viết lại lần thứ 4”. Thì ra cùng trong một năm tác giả đã hăm hở viết lại đoạn sách này hai lần, ở hai nơi, và đã quyết định đổi cả nhan sách. 

Bao nhiêu ghi chép ấy trên các bản thảo có ích lợi như thế nào? Ngày tháng, giờ giấc viết, nơi chốn đích xác mình từng ngồi viết ra câu nọ chuyện kia, những cái ấy một khi ghi nhớ rõ sẽ có đóng góp nào cho giá trị tác phẩm, cho công việc sáng tác? Tất nhiên những ký chú về hoàn cảnh biên soạn có ích lợi cho việc nghiên cứu văn học về sau; nhưng đối với chính tác giả thì tôi không có cơ hội nhận thức được cái ích lợi. Hoạ chăng có nhận thấy cái gì như thể một sự hài lòng, hứng chí, của tác giả khi bắt đầu và khi hoàn tất một tác phẩm. 

Dù sao, những dòng chữ nói trên của Nhất Linh đã đưa tôi đến sự liên tưởng tới mấy sự kiện trong đời ông. Chẳng hạn: 

  • Trước 1945 cứ mỗi lần Nhất Linh in xong một cuốn truyện mới, dù bà có bận rộn công việc đến mấy ông cũng yêu cầu bà bỏ hết mọi việc để cùng ông đi bãi biển Sầm Sơn, cùng sống với nhau riêng biệt một thời gian; trong cảnh sống của những ngày vui thú ấy ông tập cho bà hút thuốc, uống rượu, uống trà tàu [5] ; 
  • äMột bức ảnh Nhất Linh nằm võng giữa rừng, chụp để “kỷ niệm ngày khai bút Xóm Cầu Mới bên dòng suối Đa Mê, ngày 13-10-57” [6] ; 
  • Hôm 7-7-1963 ông tự tử. Việc làm đầu tiên trong cái ngày cuối cùng của mình là đích thân mang gói bản thảo tác phẩm chót đến nhà in Trường Sơn (do một người bạn văn chủ trương) để lo việc xuất bản [7] v.v. 

Đọc những dòng chữ li ti ghi trên bản thảo của ông, rồi nghĩ lan man về chuyện nọ chuyện kia đã xẩy đến trong đời ông, tôi mường tượng ra hình ảnh ông Nhất-Linh-cầm-bút: một Nhất Linh hớn hở thấy rõ. 

Việc vừa xuất bản được cuốn sách liền mang vợ (hay người yêu) đi Sầm Sơn, đi Đà Lạt, Vũng Tàu v.v. mấy hôm, việc ấy hồi còn trẻ chúng ta phần đông cũng có thể đã làm. Việc long trọng đề ngày “khai thần bút” viết tác phẩm đầu tay cũng vậy. Nhưng cái sôi nổi của tuổi trẻ qua rồi, công việc viết lách dần dần thành thói quen, có khi là thói quen nhạt nhẽo, buồn chán, có khi (tệ hơn) là lao tác nhọc nhằn (như mấy trang bắt buộc mỗi ngày phải nộp cho nhật báo); bấy giờ chắc không mấy ai còn hứng thú ghi nhớ đoạn văn này viết tại đâu, vào giờ nào phút nào. Chắc thế. 

Nhất Linh khi phải rời toà báo ở 80 đường Quan Thánh Hà Nội ra đi, thì đã có hàng tá nhan sách ra đời, đã có hẳn một sự nghiệp văn học lẫy lừng. Thế mà gần như mỗi lần cầm cây bút lên ông đều hăm hở, đều lấy làm quan trọng. Ý này nẩy sinh trong đầu ông lúc mấy giờ, ngày nào, đoạn văn nọ viết ra vào hôm nào v.v. ông đều ghi nhớ. Ông mừng dòng chữ đầu tiên, ông mừng dòng chữ cuối cùng của mỗi tác phẩm. Trong xây dựng công trình kiến trúc thì đặt viên đá đầu tiên là chuyện long trọng, rồi vui mừng khánh thành càng long trọng. Trong xây dựng tác phẩm văn nghệ ở Nhất Linh, mỗi bước mỗi như thế. 

Vừa rồi có nói đến những người thấy viết lách lâu ngày thành thói quen nhàm chán. Đó chẳng qua là một phương diện của thái độ tiêu cực. Lại có phương diện khác, ngược lại. Của các vị nhận thấy viết văn là việc cực quan trọng: là nhiệm vụ, là sứ mệnh, là cái nghiệp, là nghiệp vụ, nghiệp dĩ, nghiệp… chướng v.v. Một số các vị khác thấy trước tác là cái lớn lao, thiêng liêng, nhưng là việc cực nhọc, nguy hiểm (!), đòi hỏi sự hi sinh: trong văn có lửa trong thơ có thép có máu, cầm bút cũng như cầm gươm cầm súng… 
Trước các bản thảo của Nhất Linh, không thể hình dung ra một con người uể oải chán ngán vì thói quen, cũng không thể nghĩ đến vẻ thê thảm của kẻ mang nghiệp chướng, và cũng không thấy ra hình ảnh một chiến sĩ lừ đừ… Tôi lại tưởng tượng ra một người đang khoái chí. 

Khoái chí, tiếng ấy nghe có chỗ hỗn láo? Nó gợi một ý hồn nhiên của trẻ thơ, ít ra cũng một vẻ mừng rỡ trẻ trung. Đàng này, Nhất Linh bấy giờ đã thuộc lớp tuổi cao niên, trên đường văn nghiệp ông đã đến cái đỉnh của danh vọng. Thế nhưng mỗi lần viết ông còn náo nức. Ông viết mà sung sướng thấy rõ. Cảnh tượng ấy thật cảm động. 

Vả lại trẻ trung hay trẻ thơ, náo nức hay sung sướng, thì có gì ngại phô bày? Ông Thánh Thán hể hả la lối om sòm khi gặp bất cứ niềm vui cỏn con nào, sao ta lại dè dặt vì niềm vui sáng tác? Năm 1950, ngày 13 tháng 3, Nhất Linh viết xong chương XII của bộ Xóm Cầu Mới. Bốn mươi hôm sau, ông ghi lên bản thảo mấy chữ: “Sáng 23-4 đọc lại: I am satisfied with me”. Câu anh văn ấy, nếu dịch ra giọng Thánh Thán thì là: “Bất diệc lạc hồ”. Cùng câu ấy, nếu đem ra diễn nôm theo giọng bình dân Nam bộ sẽ thành ra: “Tôi khoái tôi quá trời!” chứ còn gì nữa? Tự nhiên thôi. 

Nhất Linh nhiều lần nói đến cái sung sướng ở kẻ khác. Cô Mùi là một trong mấy “cục cưng” của Nhất Linh. Ông thấu hiểu hết ruột gan của cô gái ấy. Lúc cô ta bắt gặp mấy chữ trong bức thư của Siêu bộc lộ tình yêu, Mùi bị một “cái sung sướng đột ngột nó như từ ở một nơi xa nào ùa vào tràn ngập cả tâm hồn”. Nỗi sung sướng còn phát ra… mùi thơm! “Trong gió thoảng mùi lúa chín thơm và nỗi sung sướng của nàng, Mùi thấy cũng thơm như mùi lúa.” [8] 

Tôi tưởng tượng ngày 12 tháng 3 năm Tân Sửu lúc 11 giờ, khi cái ý về cuốn truyện Hai con mắt vụt thoáng qua trí Nhất Linh và ông cũng “vụt” ghi ngay lên giấy sự việc ấy; lại tưởng tượng lúc 1 giờ 30 phút trưa ngày 16 tháng 10 năm 1949 ở chỗ “trên núi” tại Hương Cảng khi ông ghi mấy lời vào trang đầu bản thảo Xóm Cầu Mới, thì hẳn là nỗi sung sướng trong lòng ông cũng đột ngột thơm lên chăng? 

Ở đời lắm kẻ bảo mình có duyên tiền định đối với chữ nghĩa, không sao rời được văn thơ; tuy vậy gặp được một chứng cứ viết lách hào hứng mê say như Nhất Linh không dễ đâu. 

Trong trường hợp ông, chứng cứ là bộ Xóm Cầu Mới. Khi bắt đầu đăng báo, tác giả viết “Mấy lời nói đầu”, cho biết bộ trường giang tiểu thuyết ấy dài gần vạn trang, hiện đã thảo sáu cuốn, mong sẽ viết độ hai chục cuốn nữa, trong đó có truyện dày tới nghìn trang, có truyện hai ba trăm trang [9] . Dự định một vạn trang sách rồi không thực hiện được. Mười năm sau khi tác giả qua đời, bộ Xóm Cầu Mới được ấn hành làm hai cuốn, dày 713 trang. 

Chừng ấy trang sách đâu phải thảo ra một hơi là xong. Xóm Cầu Mới lần đầu viết năm 1940 tại Hà Nội; lần thứ hai năm 1943 tại Quảng Châu (Trung Hoa), lần thứ ba năm 1949 tại Hương Cảng (Trung Hoa), lần thứ tư năm 1951 tại Hà Nội, lần thứ năm năm 1957 tại Fim Nôm (Đà Lạt) [10] . 

Trong lịch sử văn học ở nước ta có được bao nhiêu câu chuyện viết văn làm thơ mà năm lần bẩy lượt như vậy? Đến lần thứ năm, cái việc viết vẫn còn đầy hứng thú. Cứ trông tấm hình kỷ niệm và dòng chữ bên dưới thì biết. 

Đến đây có lẽ nên dừng lại chút xíu trước một chi tiết: Từ 1940 đến 1957 là 17 năm. Chừng ấy thời gian cho một pho truyện: lâu quá. Thật ra Xóm Cầu Mới là một chứng cớ mê say của Nhất Linh, không phải một chứng cớ viết chậm. 

Chúng ta đã biết tác giả có ghi trên bản thảo Giòng sông Thanh Thuỷ rằng bộ truyện này bắt đầu ngày 28-11-60, viết xong ngày 28-1-61: Hai tháng. Bộ truyện gồm ba cuốn: cuốn đầu (Ba người bộ hành) dày 192 trang, cuốn sau (Chi bộ hai người) 135 trang, cuốn chót (Vọng quốc) 147 trang. Non năm trăm trang sách ấy viết trong một hoàn cảnh đặc biệt: Trước khi Nhất Linh bắt đầu bộ sách 17 hôm là ngày xảy ra chính biến 11-11-60. Truyền đơn Mặt trận Quốc Dân Đoàn Kết do ba nhân vật đứng tên: Phan Khắc Sửu, Nguyễn Xuân Chữ, Nguyễn Tường Tam. Mặt trận thất bại, Nhất Linh bỏ nhà trốn lánh, hơn một năm trời nay đây mai đó, gia đình không rõ tung tích. 

Xóm Cầu Mới là sách viết chạy, Giòng sông Thanh Thuỷ là sách viết chui. Tình cảnh cùng gian truân cả. Cuốn sách viết nhanh lại là cuốn được tác giả thích ý. Ông ước mong sách được dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp. Trên trang đầu của bản thảo, ngoài bốn chữ Giòng sông Thanh Thuỷ ông còn tự mình dịch sẵn nhan sách ấy ra ba thứ tiếng khác: Thanh Thuỷ hà (chữ Hán), La rivière claire (Pháp) và Limpid water river hay Clear water river, hay Clear river (Anh). 

Eudora Welty là một tiểu thuyết gia Hoa Kỳ đồng thời với Nhất Linh; bà vừa mới qua đời. Ngày nhỏ, bé Eudora chưa viết được truyện (dĩ nhiên!), chỉ ham nghe kể truyện, nghe mê mẩn. Lớn lên, khi được bảo cho biết rằng truyện là do có kẻ viết ra chứ không phải tự nhiên sinh ra như cỏ dại, bà kinh hãi và thất vọng quá chừng. 

Bà Welty ấy nếu được biết luôn đến trường hợp viết truyện của Nhất Linh – viết đi viết lại, viết chụp giựt trong cảnh trốn lén – thì bà còn hồn vía còn bụng dạ nào dám viết tiểu thuyết nữa! 

Nỗi khổ 

Nhất Linh, hễ cứ viết là ông thấy vui sướng. Như vậy ông phải là kẻ sung sướng nhất đời, sung sướng không ai can nổi. 

Đòi có nhà lầu xe hơi tiền muôn bạc triệu mới thấy sướng, đòi có quyền cao chức trọng mới thấy vui thì khó. Chứ đối với người chỉ cần một gian nhà nhỏ bên suối, với cơm ba bữa mỗi ngày, một cái võng, một ống tiêu, với một cây bút, thì hoạ chăng có ông Tần Thuỷ Hoàng sống dậy mới bắt người ấy khổ được thôi. Ngoài ra, ai bắt được? 

Ấy vậy mà Nhất Linh rất khổ. Trong văn giới xưa nay hiếm ai khổ bằng ông. 

Hoàng Xuân Hãn lần đầu biết Nguyễn Tường Tam vào dịp hai vị cùng tham dự vào phái đoàn Việt Nam trong cuộc họp với Pháp ở hội nghị Đà Lạt. Bấy giờ – năm 1946 – Nguyễn Tường Tam là bộ trưởng bộ Ngoại giao, chủ tịch phái đoàn Việt Nam (Võ Nguyên Giáp là phó trưởng đoàn). Nhận xét về phong độ Nguyễn Tường Tam, ông Hoàng Xuân Hãn viết: “Cử chỉ lễ độ, ăn nói chững chàng, trong buổi xã giao hội họp với kẻ chức trách, hoặc phái viên Pháp, ảnh đã có thái độ cử chỉ đoan nghiêm và đúng mức, không làm thẹn chức vụ bộ trưởng Ngoại Giao và chủ tịch phái đoàn Việt Nam” [11] . Về ngoại dạng, ông chú ý đến “đôi mắt to nhưng ra vẻ mệt nhọc hay chán chường”. 

Trong năm 1946 Nguyễn Tường Tam rời Việt Nam sang Trung Hoa ở cho đến 1951. Tình trạng tệ hơn. Ông Nguyễn Tường Bách nhận xét: “Anh Tam hồi ấy có lẽ vì mệt mỏi nên mắc bệnh suy nhược thần kinh. Mọi người chủ trương anh phải tịnh dưỡng một thời gian, không nên tham gia những hoạt động có thể đưa lại những kích thích quá mạnh” [12] . 

Năm 1954, Nguyễn Ngu Í đến gặp Nhất Linh để thực hiện một cuộc phỏng vấn, ở Sài Gòn. Nhớ lại bức ảnh in trong một cuốn sách Đời Nay trước kia, so với ông Nhất Linh bây giờ trước mặt mình, Ngu Í “bùi ngùi vô hạn”. “Anh dường như yếu nhiều, và chẳng những tay anh hơi run, mà phía dưới hai gò má anh cũng giựt lia, giọng anh liu líu, hơi nói chẳng được dài. Và cả người anh một cái gì mệt mỏi, chán chường” [13] . Run rẩy, giựt lia, liu líu v.v. Bùi ngùi vô hạn là phải. 

Các vị trên đây dẫu sao chỉ ghi nhận cảm tưởng qua các cuộc gặp gỡ. Người con trai út của Nhất Linh – anh Nguyễn Tường Thiết – từng sống bên cạnh cha một thời gian dài sau 1951 đã biết thêm những điều thầm kín đau đớn. Tháng 4-1951, Nhất Linh với anh là Nguyễn Tường Thuỵ vào ở Sài Gòn. Anh em cùng ở một nhà. Nguyễn Tường Thiết kể: “Nhất Linh thường viết trong đêm khuya khoắt. Những khi giật mình thức giấc nửa đêm tôi thường thấy, qua khe cửa, đèn trong phòng ông còn bật sáng. Có đêm lũ chúng tôi lồm còm bò dậy vì có tiếng khóc trong phòng cha tôi. Tiếng khóc lúc đầu còn nhỏ sau lớn dần không kìm hãm được. Lũ chúng tôi ngơ ngác nhìn nhau (…). Sau này tôi biết ông đã khóc âm thầm nhiều đêm vào những dịp khác. Không ai có thể đoán biết ông khóc cái gì, ngay cả mẹ tôi cũng không thể nào biết được. Nhưng sự khám phá này đã gieo vào tuổi thơ của tôi một ấn tượng mạnh mẽ, rằng cha tôi là một người cô đơn và đau khổ. Ngoài ra những giấc mơ kỳ lạ và kinh hãi cũng được tôi hình dung thấy qua giấc ngủ của ông, qua cách ông trằn trọc ú ớ trong đêm.” [14] 

Năm 1954 Nhất Linh sang Pháp chữa bệnh. Từ Pháp về, sống ở khu phố chợ An Đông ít lâu, rồi ông lên Đà Lạt ở luôn mấy năm. Vẫn theo lời Nguyễn Tường Thiết thì dạo này ông khoẻ mạnh. 

Tuy vậy cái khóc của Nhất Linh thì vẫn còn. 

Sau 1975, cùng sống với nhau ở tiểu bang Minnesota (Hoa Kỳ) vài năm, tôi được nghe ông Vũ Khắc Khoan nhắc đến một kỷ niệm về Nhất Linh: Một buổi chiều ở Sài Gòn ông Vũ có dịp ngồi nói chuyện với Nhất Linh, trong phòng chỉ có hai người. Bấy giờ là đầu thập niên 1960, Sài Gòn xôn xao không khí chính biến. Ông Vũ tỏ ý lo ngại tới sự an toàn của Nguyễn Tường Tam. Ông Nguyễn bảo rằng thực ra lúc này ông không trực tiếp hoạt động chính trị, chẳng qua bạn bè và đồng chí cũ có điều gì hỏi đến thì ông góp ý thôi. Ông Vũ nói mình biết có những người hoặc bị tù tội hoặc đã hi sinh tính mạng vì sự tin tưởng vào ông (Nguyễn) đấy. Không nghe đáp lại. Lát sau, ông Vũ quay nhìn, thấy ông Nguyễn đang khóc lặng lẽ. 
Niềm đau khổ âm thầm của Nhất Linh, trước kia người thân trong gia đình không thấu hiểu nguyên do. Về sau, nguyên do tự hé lộ: gốc nguồn là từ những hoạt động chính trị. 

Năm 1946 tại hội nghị Đà Lạt, một hôm Nhất Linh ốm, nằm trong phòng, Hoàng Xuân Hãn đến thăm, trò chuyện. Nhất Linh bảo: “Những việc chính trị, thôi để các anh làm. Còn tôi thì về với văn hoá mà thôi” [15] . Độ mười năm sau, khi sống tại Đà Lạt, có hôm bỗng nhiên ông buột miệng nói ra và Nguyễn Tường Thiết ghi nhớ: “Có một lần hiếm hoi ông đã tiết lộ với chúng tôi là thời gian khổ sở nhất trong cuộc đời của ông là lúc ông đảm nhận chức vụ bộ trưởng bộ Ngoại Giao trong chính phủ Liên Hiệp” [16] . 

Với Hoàng Xuân Hãn, Nhất Linh bảo anh làm chính trị tôi làm văn hoá thôi. Sau đó, chính Hoàng Xuân Hãn về với văn hoá mà Nhất Linh lại dây dưa dính mãi vào chính trị. Với con, Nhất Linh bảo ông khổ nhất là lúc làm bộ trưởng. Sau đó cái khổ nhất lại đến với ông lúc ông đứng ngoài chính quyền, không còn giữ một chức vụ gì cả. Khổ nhất hẳn là việc tự huỷ mình. 

Văn nghệ với chính trị là hai yếu tố chính trong đời Nhất Linh. Ngày 7-7-1963, vào khoảng 4 giờ chiều ông uống thuốc độc thì 11 giờ trưa trong lúc cha con trò chuyện lần sau cùng, Nguyễn Tường Thiết (không biết đến ý định quyết liệt của cha) đã gợi ý ông viết hồi ký; ông bảo chuyện ấy ông có nghĩ tới hồi 1958 ở Đà Lạt: “Cậu dự tính viết ba quyển: cuộc đời làm báo và viết văn của Nhất Linh, cuộc đời làm cách mạng của Nguyễn Tường Tam và quyển thứ ba cậu viết về hoa phong lan. Nhưng về đây cậu bận vì tờ Văn Hoá Ngày Nay nên chỉ viết được cuốn Viết và đọc tiểu thuyết, sau đó lại dính vào những rắc rối chính trị, không có tâm đâu mà viết. (…) Chuyện chính trị nhiều khi cái không khí nó bắt buộc mình phải tham gia, như cái tình trạng hồi Pháp thuộc, lúc đó, nếu cậu không đứng ra làm việc nước thì trong lòng áy náy chẳng làm được chuyện gì khác. Nhiều khi người ta bị đẩy tới guồng máy hoạt động một cách rất giản dị không ngờ, rồi như những bánh xe ăn khớp nhau, họ bị đẩy dần vào vòng trách nhiệm. Ngay cả hồi chơi hoa phong lan ở Đà Lạt, cậu vẫn thấy mình không thể đứng ngoài vòng trách nhiệm ấy, nên phải về hoạt động lại ở Sài Gòn. Chính vì thế làm chính trị lúc tiến thì dễ lúc rút thì khó” [17] . 

Cách cái chết năm tiếng đồng hồ, Nhất Linh tóm tắt đời mình vào ba việc, trong đó phong lan là cái chơi, hai việc kia là cái làm: văn chương và chính trị. Một bên là niềm vui, một bên là nỗi khổ. Một bên muốn tiếp tục mà không được, một bên muốn rút lui lại không khỏi. Một bên đưa tới bộ Xóm Cầu Mới, một bên đưa tới bộ Giòng sông Thanh Thuỷ, hai tác phẩm cuối cùng của ông. 

Xin trở lại mấy trang bản thảo. 

Năm 1958, khi cho đăng Xóm Cầu Mới trên báo, tác giả viết “Mấy lời nói đầu”, trong đó có câu: “Cứ đọc những truyện dài trên kia, các bạn cũng đã lĩnh hội được phần nào cái ý chính của toàn bộ, nghĩa là không có ý chính gì cả ngoài cái ý tả cuộc đời về đủ mọi mặt”[18] . 

Sau đó, viết Giòng sông Thanh Thuỷ, Nhất Linh lại lấy làm quan trọng về cái ý truyện. “Sau đó”, tức ba năm sau, ngày 10 tháng 1 năm 1961, hôm ấy ông đắn đo suy đi nghĩ lại, ông viết “ý truyện” một lần thứ nhất, rồi không vừa ý, ông gạch bỏ đi, lại viết “ý truyện” một lần thứ hai. Lúc ấy là 5 giờ sáng. Lần trước gạch bỏ bằng bút mực đen, xong lại gạch nữa bằng bút chì đỏ. Lần sau chỉ có nét gạch bằng bút chì đỏ thôi. Đến khi sách xuất bản, cả hai đoạn ý đều không được in ra. 

“Ý truyện”, viết đi viết lại nội dung gần như nhau. Xin lấy bản viết sau: “Mỗi người đều có một “kiếp” (karma); mọi hành động đều do những sức ngấm ngầm trong bản thân thúc đẩy. Cuộc đời mình đi vào con đường nào đều do sức thúc đẩy mà mình không tự biết ấy tuy mình vẫn tưởng là chính mình tự chọn. Khi đã đi vào con đường ấy, mình bị một “guồng máy vô hình” lôi cuốn, khó lòng thoát khỏi, chỉ việc noi theo, không nhận định được đâu là xấu đâu là tốt, đâu là sự thực đâu là sai lầm.” 

Mặc dù “ý truyện” không được in vào sách, ý truyện vẫn hiển lộ rõ ràng trong Giòng sông Thanh Thuỷ (Có lẽ chính vì sự hiển lộ quá rõ, quá đầy đủ trong truyện mà nó không cần được tách ra nêu ở đầu sách). Những ý tưởng (và cả từ ngữ) như kiếp, karma, xấu tốt đúng sai khó phân, guồng máy v.v. đều có mặt trong truyện nhiều lần. Chữ “guồng máy” được nhắc đến khoảng ba chục lần. Ở “ý truyện”, guồng máy chỉ lôi cuốn thôi, trong pho truyện guồng máy còn hung tợn hơn: nó là guồng máy khốc liệt (trang 55, cuốn III), nó kẹp nát nhừ (trang 145, cuốn I), nó nghiền nát (trang 12, cuốn II) v.v. 
Người đọc có cảm tưởng sau Xóm Cầu Mới Nhất Linh bị hoạ chính trị ám ảnh nặng. Nó uy hiếp cái viết của ông. 

Sau vài chục năm viết truyện, Nhất Linh dần dần tìm ra, dựng nên, một lý thuyết về tiểu thuyết. Bướm trắng (1939) được viết theo một quan niệm mới, khác các cuốn trước. Đến năm 1942 ông bắt đầu viết hẳn ra một cuốn sách về các nguyên tắc hướng dẫn cách đọc và viết tiểu thuyết. Công trình sáng tác qui mô mà ông dự định bấy giờ được căn cứ trên những nguyên tắc ấy: Xóm Cầu Mới sẽ không có ý chính gì cả: trong hàng vạn trang sách sẽ chỉ có cuộc đời với nhân vật được mô tả cặn kẽ, thật đúng, thật sống động. 

Dự định Xóm Cầu Mới vừa thực hiện non một phần mười thì ý truyện Giòng sông Thanh Thuỷ tràn tới, choáng hết tâm tư đầu óc ông. Ở đây có hẳn một ý chính, một quan niệm nhân sinh: mỗi người một kiếp, sức ngầm thúc đẩy, guồng máy lôi cuốn không thoát nổi, xấu tốt đúng sai không nhận định được… 
Tư tưởng chỉ đạo ấy ám ảnh tác giả, khống chế tác phẩm. Giòng sông Thanh Thuỷ ba cuốn (Ba người bộ hành, Chi bộ hai người, Vọng quốc) vừa xong, ý truyện Hai con mắt lại vụt đến. Cuốn sau này chưa viết được bao nhiêu, nhưng ở mấy trang bản thảo đầu đã thấy Thanh và Ngọc: câu chuyện của các nhân vật Giòng sông Thanh Thuỷ được tiếp tục. 

Cuốn Viết và đọc tiểu thuyết viết từ 1952 đến 1960, bộ Xóm Cầu Mới viết lại rồi cho in lên báo năm 1958. Đến giai đoạn này Nhất Linh vẫn giữ một quan niệm. Theo quan niệm ấy, tiểu thuyết muốn viết về gì cũng được: xã hội, luận đề, trinh thám, ái tình, luân lý, tình cảm, triết lý v.v. Được tất. Nhưng trước hết phải lo viết cho hay. Viết hay là tả đúng các trạng thái phức tạp của cuộc đời, đi thật sâu vào sự sống, tìm cho nhiều chi tiết về người và việc để tạo được những nhân vật sống động. 

Sau giai đoạn nói trên, ở những tác phẩm viết sau 1960 người đọc có cảm tưởng luận đề nó xông vào ám ảnh tác giả, làm chủ tác phẩm. Người viết luôn nghĩ tới cái nghiệp của nhân vật này nhân vật nọ, cái guồng máy nó lôi cuốn anh này chị kia. Luận đề lại đóng vai trò lớn; biện giải, chứng minh, thành mối bận tâm lớn. Người làm chính trị khổ sở quay ra quấy phá người làm văn nghệ, quấy mạnh. 

Nhất Linh gọi tên thủ phạm là cái guồng máy, tôi ngờ không hẳn vậy. Không chừng thủ phạm chính thị là… nạn nhân thôi. Ông vui sướng do tài năng, ông vừa viết vừa vui: đó là một phương diện của Nhất Linh. Về một phương diện khác, ông vừa làm vừa khổ, càng làm càng khổ: làm đây là làm chính trị, cái làm không thoát ra nổi. 

Sự thực máy nó cuốn ông cách nào? Tôi nghĩ những lời ông thốt ra với con sát kề cái chết của mình là những lời tâm can, rất mực chân thành: “Như cái tình trạng hồi Pháp thuộc, lúc đó, nếu cậu không đứng ra làm việc nước thì trong lòng áy náy chẳng làm được chuyện gì khác.” Rồi máy nó cuốn vào, vì sao mà ông không rút mình ra được? “Ngay cả hồi chơi hoa phong lan ở Đà Lạt, cậu vẫn thấy mình không thể đứng ngoài vòng trách nhiệm ấy, nên phải về hoạt động lại…” Nói cách khác, ấy cũng tại vì lòng ông lại “áy náy”. 

Trong đời Nhất Linh đã xẩy ra nhiều chuyện phù hợp với những lời thốt ra cuối đời ấy. Chẳng hạn chuyện ông thi vào trường Mỹ thuật, đậu đầu, mà học chẳng bao lâu lại bỏ học vẽ. Ba chục năm sau, Nguyễn Ngu Í hỏi lý do, Nhất Linh cho biết vì khi mang giá, cọ, màu về quê, thấy đời sống thôn quê khổ quá, tối tăm quá, cần phải làm gì giúp họ. Giá, cọ, mầu không giúp kiến hiệu bằng báo chí. Ấy là áy náy chứ còn gì nữa [19] . 

Lại chẳng hạn những tiếng khóc đêm đêm trong phòng riêng tại nhà người anh, tiếng khóc một chiều trước mặt Vũ Khắc Khoan… Ấy cũng do áy náy thôi. Còn vượt xa hơn sự áy náy. 

Nhất Linh không thể không làm cái này, không thể rút lui khỏi việc kia, là do lòng ông cả, do cái tâm của ông cả. E không vì máy móc nào. Trong hoàn cảnh Pháp thuộc ông không đành lòng vui với cái vẽ cái viết; nhưng đâu phải xung quanh ông ai nấy đều bị máy nó hút cả? Hoạt động đã suy nhược người ra, đã lâm bệnh, mà ông không thể tự tách ra ngoài vòng trách nhiệm; nhưng đâu phải bấy giờ thiếu kẻ trùm chăn kín mít “cao thượng” quá trời, hay lánh ra nước ngoài thần trí thảnh thơi quá cỡ. 

Ở Nhất Linh, chẳng qua cái tâm nó gây luỵ cho cái tài. Chính ông hại ông, gỡ sao cho khỏi. 

Một lần nọ tôi có dịp biết câu chuyện đã xảy ra cho anh Nguyễn Tường Thiết cách đây khoảng bốn mươi năm. Anh thi tú tài, vào khẩu vấn, môn Việt văn. Ông giáo sư xem thẻ học sinh, cho anh thí sinh họ Nguyễn Tường được chọn nói về tiểu sử một trong các nhà văn của Tự Lực Văn Đoàn. Bạn tôi chọn ngay Nhất Linh. Rồi anh tịt luôn, không nói được câu nào. Nói theo sách? Thì anh có học tiểu sử Nhất Linh trong sách giáo khoa bao giờ đâu? Còn kể lể về những kỷ niệm của đời sống gia đình thân mật giữa không khí cuộc vấn đáp ở trường thi thì kỳ cục quá. 

Giả sử có cuộc khẩu vấn về tiểu sử mỗi người trước cửa thiên đình, chắc Nhất Linh – chính ông – lẫn lộn trong đám nhân vật lao nhao của mình, sẽ ấp úng than thở về nỗi kẹt máy liên miên, đến tàn đời. Các phán quan nhà Trời không thể không có cảm tình đối với một phát biểu khiêm tốn như thế. Nhưng chuyện ấy rối rắm, các ngài hẳn lấy làm khó tin. 

Còn như bảo Nhất Linh chính bị mắc kẹt ngay vào cái tâm của mình, thì éo le quá. Nói vậy được sao? 

Nói về Nhất Linh, bất giác nghĩ tới một tiểu thuyết gia khác, của Tây phương, hồi thế kỷ trước. 

Mùa hè năm 1836 cậu bé Gustave Flaubert, bấy giờ 15 tuổi, tình cờ gặp bà Schlésinger. Hình ảnh người thiếu phụ ấy ám ảnh cậu ta mãi. Bà Arnoux – một nhân vật chính trong Giáo dục tình cảm (L’éducation sentimentale) – là biến dạng của bà Schlésinger. Năm 1843 Flaubert bắt đầu viết cuốn Giáo dục tình cảm, bản thứ nhất. Năm 1845, truyện viết xong, cất đấy. Nhưng G. Flaubert thì chưa thoát khỏi sự ám ảnh của đề tài này. Ông tiếp tục đào sâu, thu thập tài liệu, đọc sách dữ dội, tích tụ những quan sát, ghi chép hàng ngày. Tháng 9-1864 ông khởi công viết một cuốn Giáo dục tình cảm khác. Ngày 15 tháng 5 năm 1869, lúc 8 giờ sáng, ông ngồi vào bàn, viết luôn một mạch tới 5 giờ kém 4 phút sáng hôm sau, tức ngày 16-5-1869, thì xong tác phẩm. Sách được xuất bản ngay cuối năm ấy: kể từ ngày bắt đầu viết nó là năm năm, kể từ khi bắt đầu viết cuốn Giáo dục tình cảm thứ nhất (1843) là hăm sáu năm, kể từ ngày gặp Schlésinger phu nhân (1836) tức ngày đề tài được “thai nghén”, ôm ấp, là ba mươi ba năm. (Bản viết xong năm 1845, tác giả bỏ qua luôn; mãi ba chục năm sau khi ông qua đời mới có người cho in). Cuốn Giáo dục tình cảm bản chính thức được ấn hành trong lúc sinh thời thì mỗi lần tái bản đều có sửa chữa thêm bớt liên miên. Ngay ở ấn bản cuối cùng trước khi G. Flaubert từ trần vẫn còn thấy nhiều ghi chú tu chỉnh của ông, chuẩn bị dành cho kỳ in tới: những chuẩn bị dở dang. 

Từ nhân vật này nghĩ sang nhân vật nọ, không phải do một so sánh nào. Giả sử có thấy kẻ này xem ra say mê hơn người kia, tận tuỵ hơn, làm việc hết mình hơn v.v., thì cũng không thể kết luận giản dị và dứt khoát. Hoàn cảnh mỗi nơi mỗi khác, mỗi thời mỗi khác, tình hình xứ sở mỗi nước mỗi khác, người cầm bút đâu có thể cùng một cách thế như nhau được. Muốn so sánh, hoạ chăng chỉ có thể nhặt nhạnh nêu lên một số sự kiện cụ thể thôi. 

Chẳng hạn về việc sửa chữa của G. Flaubert. Hồi truyện viết xong, tác giả có đưa bản thảo cho Maxime Du Camp xem. Ông bạn này nêu ra 251 chỗ góp ý. Đối chiếu với bản in, thấy có chỗ Flaubert nghe theo, có chỗ ông bỏ qua. Theo dõi từng phản ứng có thể nhận ra lắm điều lý thú trong thái độ, trong quan niệm viết của ông. 

Ba mươi năm sau khi G. Flaubert qua đời, D. L. Dumorest kiểm điểm và thấy qua các bản in cuốn Giáo dục tình cảm có cả thảy 495 chỗ sửa chữa. Có người cho rằng con số ấy còn thiếu sót. Dầu sao cái quan trọng không ở số lượng sửa chữa mà ở nơi xu hướng sửa chữa: Flaubert thêm vào 11 chỗ, lại bớt đi 420 chỗ; ông bỏ đi 125 chữ mais (nhưng mà), 39 chữ alors (bấy giờ), 32 chữ et (và), 31 chữ puis (rồi thì) v.v. Suy nghĩ về những chỗ con con như thế, có thể nhận ra đặc điểm của một văn phong; rồi không chừng phân tích những thêm bớt, chọn lựa nọ có thể thấy chúng hàm chứa một xu hướng đưa tới các diễn biến mới trong quan niệm tiểu thuyết v.v. và v.v. Đây đó không phải có kẻ từng cho rằng G. Flaubert đã báo hiệu phong trào tiểu-thuyết-mới sao? 

Nhất Linh ra đi đã bốn mươi năm. 

Ở đây không có ý so sánh người này với người nọ, nhưng tránh sao khỏi sự nghĩ ngợi về thái độ của mỗi tập thể văn giới đối với mỗi văn nhân, về thái độ mỗi thể chế chính trị đối với văn nghệ. Sau bốn mươi năm, sách của Nhất Linh có lúc bị cấm đoán chê bai, có lúc được cho phép xuất hiện. Nhưng xuất hiện giới hạn, từng phần. (Hiện nay ở trong nước phần được in sau 1945 vẫn bị chôn). 

Còn khối bản thảo của Nhất Linh mà bảo rằng đã được đọc, được nhận xét thì… Tôi thấy việc làm của mình chỉ là khều vào, chứ đã xem xét suy cứu gì đâu. Thật nhảm nhí, hài hước. Cho nên ở đầu bài viết đã có lời phân bua, đến cuối bài vẫn còn “áy náy”, lại kè nhè. Tôi mơ ước: Giá có ai đọc kỹ, đọc thực sự… 

Tháng 8. 2001 


[1]Trưa ngày 29 tháng 4 năm 1975, tôi có đúng 15 phút để trở về lần sau cùng căn phố lầu chợ An Đông Sài Gòn, nơi thân phụ tôi đã sống những tháng ngày cuối, tính quơ hết những gì có thể mang theo được nhưng chỉ kịp gói hai tập bản thảo Xóm Cầu Mới và Giòng sông Thanh Thuỷ vào một bao nylon đem đi. Đến đảo Guam, soát lại tôi gần muốn khóc vì sau gần tháng trời trên biển, hơi nước mặn đã làm phai thêm nhiều nét mực.
[2]Tháng 5 năm 2001, nhân chuyến về nước để mang di cốt song thân chúng tôi về chôn cất nơi nguyên quán ở Hội An, chúng tôi có dịp đi thăm lại huyện Cẩm Giàng. Tôi có mang theo sơ đồ Xóm Cầu Mới do Nhất Linh phác hoạ trong bản thảo ra đối chiếu thì thấy chỉ con đường sắt, nhà ga, một dẫy phố Phủ là giống huyện Cẩm Giàng hiện tại, phần còn lại của sơ đồ có thể là hư cấu.
[3]Trong ký ức xa thẳm nhất của tôi về trại Cẩm Giàng là cái hàng hiên rộng và dài có rặng hoa ti-gôn rủ xuống và tiếng còi xe lửa rúc lên trong đêm khuya. Hai đoạn văn tả anh chàng Siêu thích sống ở căn nhà có hàng hiên và tiếng còi tàu ở Lăng Cụ Quận khiến tôi như sống lại những ngày rất xưa cũ. 
[4]Hay ngày 20-5-52? Chúng tôi không đọc được (V.P.)
[5]Nguyễn Tường Thiết, Nhất Linh, cha tôi. Bài viết ở Sài Gòn, trước 1975, đăng lại trên tạp chí Văn Học Nghệ Thuật, California, Hoa Kỳ, bộ mới, số 3, tháng 7-1985. 
[6]Tạp chí Văn Học Nghệ Thuật số đã dẫn. Sự thực về ngày chụp ảnh: đây không phải là ngày khai bút, mà là ngày bắt đầu viết lại lần thứ 5 cuốn Xóm Cầu Mới (Theo: Lời nhà xuất bản, Phượng Giang, ở cuối quyển II bộ sách này, trong bản in lần đầu ở Sài Gòn).
[7]Theo thư của bà Nguyễn Thị Vinh viết ngày 2-6-2001. 
[8]Xóm Cầu Mới, Xuân Thu tái bản ở Hoa Kỳ, trang 17
[9]Tạp chí Văn Hoá Ngày Nay, Sài Gòn, số 1, ngày 17-6-1958
[10]Lời nhà xuất bản, trong bộ Xóm Cầu Mới, Phượng Giang xuất bản ở Sài Gòn 
[11]Hoàng Xuân Hãn, Một vài kí vãng về Hội nghị Đà Lạt (Trích tập san Sử Địa số 23 và 24) Sài Gòn 1971. Tái bản tại Pháp do AVAC, năm 1987, trang 44
[12]Nguyễn Tường Bách, Việt Nam, những ngày lịch sử, 1981 
[13]Nguyễn Ngu Í, Sống và viết, Ngèi xanh xuất bản, Sài Gòn, 1966
[14]Nguyễn Tường Thiết, Nhất Linh, cha tôi, trong Văn Học Nghệ Thuật , tạp chí xuất bản ở Hoa Kỳ, bộ mới số 3, tháng 7-1985.
[15]Hoàng Xuân Hãn, sách đã dẫn, trang 59.
[16]Tạp chí Văn Học Nghệ Thuật, số đã dẫn, trang 295. 
[17]Nguyễn Tường Thiết, Nhất Linh, những giờ phút cuối, bài báo đăng lại trên tạp chí Ngày Nay, Texas, Hoa kỳ, số 28, tháng 6-1983.
[18]Tạp chí Văn Hoá Ngày Nay, tập I, ra ngày 17-6-1958, tại Sài Gòn. 
[19]Nguyễn Ngu Í, sách đã dẫn 

Nguồn: Nhất Linh – Trong Tự lực Văn đoàn. Xóm Cầu Mới (Bèo giạt). Nhà xuất bản Văn Mới, California, Hoa Kỳ, 2002. Bìa: Nhất Linh. Hoạ bản: Nhất Linh. Trình bày: Nguyễn Tường Thiết. Copyright © Nguyễn Tường Thiết. Bản điện tử đăng trên talawas do Nguyễn Tường Thiết cung cấp.

http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10219&rb=08

Comments are closed.