Văn học miền Nam 54-75 (193): Quách Tấn (1)

QUÁCH TẤN

Quách Tấn (19101992), tự là Đăng Đạo, hiệu Trường Xuyên, các tiểu hiệu là Định Phong, Cổ Bàn Nhân, Thi Nại Thị, Lão giữ vườn; là một nhà thơ Việt Nam. Ông cùng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, nghĩa là Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn.

Ông sinh ngày 23 tháng 11 năm Kỷ Dậu (tức ngày 4 tháng 1 năm 1910, nhưng giấy khai sinh thì ghi là ngày 1 tháng 1 năm1910) tại thôn Trường Định, huyện Bình Khê (nay là xã Bình Hòa, huyện Tây Sơn) tỉnh Bình Định.

Tổ tiên ông vốn là người Trung Quốc sang Việt Nam. Cha ông là Quách Phương Xuân, thông chữ Pháp; mẹ là Trần Thị Hào, giỏichữ Hán. Anh em ông gồm 10 người nhưng chỉ còn lại ba là ông, Quách Tạo và Quách Thị Mộng Lan.

Lúc nhỏ Quách Tấn học chữ Hán. Đến 12 tuổi, ông mới bắt đầu học Quốc ngữPháp ngữ tại trường Pháp Việt Quy Nhơn (nay là Quốc học Quy Nhơn), rồi đậu cao đẳng tiểu học (primaire supérieur) năm 1929.

Sau đây là quá trình hoạt động của ông:

1930, làm phán sự Tòa sứ tại Tòa khâm sứ Huế, rồi đổi lên Tòa sứ Đồng Nai Thượng ở Đà Lạt.

1935, về làm việc tại Tòa sứ Nha Trang.

1939, xuất bản tập thơ đầu tay: Một tấm lòng (Tản Đà đề tựa, Hàn Mặc Tử đề bạt).

1945, tản cư về Bình Định tham gia chống Pháp, làm thủ quỹ cho Ủy ban ủng hộ kháng chiến và Mặt trận liên hiệp quốc dân huyện Bình Khê.

1949, mở Trường trung học tư thục Mai Xuân Thưởng tại thôn An Chánh huyện Bình Khê.

1951, được trưng dụng dạy Trường trung học An Nhơn rồi Trường trung học Bình Khê.

1954, hồi cư về Nha Trang được tái bổ vào ngạch thư ký hành chánh.

1955, làm tại tòa hành chánh Quy Nhơn cho đến 1957. Tiếp theo, ông giữ chức Phó tỉnh trưởng tỉnh Bình Định. Nhờ cương vị này, Quách Tấn đã can thiệp với chính quyền địa phương, chọn được một vùng đất địa thế đẹp tại Ghềnh Ráng (Quy Nhơn), rồi chuyển hài cốt người bạn tri âm là thi sĩ Hàn Mặc Tử từ nghĩa trang nhà thương phung Quy Hòa về an táng tại đây. Ít lâu sau, Quách Tấn đổi về Sở Du lịch Huế (19571958), Ty Kiến thiết Nha Trang (19581963), rồi giữ chức Phó tỉnh trưởng tỉnh Khánh Hòa (19631965)

1965, nghỉ hưu tại nhà số 12 đường Bến Chợ Nha Trang (gần chợ Đầm), tiếp tục viết văn làm thơ.

1987, ông lâm cảnh mù lòa rồi mất ngày 21 tháng 12 năm 1992 tại Nha Trang, hưởng thọ 82 tuổi.

Quách Tấn lập gia đình năm 1929. Vợ ông là bà Nguyễn Thị Nhiếp, hiệu Thanh Tâm, sinh trưởng tại Phú Phong, huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định.

Quách Tấn Tấn tập làm thơ từ lúc học lớp đệ nhất niên trường Quy Nhơn. Lúc ra trường ông đã thông thạo các thể thơ, nhưng chính thức bước vào làng văn thơ từ năm 1932 . Năm 1933, ông đã có thơ đăng trên An Nam tạp chí, Phụ nữ tân văn, Tiếng dân và Tiểu thuyết thứ bảy

Sau đây là một số tác phẩm chính của ông:

Thơ

· Một tấm lòng: tập thơ, 1939, gồm hai phần chính và một phần phụ lục, có lời “Tựa” của Tản Đà, lời “Bạt” của Hàn Mặc Tử.

· Mùa cổ điển: tập thơ, 1941.

· Ðọng bóng chiều: tập thơ, gồm 108 bài thất ngôn tứ tuyệt, Kim Lai ấn quán in năm 1965.

· Mộng Ngân sơn: tập thơ, gồm 135 bài ngũ ngôn tứ tuyệt, Nhà xuất bản Hoa Nắng (Paris) ấn hành năm 1966.

· Giọt trăng: tập thơ, gồm 60 bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt, Nhà xuất bản Rừng Trúc (Paris) ấn hành năm 1973.

· Trăng hoàng hôn: tập thơ, gồm 60 bài thơ lục bát tứ tuyệt, Nhà xuất bản Trẻ ấn hành năm 1999.

· Tuyển tập thơ Quách Tấn: do Quách Giao (con trai ông) tuyển chọn, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn ấn hành năm 2006.

Ngoài ra ông còn 13 tập thơ chưa xuất bản.

Văn

· Trăng ma lầu Việt: gồm 2 tập, viết phỏng theo Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ đời Hậu Lê. Tập 1 xuất bản năm 1943. Năm 1947, viết thêm tập 2. Năm 2003, Nhà xuất bản Thanh Niên in chung thành một quyển.

· Nước non Bình Định: tập địa phương chí Bình Định, Nam Cường xuất bản năm 1968. Nhà xuất bản Thanh Niên tái bản năm 1999.

· Xứ Trầm hương: tập địa phương chí Khánh Hòa, Nhà xuất bản Lá Bối ấn hành năm 1970.

· Đời Bích Khê: tập hồi ký của Quách Tấn viết về cuộc đời và thơ của thi sĩ Bích Khê. Nhà xuất bản Lửa Thiêng ấn hành năm 1971.

· Đôi nét về Hàn Mặc Tử: in trong Bán nguyệt san Văn số 7, Sài Gòn, 1967; in lại trong Hàn Mặc Tử – hôm qua & hôm nay, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 1996.

· Họ Nguyễn thôn Vân Sơn (1988)

· Nét bút giai nhân (1988)

· Bước lãng du: giới thiệu danh lam, thắng tích từ Huế đến Ninh Thuận, Nhà xuất bản Trẻ ấn hành năm 1996.

· Thi pháp thơ Đường: gồm 26 bức thư và một bài tựa “Chút lòng” gởi cho các bạn trẻ yêu thích thơ Đường, Nhà xuất bản Trẻ ấn hành năm 1998.

· Bóng ngày qua: hồi ký của Quách Tấn dày trên 2.000 trang đánh máy, xếp thành 10 tập. Đã xuất bản được các tập: Đời văn chương (1998), Bàn thành tứ hữu (2001), Tình thầy bạn (2003), Trường Xuyên thi thoại (2000), Những mảnh gương xưa (2001), Hương vườn cũ (2007), Nguồn đạo trong thơ văn (2007),…

Ngoài ra ông còn 20 tập văn chưa xuất bản.

Thơ văn dịch

· Lữ Đường Thi tuyển dịch: tuyển dịch 56 bài thơ chữ Hán của Thái Thuận, một danh sĩ triều Hậu Lê. Trong tập còn có bài tổng luận về cuộc đời và sự nghiệp văn chương của vị thi sĩ này. Nhà xuất bản Văn Học ấn hành năm 2002.

· Tố Như thi: tuyển dịch 72 bài thơ chữ Hán của thi hào Nguyễn Du. Nhà xuất bản An Tiêm ấn hành năm 1973. Năm 1995, Nhà xuất bản này tái bản tại Paris.

· Ngục trung thư : dịch tập thơ chữ Hán Nhật ký trong tù của Nguyễn Ái Quốc (?). Mặc dù chưa in, song một phần lớn thơ dịch đã được đưa vào Hồ Chí Minh toàn tập xuất bản năm 2000.

· Nghìn lẻ một đêm (4 tập, 1958)

Viết chung

Ông viết chung với con trai là Quách Giao các tập:

· Nhà Tây Sơn (xb năm 1988, được tái bản nhiều lần)

· Võ nhân Bình Định (Nhà xuất bản Trẻ ấn hành năm 2001)

· Đào TấnHát bội Bình Định (xb năm 2007)…

Theo Wikipedia

gọi đò một tiếng lạnh hư không

Thi Vũ

Đề huề đầu bạc lòng son
Trăm năm dẫu hét vẫn còn Nghìn Thu
                                                       Q.T.

Liên tiếp nhiều đêm không ngủ vì chuông điện thoại. Tình hình cuối năm sôi động nơi tôi làm việc. Máy nói vọng từ các châu. Vọng từ Việt Nam. Bốn giờ sáng ngày 24.12.1992 chuông lại reo. Tôi xuýt không trả lời, vì vừa qua một cuộc điện đàm dài lúc 2 giờ rưởi. Nhưng rồi lúc nào cũng vậy, linh thức quán âm luôn gọi mình tỉnh thức.

Bốn giờ sáng ngày 24.12.1992, tiếng nói lảnh lót người con gái thi hào Quách Tấn tự đầu giây xa xăm bên kia buông ra tám chữ: “Ba cháu mất hôm 21 tháng 12 rồi !”. Tôi lặng người. Thi sĩ cuối cùng của một thời đại thi ca đã mất. Người tri kỷ cuối cùng của đời tôi không còn. Bốn ngày trước đây, lần đầu tiên tôi mơ thấy về Nha Trang thăm anh Tấn. Mặt anh ốm o và buồn. Anh vừa nói vừa dẫn tôi ra khỏi nhà: Chú ra ngoài nói chuyện tiện hơn. Sáng dậy không nói ra, tôi có phần lo khi kể cho Ỷ Lan nghe. Linh cảm chuyện không hay. Song lòng tự thắng lướt với lý luận, sắp Tết mình nghĩ tới anh mà nằm thấy đó thôi. Đâu ngờ ngày ấy anh sắp đi.

Tôi gọi giây nói qua tổng đài Paris nhờ đánh điện tín về Nha Trang cho Quách Giao, người con trai anh: “Vô cùng đau đớn được tin Ba mất. Ngôi sao Bắc đẩu thi ca vừa rụng. Tất cả nhân loại mồ côi. Chia buồn và cầu nguyện cùng gia đình”. Dưới ký tên Quách Vũ như một cử chỉ thọ tang. Sau đấy viết lời khấp báo gửi các đài phát thanh BBC, VOA, RFI và các báo Việt ngữ ở Hoa Kỳ và Úc.

Qua thư từ, tôi làm quen với thi hào Quách Tấn đúng 33 năm. Nhưng chưa từng được gặp. Thoạt đầu là người bạn vong niên tôn kính. Sau thành người anh kết nghĩa. Tuy mãi mãi là một người thầy về thơ, về nghĩa khí sống trong đời.

Thời ấy, tôi bỉnh bút cho tạp chí Liên Hoa ở Huế do hai Thầy Đôn Hậu và Đức Tâm làm chủ nhiệm và chủ bút. Một người nay đã mất, và bây giờ phải gọi là Đại lão Hòa thượng Đôn Hậu và Hòa thượng Đức Tâm mới đúng. Nhưng thời tôi ở Huế chỉ có hai danh xưng độc nhất để gọi các Tăng sĩ đã thụ giới Tỳ kheo là Thầy hoặc Ôn. Ôn dành cho chư vị lớn tuổi thuộc hàng trưởng lão. Tiếng Thầy vừa tôn kính, trang nghiêm, cao cả, vừa bình dị, thân gần, thương mến. Cấp vị đạo đức rất bình-đẳng-pháp ấy, ngày nay ít người ưa vì ý thích danh vị cao sang.

Nhân đọc tạp chí Liên Hoa số tháng 5.1959, tôi gặp một bài thơ ký tên Quách Tấn :

Mặt mắt muôn xưa lớp bụi mờ

Sao mai đã mọc vẫn nằm mơ

Chờn-vờn nẻo bướm canh canh mộng

Quằn-quại lòng dâu kiếp kiếp tơ

Biển thức lênh-đênh thuyền viễn-vọng

Lòng trần quanh-quẩn bước vong-cơ

Phước duyên được thấy hoa Đàm nở

Lòng Đạo nguyền dâng trọn ý thơ.

Bài thơ làm hôm 15.5.59 (mồng 8 tháng 4 âm lịch) nhân ngày thi hào Quách Tấn quy y theo đạo Phật.

Đọc bài thơ Quách Tấn nơi phương Tây xa lạ, nhưng trí tưởng tôi dựng lên dãy trường thành cổ kính Cố Đô. Sáng lên bao đóa sen hồng chúm chít giữa những vòng lá lục trên mặt hồ dưới chân Cửa Đông Ba. Nhớ những trưa hè oi ả, nằm trên căn gác với Trần Mạnh Hòa ở phố Gia Long ngó xuống hồ sen. Hòa có giọng ngâm thơ trầm ấm, luyến lòng. Những câu thơ theo tôi không dứt:

Gió rủ cành đi ngàn liễu khóc

Sông đùa lạnh tới bóng trăng run

Thuyền ai tiếng hát bên khuya vẳng

Ghé lại cho nhau gửi chút buồn

Đó là khoảng cuối 48 đầu 1949, một ít lâu trước ngày tôi bị bắt vào tù vì tham gia phong trào học sinh kháng chiến. Từ đó xa mãi hồ sen, xa mãi giọng ngâm thơ tuyệt vời Trần Mạnh Hòa, xa mãi thơ Quách Tấn…

Mãi tới năm 1959 nhân đọc thơ tôi liền biên thư thăm thi hào Quách Tấn qua tòa soạn báo Liên Hoa. Tình bạn nẩy sinh từ đó.

Bây giờ giấc mộng gặp nhau nơi vườn mận ở đầm Xương Huân Nha trang đã tan thành mây khói. Nơi một thời tấp nập giới thi nhân Tản Đà, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Chế Lan Viên, Yến Lan…

Bây giờ tôi sẽ phải đi một mình tới cuối cuộc đời này với mọi rủi ro, bội bạc, đơn côi. Tuy không sợ hãi, than van. Bây giờ tôi mới lọn hết tâm sự Bá Nha đối với Tử kỳ.

Bây giờ, sau khi làm những việc khấp báo cần thiết, tôi ngồi đọc lại mấy tập thơ Quách Tấn gửi sang năm ngoái: Áo Đắp Tâm Tư, Giàn Hoa Lý, Trăng Hoàng Hôn, Tràng Hạt Ngũ Ngôn.

Một đời thơ tài hoa như thế sao lại hẩm hiu? Được Tản Đà tán thưởng. Cụ Phan Bội Châu khen tặng. Nhà bình thơ nổi tiếng Hoài Thanh gọi Quách Tấn là “sứ giả đời Đường”. Chế Lan Viên, vào năm 1941, hết lời ca tụng :

“Qụách Tấn đã đi gần cái thể đọng của thơ thuần túy… Tưởng là khô khan của Cao-đạo, nhưng thật ra trong-suổt của Tượng Trưng… Tập Mùa Cổ Điển bé bỏng nhưng quá đầy đủ, trước hết, đã giải cho ta một mối lầm ác-nghiệt là phân chia bờ-cõi Thơ bằng hai chữ MỚI, CŨ chẳng có ý-nghĩa gì. Và cũng không thể gọi là sau hết, cái việc nó đem lại — ngoài những ý hay, tứ mới, ngoài những cảnh đẹp, tình sâu — một cái quý-báu nhất là HỒN THƠ, mà chưa một ai định nghĩa cho rành mạch”.

Năm mươi hai năm sau Chế Lan Viên, giở tuyển tập “Áo đắp tâm tư”[1] sáng tác từ 1955-1990, tôi gặp ngay bài Rụng tiếng vàng :

Nắng nhạt chiều thu quạ rộn ràng

Sầu vương lau lách lạnh thành hoang

Tro tàn thư viện duyên ngao ngán

Đá nát hoàng cung bước ngỡ ngàng

Gầy gọ gió sương tùng Thế Miếu

Bẽ bàng trăng nước trúc Hương Giang

Trông vời Thiên Mụ mây man mác

Lơ lửng chuông hôm rụng tiếng vàng

Huế, 1957

Tôi chợt hiểu bởi đâu Tản Đà đã không ngần ngại đặt Quách Tấn bên Yên Đổ, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan…

Khí thơ hàm súc và diệu xứ trên đây không riêng khi thả tình vào cảnh, là sở trường của thơ Đường, Tống, mà ngay lúc đề cập tới thời sự, là điều thơ tối kỵ, bản lĩnh thơ Quách Tấn vẫn không nghiêng chao:

Nắm giềng mối nước nhóm con lai

Chẳng tựa lòng dân tựa nước ngoài

Vì lợi vì danh da xáo thịt

Sẵn quyền sẵn thế ngựa là nai

Máu xương để lạnh trời biên tái

Son phấn riêng trau gót vũ đài

Thanh kiếm diệt thù tay chữa vững

Lòng thơ nửa khép cánh thư trai

Lòng thơ nửa khép

Để Quách Tấn cạnh Yên Đổ, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, hẳn vị trích tiên Tản Đà muốn đề cao chất thơ rặc Việt của những nhà thơ này. Dù họ sử dụng thể Đường luật.

Rặc Việt là ngôn ngữ thơ Quách Tấn. Chỉ mới hai tập thơ đầu “Một Tấm Lòng” (1939) và “Mùa Cổ Điển” (1941) nhà bình thơ thâm hậu Hoài Thanh đã nhận ra một phần sắc thái ấy trong cuốn“Thi Nhân Việt Nam”: “Quách Tấn đã tìm được những lời thơ rung cảm chúng ta một cách thấm thía. Người đã thoát hẳn cái lối chơi chữ nó vẫn là môn sở trường của nhiều người trong làng thơ cũ”.

Càng về sau, với những tập “Đọng Bóng Chiều” (1966), “Mộng Ngân Sơn” (1967), “Giọt Trăng” (1973), ngôn ngữ Việt của Quách Tấn càng định hình cho một nền thơ không lai căng.

Đưa vào thơ những chữ bình dị địa phương như hường, rựng, đàng, xuýt, đậm lợt, rặc, lục lìa… mà vẫn trợ thủ tài tình cho thơ thành thơ, là đặc sắc của Quách Tấn:

Mặt trắng đêm nao bút điểm hường

Tóc hoa rày đã nở đầy gưong

Mái tóc hoa

Xuống thềm đứng đợi sao hôm rựng

Ríu rít từng đôi én liệng quanh

Tinh thu

Tai ách khi không mắc giữa đàng

Vườn xưa mai mận xuýt thành hoang

Vườn xưa mai mận

Biết bao đậm lợt màu dâu bể

Mây trắng nghìn thu vẫn trắng ngần

Ất sửu thu hoài

Quên tính trăng thu mấy độ tròn

Mùi quê quen thú lợt mà ngon

Mùa thu quen thú

Buồn nhúm cỏ hoang tàn lại mọc

Nhớ theo triều biển rặc liền dâng

Dạ quế gừng

Trách ai chẳng biết ai mà trách

Lồng lộng trời xanh biển lục lìa

Lắt lẽo cầu tre

Trách ai chẳng biết ai mà trách, là tuyên ngôn của người thi sĩ trên mặt đất và trước bạo chế cường quyền. Giới thi sĩ đã thoát ly được sự lừa gạt chính trị, đem thơ làm trò bưng bốc, xỉ vả, hay tuyên truyền. Ngay những lúc bị chà đạp, khủng bố, loại triệt, tiếng thơ họ vẫn hiên ngang, tuy gạt bỏ từ thâm căn, bản năng thù oán hay vạch mặt gọi tên kẻ hãm hại mình. Họ đứng cao, đứng xa, đứng trên đầu kẻ thù ác, đỡ thơ lên cao xanh. Họ thừa biết việc vạch mặt chỉ tên là tự hạ mình đứng ngang hàng với kẻ bất xứng. Những thi sĩ như thế, gần đây tôi thấy có Tô Thùy Yên, có Thanh Tâm Tuyền… Nhưng đã từ lâu trước, có Quách Tấn.

Trách ai chẳng biết ai mà trách. Một đời khổ hạnh, nát tan, nhưng vẫn buông được lời nhàn hạ, kiêu hãnh, đại lượng như thế với kẻ thù. Chín năm Việt Minh kháng chiến chống Pháp, Quách Tấn bị nghi ngờ, bị quản thúc, bị cấm dạy học, phải thắt gióng đi bán rong. Người thi sĩ ấy, năm 1946 đã cùng với Chế Lan Viên ra Huế gặp Tố Hữu ở Tổng bộ Việt Minh “xin” đem thơ và thân phụng vụ quê hương. Nhưng Tố Hữu chê thơ Quách Tấn, chê luôn trái tim và con người[2].

Mười bảy năm sau ngày “giải phóng” và “thống nhất” đất nước, thân phận Quách Tấn vẫn bị chà đạp, khủng bố, tiếng thơ Quách Tấn vẫn bị bóp siết. Thế nhưng thi nhân xem thường:

Ta chẳng thù ai chẳng chống ai

Ích chi nuôi ý hại ta hoài

Khúc hát đưa bôi

Chưa đội đá vá trời, thì chiếc bàn con cũng đủ cho thi nhân khép mở mười phương :

Thơ lỗi thời, văn chẳng thích thời

Ngày ngày cặm cụi viết văn thôi

Chi hèm trước ngõ đời chung chợ [3]

Một chiếc bàn con một góc trời

Viết văn

Viết gì? Hẳn không viết truyền đơn, dù là truyền đơn bằng thơ. Quách Tấn nối tiếp nguồn thơ thiên cổ, thi tả nỗi lòng mình và người trước những biến thiên:

Tưởng chừng ai nấy vẫn nằm mơ

Bánh vẽ thay cơm cứ phỉnh phờ

Mặc ý theo hùa khen diệu kế

Nỡ lòng ngồi cạnh ngắm nguy cơ

Hò rập nhịp

Lẽ đâu việc nước dám làm ngơ

Thấp trí khôn mong gỡ thế cờ

Đành phải treo gươm cầm lấy bút

May ra thiếu mật những còn tơ

Thế cờ

Dù đôi lúc tâm hồn thi nhân hết dồn nén :

Dân chủ vừa thành dân chửi khắp

Chửi hoài không xuể phải tung đao

Dấu xe qua

Ấy cũng bởi thi nhân với toàn dân bị đẩy mãi vào thế bí :

Tiếng quyên mùa phượng chưa khô huyết

Trận lá rừng ve đã rụng thu

Làm người xưa khó nay thêm khó

Khó học tài khôn khó giả ngu

Lòng thơ ngập bóng

Đành đoạn cá cua chung một giỏ

Sụt sùi cốt nhục cách đôi phưong

Đìu hiu

Lời ngay là tội người không thế

Lẽ phải trong tay kẻ có quyền

Buổi tàn niên

Thời Việt Minh bị đưa đi an trí, thời Xã hội Chủ nghĩa bị tịch thu sách đem đổt, bị lùa đi kinh tế mới, bị bắt bỏ tù. Chỉ vì Quách Tấn không biết làm thơ ca tụng chế độ, ca tụng “hòa dởm dân tộc”, ca tụng chiếc lồng son văn nghệ đang “hồ hởi” giết chết thi ca. Nỗi trầm thống này chỉ phớt nhẹ qua thơ:

Dù chẳng phải chiên dù chẳng ghẻ

Biết ai là ngụy biết ai chân

Đường về bến cũ thân cô nhạn

Mây kéo chiều hôm bóng cổ nhân

Tránh khách

Cảnh tù tội nhét gọn vào vài ba điển cố :

Đời những xót xa câu nhất nhật

Ngày càng thấm thía nghĩa tam đa

Đìu hiu nắng hạ ve Tây Lục

Trăn trở mây ngàn đá Nữ Oa

Qua vòng khổ lụy

Câu nhất nhật là câu truyền ngữ, ví một ngày trong tù bằng nghìn năm ngoài tự do. Ngày Tết, ta thường chúc ba chữ tam đa (nhiều phúc, nhiều lộc, nhiều thọ), nhưng với tù nhân, tam đa lại là đa ưu, đa cụ, đa nhục. Còn tiếng ve rền qua song ngục làm thi nhân nhớ Lạc Tân Vương đời Đường thuở bị giam ở Tây Lục, ông làm bài thơ nổi tiếng vịnh ve sầu lúc thu sang (Tại ngục vịnh thiền). Còn Nữ Oa ai cũng biết là người nữ kiệt đội đá vá trời.

Những lúc đau thương, khổ ách mới biết chẳng còn ai là bạn, kể cả những kẻ có học hành, biết suy xét phán đoán[4] :

Có việc chớ mong nhờ kẻ trí

Sa cơ đành chịu gánh phần ngu

Bóng trung du

Bạn bè còn chăng, là đôi cuốn sách, một tiếng đàn hờ, giọng sáo thổi lúc chiều lênh, hay chim hót buổi tàn xuân :

Giải buồn mở đọc lòng thiên cổ

Từng trận hoa thơm rụng bóng mành

Rụng bóng mành

Đàn ai chợt thoáng qua song lạnh

Lòng chẳng quen nhau vẫn ngậm ngùi

Mưa gió đầu thu

Giải buồn vịn đá lên am vắng

Lạnh thấu hư không địch bến chài

Nỗi lòng sâu cạn

Đâu nơi chẳng tục để tìm thanh

Không học Cuồng Dư[5] học Quảng Thành5

Nghìn dặm gió thu đùa tóc bạc

Xuân còn rơi rớt tiếng chim oanh

Xuân còn rơi rớt

“Áo đắp tâm tư” gồm 164 bài thất luật (thể thơ Đường gồm tám câu bảy chữ), đi từ thơ tâm sự tới thế sự. Tâm và thời nhất quán hòa nhau trong thơ. Thơ không bị lôi kéo vào mối uẩn ức nhất thời, hay khí dụng cho những âm mưu. Thơ đẩy lên thành tư tưởng như một sinh thức. Thơ hiển hiện Người.

Nỗi thao thức Kẻ thừa (de trop, en trop) trong triết học Hiện sinh Pháp đã được sinh thức bất nhị của Quách Tấn giải mã :

Có còn thơ nữa không còn nữa

Không cũng không sao có chẳng thừa

Xuân không thơ

Biện chứng tả khuynh Tây phương lập tổng thể (synthèse) từ phủ định của phủ định (via Negativa), chắc chắn sẽ viết câu thơ trên thành “Không cũng không sao, có cũng thừa”. Nhưng tính chất nhị nguyên của triết học hư vô tây phương (nihilisme) đã bị đánh đổ bởi chữ chẳng của thi ca Việt : “Không cũng không sao, có chẳng thừa”. Diễn dịch tư tưởng ấy xuống thấp vào thực tiễn của một bộ môn, như bộ môn chính trị chẳng hạn, ta mới thấy câu viết chơi chơi này mang sinh thái cực kỳ hòa hiệp và xây dựng: anh không khứng vào đảng tôi cũng chả sao, sự kiện anh hiện hữu đã là quý, đã không thừa cho dân và nước rồi. Hóa ra thơ là tư tưởng, là sinh thức, giúp ta nhìn thấy rõ cuộc đời vàng thau :

Ngại thiếu thay thừa, thừa vẫn thiếu

Lấy chân làm giả, giả thành chân

Ất Sửu thu hoài

Bạn thiết không gần, gần chẳng thiết

Tuổi già

Thiết chi sự giả tạo và đồng lõa, khi chưa gặp tri kỷ, khi chân lý đã nắm giữa lòng tay, trong cách sống, ở hiện thì :

Rằng chân rằng giả tâm vô ngại

Nghìn trước nghìn sau phút vĩnh trường

Sạch bụi phố phường

Nghĩ lại sá gì thân hạt thóc

Mà đem hình dịch bận tâm linh

Hé cánh dư sinh

Từ năm 1988 tới bốn năm cuối đời, Quách Tấn bị mù. Không còn tự đọc và viết như trước. Bên mình không ai giúp đỡ. Một mình vò võ trong căn phòng trống lạnh, ẩm ướt. Mái dột không tiền sửa. Trên sàn gạch la liệt thau, lon hứng nước giọt. Có đêm Quách Tấn một mình chống dù ngồi viết, “viết mò theo thói quen, chữ được chữ mất, hàng xuống hàng lên”, nhưng thư cho bạn, thi nhân vẫn lạc quan nói “may là tinh thần vẫn sáng suốt”. Những vần thơ giai đoạn này khá não nùng, bộc lộ nỗi khổ đau nghèo khốn và bệnh tật.

Bình minh bỗng chốc ngập hoàng hôn

Cảnh tối tăm may tỉnh táo dần

Tiếng địch cô thôn

Gió bụi đi về xe ngựa đó

Sắt son chờ đợi giống nòi đâu

Qua Hưng Thạnh

Từng cơn gió bấc thổi mưa dầm

Xa tối tăm gần cũng tối tăm

Đêm mưa bấc

Chợ đông3 thêm thấm lòng hiu quạnh

Nhà dột riêng thương nghĩa cũ càng

Tiết thu sang

Tấm thân bảy chín giữ không tròn

Hai mắt nay còn được nửa con

Một tiếng chim chiều kêu trước giậu

Mai già nở lạnh bóng trăng non

Mai già nở lạnh

Chuyện xưa lắm chuyện đã xa lơ

Chẳng nhớ khi không nhớ bất ngờ

Muốn chép mắt mù không thể chép

Làm lơ nghĩ tiếc chẳng đành lơ

Nhờ được chút nhờ

Tuổi tác già nua mắt lại đau

Nhờ con nhờ rể hết lòng nuôi

Cũng may mũi, óc, tai còn nhạy

Ổi chín bên song gió thoảng mùi

Dư sinh

Có đui mới biết đui là khổ

Không lẫn là may lẫn mới phiền

Ước ao có kẻ vui lòng dắt

Lên núi tìm thăm bạn cửa chiền

Buổi tàn niên

Bốn bể tri âm tình tản mát

Sáu mươi tác phẩm phận mồ côi

Lệ không ngăn nổi thường rơi lệ

Ngươi có còn đâu sợ hổ ngươi

An sở ngộ

Đui nhưng cũng từ đây Quách Tấn nhìn bằng tai, bằng cảm xúc. Nhìn bằng trí và nhìn bằng tâm. Người yêu thơ chỉ buồn cho sự kiện Quách Tấn ở quá lâu trong hiu quạnh và bội bạc. Dễ bốn mươi năm có thừa. Bội bạc vì đôi lớp thi sĩ trẻ hãnh tiến. Bội bạc vì những chính thể phi dân tộc. Hay chỉ vì vận số của những thiên tài bị bỏ quên giữa đời sổng ô tạp hôm nay hay đã từ bao nơi dương thế ?

Ẩn thân mà vẫn khó an thân

Bắt nhốt rồi tha đã mấy lần

Chẳng khứng theo hùa cam chịu khổ

Để cho sống sót cũng là ân

Vợ con lòng cứ lo âu mãi

Bè bạn ngày thêm thỏn mỏn dần

Bầy trẻ dại khờ còn bắt chước

Rằng thơ Quách Tấn chẳng bằng phân

Cam chịu

Phân hay không phân? Người có văn hóa đâu đem uế khí nói chuyện văn chương bao giờ! Ta cứ nhàn nhã đọc thơ, những lúc không bon chen mộng công hầu, chính khách, những lúc không lượt là siêu thị. Để thơ thăm viếng trái tim đang lão hóa, như hình bóng một tình xưa thoáng tới. Biết đâu ta không khám phá một nguồn thơ đã khuất sau giọng lưỡi líu lo ngoại ngữ. Biết đâu ta không giàu lên nhờ thân cận với một tâm hồn khiêm tốn như thỏi ngọc dưới bao tầng đá:

Danh dù tro trấu bôi lem lọ

Tánh chẳng phô ra giấu vụng về

Bạn gần chưa thấu xa chưa tỏ

Chớ vội vàng khen chớ vội chê

Âm thầm

Tự đánh giá mình, Quách Tấn viết giới thiệu 164 bài trong “Áo đắp tâm tư”, cho rằng “sau khi cho tái bản «Mùa Cổ Điển» (1960) thì thơ mỗi ngày mỗi xuống dốc, đáng lẽ phải dừng bước, nhưng ngựa quen đường cũ nên tôi cứ buông cưong”. Quách Tấn tự ví mình như Giang Lang[6] :

Giang Lang tuổi đã về già

Bút đâu còn sức cho hoa thắm màu

Tôi không nghĩ vậy. Ai lại không thương đứa con đầu lòng hơn hết, song mỗi đứa con về sau đều mang sắc thái khác với tính khí riêng. Với những tập “Mùa Cổ Điển”, “Mộng Ngân Sơn”,“Đọng Bóng Chiều”… thơ Quách Tấn đạt tới diệu mỹ. Qua “Giọt Trăng”, “Áo Đắp Tâm Tư” v.v… thơ Quách Tấn đi từ diệu mỹ qua diệu chân. Cái Đẹp (Beau) đi vào Chân lý (Vrai) bằng sự Hồn hậu (Einfach) của Thơ.

Thơ Quách Tấn giải thoát ta khỏi những ràng buộc, hệ lụy, xích nối tâm thân ta vào cột mốc những ngày thường đơn điệu. Thơ man mác. Gọi ta lên đường, chuyển vận lại cuộc hành trình vũ trụ. Thơ mênh mông. Trả lại ta không gian ngun ngút, vừa man dại vừa hùng vĩ, làm đổ sụp những phòng ốc hộp chật, những phố phường chui rúc, những đụng chạm chán chường. Tại sao cứ hòm im cuộc đời dịch chuyển nồng say hôm nay? Thơ là múa và bay, cao mãi với thinh không. Hẳn là thơ ấy gợi buồn. Nhưng không buồn, làm sao rứt áo ra đi? Rứt áo ra đi, mới biết có tự do, biết mình là CÁI gì chưa bị xay thành bột. Thi sĩ là kẻ lên đường…

Đời nửa khói mây chìm bóng mộng

Gọi đò một tiếng lạnh hư không

Tĩnh mịch

Ý thức hệ và triết học đã chết ở Tây phương, tiếc thay cái đà vọng ngoại nhị nguyên vẫn còn quay tít ở Việt Nam ! Khiến người thơ lâm lụy :

Nước chia đôi nhà cũng chia đôi

Anh nam em bắc bạn phương trời

Sụt sùi dòng thu

Nước loạn đã không tài cứu nước

Thân già chưa sẵn chước an thân

Bờ chia thế hệ thêm heo hút

Ruột rút văn chương lắm ngại ngần

Bên sách

Khiến hồn thơ quạnh quẽ :

Thôi đừng thắp nến chi thêm lệ

Giếng ngậm trời khuya trăng chứa chan

Tiểu hàn

Giọt nến như lệ chảy dưới ánh sáng bập bùng. Trăng chứa chan trời, song lòng giếng thẳm đành ngậm mối cảm thông trong âm u. Như Quách Tấn giữa quê quách hoang vu :

Mưa tạnh non cao đọng bóng chiều

Tiếng chuông chùa cổ vọng cô liêu

Đá hẹn : mùa rêu xanh nấn ná

Lòng quê : dặm bấc thẳm đìu hiu

Sau mưa

Sống tải vào mối chờ mong. Dù nỗi chờ mong tối hậu Quách Tấn đã đạt: lòng mình, áo mình không nhàu bẩn trước cuồng phong:

Những mong vận hạn khi qua khỏi

Áo đắp tâm tư nếp chẳng nhàu

Vô đơn chí

“Thi sĩ là người đứng mãi trên núi cao, bên sông nước gọi đò. Thi sĩ làm gạch nối cho sinh diệt chuyền hơi hiện hữu. Người thi sĩ đứng đó, dưới hố bom, bên làng cháy, giữa cuộc tình duyên hay chết chóc, để thiên đàng và địa ngục khỏi nghiêng lệch. Để thiên đàng và địa ngục chỉ là ý niệm. Vì sự sống mới là hơi thở tồn sinh. Tồn sinh thơ”.

Mấy dòng trên tôi viết trong bài giới thiệu Quách Tấn đăng ở tạp chí Văn số đặc biệt về Quách Tấn phát hành tháng 9.1970 tại Saigon. Nay xin chép lại làm mộ chí nơi tâm tưởng cho thi hào Quách Tấn, cùng mọi thi sĩ đã vượt thoát chốn trần gian.

Paris, 4.1.1993

(trích “Gọi Thầm Giữa Paris” sắp tái bản)

[1] Khởi đầu tác giả đặt tên “Sau Mùa cổ Điển”. Nhân đọc bài Vô Đơn Chí tôi rút ba chữ “Áo đắp tâm tư” xem như hợp với hồn thơ Quách Tấn, viết thư đề nghị và đã được Quách Tấn đồng ý qua thư ngày 22.5.92.

[2] Thảo nào, đàn em văn nghệ của Tố Hữu nằm trong đài Việt ngữ RFI Pháp nhận được tin Quách Tấn qua đời, vẫn không loan tin, dù dư giờ ra rả chuyện “hòa hợp hòa dởm dân tộc”, chuyện văn học hợp lưu, dù vẫn ra rả chuyện các nhà văn Hà Nội.

[3] Trước nhà thi sĩ ở Nha trang ngày xưa có đầm nước gọi đầm Xương Huân, sau này thị xã lấp đất xây chợ.

[4] Chế Lan Viên có thể là một trong những kẻ trí này. Chuyện sau đây có thực. Chế Lan Viên là bạn tâm giao, là em kết nghĩa của Quách Tấn. Hai người xem nhau như ruột thịt. Thế mà sau 1975, khi Chế Lan Viên đến Nha Trang diễn thuyết. Được tin, dù không được mời Quách Tấn vẫn đi nghe, đứng chờ ngoài cửa đón thăm. Nhưng Chế Lan Viên lướt qua thấy Quách Tắn, chỉ nói hai chữ Pháp : “C’est toi!” (Bạn đó à!) rồi đi thẳng, không hỏi han thăm viếng.

Vào những năm 1968, Chế Lan Viên đi công tác tuyên truyền sang Paris. Tôi vì mối tình với Quách Tấn ngỡ họ là anh em, nên bắn tiếng qua ông ông Trần Văn Khê xin gặp thăm riêng Chế Lan Viên. Chế từ chối, dặn rằng muốn gặp thì đến hội trường Maubert nơi ông diễn thuyết cho Hà Nội. Tôi không đến, tuy nhờ ông Khê trao tặng Chế hai tập « Mộng Ngân Sơn » và « Đọng Bóng Chiều » của Quách Tấn. Cũng qua ông Khê, Chế nhờ nhắn với Quách Tấn là : « Vẫn nhớ thương nhau như xưa. Hồi qua Trung quốc có hái 3 lá liễu ở Hàng Châu chờ ngày đoàn tụ trao nhau ». Thuở ấy tôi xúc đụng chân tình và nhân đạo của một thi sĩ dù đã theo Cộng sản. Sau 75, tôi hỏi Quách Tấn, thì anh chưa bao giờ thấy mặt 3 lá liễu !

Một Phật tử đi nghe Chế Lan Viên về khen hết lời với tôi vì câu nói của Chế : « Trên chiến hào, dưới trận bom, tôi luôn mang trong người cuốn kinh Lăng Nghiêm ». Số là thời ấy phong trào Phật giáo tại miền Nam là lực lượng lớn cộng sản cần ve vãn. Tôi nhớ làm phiền lòng người Phật tử khi phản ứng : « Coi chừng mưu mô Việt Cộng ! ». Hoá ra mưu mô thật. Với người Cộng sản duy vật và duy lợi, thì lá liễu, thi ca, tình nghĩa… tất đều như món hàng trao đổi, hầu thu vét cho đấng Chí Tôn là Đảng.

[5] Tiếp Dư người nước Sở, giả cuồng để được sống yên ổn, đời gọi là Sở Cuồng. Quảng Thành là một cao nhân đời Đường, sống an nhàn trong xã hội, nhiều khi ra ngồi giữa chợ xem bói xem tướng hầu tìm người tài đức.

[6] Tên là Giang Yêm, lúc trẻ nằm mộng thấy hoa nở nơi đầu ngọn bút. Từ ấy văn chương ngày càng rực rỡ. Lúc tuổi già, mộng thấy một bà lão đến đòi hoa đã cho mượn. Từ đó văn chương suy sút dần.

Nguồn : http://www.gio-o.com/ThiVu.html

© gio-o.com2015

Comments are closed.