Văn học Miền Nam 54-75 (498): Chu Tử (kỳ 12)

Sống

Phần II

Chương 2

Tuyết nhìn đồng hồ, thấy đã bảy giờ, nhưng nàng không vội vàng. Tuyết bình thản nhìn vào gương soi, chải lại mớ tóc. Tuyết có hẹn gặp Công bảy giờ chiều, trước cửa rạp Eden, để hai người cùng đi xem chớp bóng. Vì từ cái buổi đánh phé ở nhà Tháp, Công cay cú Tuyết ra mặt, công nhiên theo đuổi Tuyết. Còn Tuyết thì chỉ nghĩ đến chuyện lợi dụng thế lực của Công để trả thù Kha. Trong sự hăm hở trả thù, Tuyết không ngừng, không lưỡng lự trước bất cứ phương tiện nào và nàng đặt cả một kế hoạch quyến rũ Công để biến Công làm tay sai cho mình.

Đã bảy giờ hai mươi phút mà Tuyết vẫn chưa chịu đi. Kinh nghiệm đã dạy cho Tuyết biết đối với đàn ông, càng khinh bạc, cao kỳ bao nhiêu, thì họ càng bám riết bấy nhiêu. Cho nên Tuyết muốn làm khổ Công, bắt Công phải điêu đứng chờ đợi… Nàng biết rằng dù có đến chậm một giờ đồng hồ, Công cũng không thể bỏ ra về. Mãi tới tám giờ kém mười lăm, Tuyết mới lững thững ra đi, và khi vừa nhìn thấy bóng dáng nàng từ ngoài đường bước vào “passage Eden”, bộ mặt khó đăm đăm của Công đã vụt trở nên tươi tỉnh và Công vội vã rảo bước tới đón nàng. Cũng chả buồn xin lỗi về sự đến chậm, Tuyết nở nụ cười duyên dáng nói với Công:

– Anh đến từ bao giờ?

Công bèn “kể khổ” không phải là để trách Tuyết đến chậm, mà là để Tuyết thấy cái si tình của mình:

– Anh đến sớm một giờ, Tuyết đến trễ một giờ. Cộng là hai giờ… Hai giờ chờ đợi bằng hai thế kỷ…

Nửa mỉa mai, nửa âu yếm, Tuyết trả lời:

– Thế là anh sống dài tới hai thế kỷ. Anh vì chờ em mà được sống lâu như vậy, còn oán gì em nữa!

Rồi chừng để Công khỏi nhận thấy giọng mỉa mai của mình, Tuyết vội nói dối:

– Nói thực chứ em đến chậm, em cũng sốt ruột, nhưng có hai con bạn đến chơi, chúng ám dữ quá, không có cách nào tống cổ chúng đi ngay được… Thôi anh vào lấy vé đi…

Công nhìn đồng hồ, bảo Tuyết:

– Nhỡ xuất rồi! Có nhẽ chúng ta ra nhà “Givral” gần đây, uống cái gì, rồi đợi xem xuất chín giờ thì hơn, Tuyết nghĩ thế nào?

Sự thực Tuyết không muốn tới nhà hàng Givral, mà cũng không muốn đi “xi-nê”, vì nhà nàng Givral là nơi gặp gỡ của những kẻ ăn xài sang trọng. Tuyết rất có thể gặp Lượng, gặp Kha ở đó, mà gặp họ lúc này đối với Tuyết là một cực hình. Tuy nhiên, Tuyết đã đặt kế hoạch là sẽ chiều lòng Công, quyến rũ Công bằng đủ mọi cách, cho nên Tuyết đành tặc lưỡi trả lời Công:

– Dạ, đi đâu cũng được…

Vừa bước chân vào nhà hàng Givral, Tuyết đảo mắt nhìn khắp phòng, và không thấy ai quen, Tuyết bình tâm ngồi xuống bên một cái bàn còn trống. Nhưng Công vừa hỏi được một câu “Em dùng gì”, và Tuyết chưa kịp trả lời, thì đã nghe tiếng xì xào ở bàn trước mặt Tuyết, có ba thanh niên đang trố mắt nhìn Tuyết. Tuyết không biết ba thanh niên là ai, nhưng hình như họ biết Tuyết, và một thanh niên vừa cười, vừa nói, đủ để cả Công và Tuyết nghe thấy:

– Chà! Công chúa Bạch Tuyết thật là đẹp mê hồn. Chỉ tiếc hoàng tử hơi già…

Nghe thanh niên nói, Công lặng người, sượng sùng nhìn Tuyết, chỉ sợ Tuyết buồn, vì sự thực đối với tuổi Tuyết, thì Công quả có hơi già… Còn Tuyết thì mặt nóng bừng bừng. Từ khi bị cưỡng hiếp, mối căm hờn của Tuyết đối với đàn ông chỉ đợi bất cứ cơ hội nào là bùng nổ. Và trong lúc bất ngờ nhất, Tuyết lẳng lặng đứng dậy, đi sang bên bàn ba gã thanh niên, hất hàm hỏi thanh niên vừa thốt ra câu nói trên:

– Anh vừa nói gì, anh nhắc lại cho tôi nghe nào!

Thấy Tuyết mảnh dẻ, thanh niên nhếch mép cười xỏ lá:

– Tôi bảo “Công chúa Bạch Tuyết thật là đẹp mê hồn. Chỉ tiếc là hoàng tử hơi già”.

Thanh niên vừa nói xong, thì Tuyết đã lấy hết sức bình sinh tát tới tấp vào mặt thanh niên. Trong lúc bất ngờ, thanh niên không kịp phản ứng, chỉ biết đỡ đòn một cách rất thảm hại. Còn hai thanh niên cũng chỉ biết đứng trơ như phỗng, nhìn Tuyết tát bạn mình. Kịp đến lúc Công chạy sang, nắm lấy tay Tuyết, và chủ nhà hàng cùng các chiêu đãi viên bâu quanh lấy Tuyết, Tuyết mới chịu ngừng tay. Trước khi quay trở về bàn mình, Tuyết còn hổn hển nói:

– Nếu chúng mày còn nho nhoe, tao sẽ cho mỗi đứa một miếng “judo”.

Sự thực Tuyết rất yếu và nàng cũng chưa hề học võ judo. Nhưng bài học mà Tuyết nhận được của Kha đã được Tuyết ghi tâm khắc cốt và nàng áp dụng bài học đó lần đầu với bọn Công, Tháp và thấy thắng lợi. Lần này nàng lại áp dụng với ba thanh niên, nàng lại thấy thắng lợi, vì ba thanh niên nghe Tuyết nói sẽ cho mỗi người một ngón đòn judo thì đều chột dạ. Ba chàng tuy tốt mã, nhưng nhát gan, nhất là không biết judo là gì. Họ thường nghe kể chuyện những cô thiếu nữ mình hạc xương mai, một mình hạ năm sáu chàng thanh niên, nên đành chửi đổng mấy câu cho đỡ ngượng, rồi vội vã thối lui…

Trở lại bàn, Công nhìn Tuyết với con mắt vừa kính phục, vừa biết ơn, nói với Tuyết:

– Em cho chúng một bài học xứng đáng tuy hơi tàn bạo. Anh cũng không ngờ em lại biết cả Judo!

– Em có biết Judo gì đâu! Em “trộ” chúng đấy chứ!

Chàng trố mắt nhìn Tuyết:

– Trời! Nếu quả thực em không biết võ mà dám đánh chúng như vậy thì anh cũng chịu em…

Tuyết nhìn Công, nói như rót vào tai Công:

– Em thấy chúng dám đả động tới anh, thì em không giữ được bình tĩnh!…

Thấy Tuyết nói sở dĩ nàng hành hung người thanh niên vì hắn xúc phạm tới Công, mũi Công nở ra hỉ hả. Công đã từng hoạt động cách mạng, tranh đấu chính trị, đã từng làm Bộ trưởng, Công già dặn kinh nghiệm trường đời, nhưng lúc này, Công ngây ngô, hí hửng như một chính khách hét ra lửa, nhưng không ngại quỳ dưới chân một con bé mười sáu tuổi hoặc một con đĩ thập thành, trao cả số phận đất nước cho con bé ranh con, mặc con bé muốn làm mưa gió gì cũng mặc…

Công hí hửng tưởng Tuyết vì yêu mình, mà mạo hiểm tát thanh niên “cao bồi”. Nhưng nếu Công biết hành vi gây sự của Tuyết bắt nguồn từ cái buổi Tuyết bị cưỡng hiếp nên trả thù đời, thì Công đã hết lý do để tự hào! Thấy Công hí hửng, Tuyết cười thầm, thêm coi khinh, coi thường bọn đàn ông mù quáng.

Ngồi trong rạp, Công lại càng mù tịt hơn hữa: Hương thơm của nước hoa, của phấn, hương thơm của da thịt Tuyết, cộng với những khóe mắt, những nụ cười, những dáng điệu lơi lả kín đáo của Tuyết, làm Công ngây ngất, tưởng chừng như trong suốt cả quãng đời tranh đấu liên miên cho lý tưởng, cho quốc gia, cho sự nghiệp bản thân, v.v. chàng chưa hề được hưởng những phút giây nào say sưa như lúc này, chàng ngồi bên một cô gái cũng chẳng còn gì là ngây thơ, trong trắng, không những không rung động, không thương yêu Công mà chỉ nghĩ đến chuyện lợi dụng Công… Ảo ảnh của tình yêu! Cũng như cái phim mà hai người xem hôm đó là phim “Ảo ảnh cuộc đời”. Và khi người đàn bà trong phim, cất tiếng ca, khóc cho nhân thế, tiếng ca như xé ruột gan, thì Tuyết cảm thương cho đời mình, không giữ được xúc động, gục đầu vào vai Công để khóc, khiến Công càng thêm cái “ảo ảnh” là Tuyết yêu chàng và Công bối rối dỗ Tuyết:

– Tuyết làm sao thế? Tuyết xúc động phải không?

Tuyết cũng không hiểu mình xúc động thực hay nàng đóng kịch với Công, không biết mình cảm thương vì chuyện phim hay cho cuộc đời mình. Nhưng sự thực là nước mắt nàng chảy xuống ướt cả vai Công làm Công lại càng “mù” thêm, tin tưởng những giọt lệ của Tuyết là vì Công mà rỏ. Cho nên khi Tuyết hỏi chàng, trong cơn thổn thức “Em có mối thù ghê gớm phải trả, liệu anh có sẵn sàng giúp em không” thì Công thề thành khẩn, thiết tha hơn cả trước kia chàng thề khi nhập đảng cách mạng:

– Anh thề với em, dù bất cứ việc gì, dù khó khăn, nguy hiểm, em cần tới anh, anh cũng sẵn sàng cúc cung tận tụy vì em…

Tuyết cầm bàn tay Công, siết chặt để tỏ lòng biết ơn. Nàng thủ thỉ bên tai Công:

– Để lát nữa, khi trở về, em sẽ kể anh nghe. Mà tối nay, anh có thể vắng nhà được không?

– Được lắm chứ! Anh vắng nhà là thường… Chiều hôm nay, trước khi đi, anh đã nói ở nhà là anh đi đánh mạt chược, đến khuya hoặc sớm mai mới về…

– Nếu thế, tối nay xin mời anh đến ngủ ở nhà em,

Công mừng rơn, vội hỏi:

– Nhưng em ở đâu? Ở với ai?

Tuyết điềm nhiên:

– Em ở đường Trương Minh Giảng với ông già thân sinh ra em. Nhưng hôm nay, ông đi Hố Nai thăm người bạn, vài ngày mới về, ở nhà chỉ có một mình bà cô họ của em…

– Vậy sao em không cho anh biết nhà để anh xuống thăm em. Tội gì mà phải hẹn nhau ở xi-nê, khiến suýt xảy ra chuyện không hay. Cũng may mà ba đứa con trai đều hèn nhát, chứ chúng ngỗ ngược, đánh lại em thì thật anh mang hận…

Tuyết tình tứ nhìn Công:

– Vì anh mà em gặp chuyện không hay thì càng hay chứ sao!… Còn chỗ ở của em, anh là người duy nhất mà em tiết lộ. Bởi vì em biết…

– Em biết sao?

– Em biết là dù anh có biết rõ gia đình nhà em, anh cũng không coi thường em. Em biết là anh không giả dối, không bao giờ lừa gạt em.

Chính Tuyết đang mưu tính “lừa gạt” Công, nhưng Tuyết khôn ngoan chặn họng Công trước, khiến Công không những không nghi ngờ gì Tuyết, mà còn phải thề sống thề chết về lòng chung thủy của mình để Tuyết khỏi nghi ngờ.

Vì vậy, sau khi tan chớp bóng, Công không những ngoan ngoãn, vui vẻ, mà còn tự cho là một vinh hạnh, vinh hạnh được đưa Tuyết về nhà, vinh hạnh được ngủ nhà Tuyết, cái nhà mà Tuyết đã mua cho cha bằng tiền của Lượng!

Căn nhà của cha Tuyết ở mãi đường Trương Minh Giảng nối dài, phải vượt qua cái “lỗ lội Vườn Xoài”, xuyên qua bao đường hẻm mới tới nơi. Công để xe ở ngoài đường, hoan hỉ đi theo Tuyết, y như cái thời niên thiếu, chàng hoạt động bí mật, lặn lội vào những ngõ hẻm để phát truyền đơn chống đế quốc, chống bù nhìn. Trước kia chàng chạy theo cái “ảo ảnh” chính trị, thì lúc này, chàng chạy theo “ảo ảnh” tình yêu… đều là ảo ảnh cả! Nhưng hăm hở thì lúc nào Công vẫn hăm hở!…

Căn nhà của ông Phó tương đối không đến nỗi lụp xụp, tồi tàn. Nhà có hai gian: ở phòng ngoài, để tưởng nhớ quê hương, ông Phó đã bày biện giống hệt phòng khách nhà ông thời ông chưa di cư: cái tủ chè, bộ trường kỳ, cái sập, cái lư hương, tất cả đều có vẻ cổ kính, khiến Công nhìn ngắm gian phòng, gật gù khen:

– Anh không ngờ nhà Tuyết lại đặc biệt thế này! Thật là ấm cúng!

Tuyết cười:

– Mỗi khi trở về nhà, Tuyết cũng “xưa” như những đồ đạc trong nhà này. Ở nhà Tuyết không có cà phê, mà chỉ có chè tàu của “ông cụ” dùng để đãi khách. Nếu anh thích thưởng thức chè tàu, thì Tuyết pha trà mời anh uống. Uống trà xong, nếu anh thích đánh cờ tướng, thì Tuyết cũng sẵn sàng tiếp anh, vì Tuyết đánh cờ cũng tạm hầu anh được vài nước… Ông già của Tuyết có bộ quân cờ đẹp lắm…

Công trố mắt nhìn Tuyết:

– Tuyết cũng biết đánh cờ tướng?

Vẫn cái cười bí mật trên môi Tuyết:

– Tại sao không? Mà chưa chắc anh đã hạ nổi Tuyết. Có nhẽ anh vẫn đinh ninh Tuyết chỉ biết khiêu vũ chứ không biết đánh cờ tướng. Sự thực, Tuyết học khiêu vũ vì mình cần sống với đời thì cũng phải “đợt sóng mới” cho khỏi bị loại ra ngoài vòng “chiến”, chứ Tuyết cũng chả ưa thích lắm! Đánh cờ vui hơn nhiều chứ!

Công nhìn Tuyết, chưa hết ngạc nhiên. Trong khung cảnh cổ kính của gian phòng, Tuyết không còn có vẻ gì ngỗ ngược của cô thiếu nữ đã tát tai người thanh niên ở tiệm Givral; Tuyết vận chiếc quần thâm, cái áo cánh trắng, rộng, dịu mềm như một thục nữ con một ông đồ nho, thong thả lấy bộ trà ra lau, dung dị pha trà, và khi ngón tay thon thon, trắng trẻo của nàng nâng chén trà tỏa hương thơm ngào ngạt, cung kính mời Công, thì cảm tưởng của Công là mình đã lạc lối tới Đào Nguyên để chung hưởng hạnh phúc với nàng tiên “Bạch Tuyết”…

Tuyết nâng chén trà thứ ba mời Công rồi hỏi:

– Anh biết đánh cờ chứ?

– Dĩ nhiên là biết! Nhưng tội gì mà đánh cờ lúc này. Chúng mình còn bao nhiêu chuyện cần nói với nhau.

Tuyết tinh quái nhìn Công khiến Công ngây ngất:

– Không! Không phải là đánh cờ thường, mà là đánh cuộc, đánh lấy “giải” hẳn hoi.

Công tò mò hỏi:

– Đánh cuộc như thế nào? Và “giải” là cái gì?

Vẫn nụ cười tinh quái trên môi Tuyết:

– Em không biết anh có cao cờ hay không, nhưng em muốn đánh cuộc với anh thế này: anh đánh với em một vàn cờ, nếu em thua, anh bắt em làm gì em cũng xin vâng. Nhưng nếu em thắng, anh sẽ phải cam đoan giúp em một điều, một điều kể ra cũng khó, nhưng khó là khó với em, chứ đối với anh thì em biết là dễ ợt… Vậy anh có bằng lòng không?

Công vẫn tự phụ về nước cờ bay bướm, hiểm hóc của mình, nên chàng tin chắc dù có chấp Tuyết cả một xe, chàng vẫn thắng như thường. Chàng bèn tủm tỉm cười với Tuyết:

– Trước hết, em cho anh biết nếu anh thua, anh sẽ phải làm gì, để anh xem có thể làm được không?

Vì đã có kế hoạch trước, Tuyết trả lời không lưỡng lự:

– Anh chỉ cần giúp em một điều… Anh chắc biết bọn ông Văn, Hổ và Thịnh?

– Ông Văn thì anh biết! Hình như ông ta mới bị bắt phải không?

– Đúng. Ông Văn là thầy dạy học của em, ông bị bắt cùng Thịnh, Hổ, vì có người vu cho là tình nghi chính trị lăng nhăng… Vậy anh có thể can thiệp cách nào cho ba người đó ra không?

Công suy nghĩ, rồi trả lời:

– Kể ra thì cũng không phải là dễ. Tuy nhiên, anh cũng có thể làm được, miễn là em nhận điều khoản của anh.

Tuyết vội hỏi:

– Điều khoản thế nào?

Công cười bí mật:

– Điều khoản kể ra thì dễ, mà cũng rất khó, anh chỉ sợ em không khứng chịu!

Tuyết tỏ vẻ sốt ruột:

– Anh cứ nói đi!

Công vẫn cười:

– Anh nói ra sợ em giận! Em thừa đoán điều ao ước tha thiết nhất của anh lúc này chứ gì?

Tuyết hiểu ngay. Hình như nàng không ngạc nhiên và nàng thẳng thắn nhìn Công:

– Em biết rồi. Em xin hứa với anh là ngay tối hôm nay, nếu em thua, em sẽ thuộc về anh, cả thể xác lẫn tinh thần…

– Thực không?

Tuyết cương quyết:

– Em không nói đùa. Nhưng anh cũng cần suy nghĩ kỹ. Anh đừng tưởng rằng cờ em là hạng “bét” đâu.

Công chắc mẩm thế nào mình cũng thắng, chàng mở cờ trong bụng, bảo Tuyết:

– Chính em mới cần suy nghĩ. Chứ anh thì không có gì phải suy nghĩ cả.

Tuyết đưa ngay ngón trỏ, “móc xổ” luôn với ngón tay Công:

– Vậy “móc xổ” anh. Xin lấy danh dự….

– “Lấy danh dự”…

Tuyết đi lấy bàn, quân cờ ra bày… Tuyết sở dĩ dám thách đố Công là vì từ năm lên mười hai tuổi, nàng đã có ông bác – anh ruột của ông Phó, cha đẻ ra Tuyết – là một cụ đồ nho, một tay quán quân cờ ở Bắc Việt, dạy đánh và truyền cho nhiều ngón đặc biệt. Tuyết lại thông minh, ham mê cờ, nên ngay từ lúc mới mười bốn, mười lăm tuổi, nàng đã hạ nhiều tay danh cờ, và cả đến bác của Tuyết, nhiều khi cũng bị đồ đệ “vần” cho thất điên bát đảo, dở sống dở chết, có khi cụ đồ thua cháu, vác cả bàn cờ ra choảng cháu…

Tuyết tin ở tài mình, cố tình thách đố Công. Tuy nhiên, nàng cũng vẫn không dám chủ quan khinh địch và nàng tự nhủ: “Biết đâu hắn chẳng cao cờ hơn mình, nếu mình thua thì âu cũng là số kiếp muốn cho ta phải hiến thân cho hắn, số kiếp muốn cho thầy Văn vẫn phải ngồi tù”.

Bày bàn cờ xong, Tuyết mỉm cười:

– Nào! Xin mời anh đi trước.

– Tiên chủ hậu khách. Nhất là khi chủ lại thuộc phái đẹp.

– Dạ! Vậy em xin đi trước.

Vừa nhập cuộc, Tuyết đi vài nước ngớ ngẩn, cốt để Công coi thường Tuyết. Quả nhiên, Công bị lừa và chàng mỉm cười, nói với Tuyết:

– Anh nói em đừng giận. Có nhẽ anh vừa đánh vừa ngắm em, cũng vẫn thắng em!

– Em cũng lo như vậy.

Nhưng chỉ năm phút sau, Tuyết đã đổi cách đánh. Tuyết có lối tấn công vũ bão, sử dụng pháo đầu một cách “thần sầu quỷ khốc” và trong lúc xuất kỳ bất ý, Tuyết đã khởi sự đợt tấn công đầu tiên, “khử” của Công một con “mã”, khiến Công ngơ ngác, chợt tỉnh, thì vòng vây đã thắt chặt…

Tuyết biết tài đánh cờ của Công chưa có ngón gì là tuyệt kỹ, nên nàng rất bình tĩnh. Nàng rất có thể đánh tới tấp, kết thúc ván cờ ngay, nhưng nàng biết như vậy không khỏi làm cho Công bẽ mặt, cho nên nàng đành đổi chiến lược, cốt để Công lâu thua cho đỡ nhục. Nàng nhìn Công, cười tủm tỉm:

– Ai bảo anh chủ quan khinh địch, nên mất một mã với em. Anh đừng tưởng đàn bà nông nổi, không biết đánh cờ… Em được một ông bác dạy cho nhiếu ngón bí truyền, anh phải coi chừng kẻo nhỡ thua thì… đêm nay anh ráng mà… xây mộng một mình…

Mất cây mã – Công chỉ sở trường có lối “mã giằng”.

Công toát mồ hôi… Công cố gắng gỡ nước cờ bí thì nhìn lại chiến trường thấy tứ bề vướng mắc, chàng đã thất cơ lúc nào không biết. Hồi tưởng lại ván bài “phé” ở nhà Tháp, Công hiểu Tuyết là hạng “quái kiệt” thì đã quá chậm. Anh nhìn Tuyết cười gượng:

– Chiến thuật của em thật là độc đáo. Có nhẽ anh chịu thua em mất!

Tuyết vội dỗ khéo để Công đừng vội thất vọng:

– Anh mới kém em một cây mã. Đã ăn thua gì.

Công lắc đầu:

– Vẫn biết là chỉ kém một cây mã, nhưng quân của anh rời rạc quá. Em làm anh lạc hết cả đao pháp thì còn “đánh đấm” làm sao được!

Công cũng chống đỡ một cách tuyệt vọng, rồi sau khi mất luôn một pháo, một mã, chàng đành cố làm ra vẽ mã thượng chìa tay bắt tay Tuyết:

– Thôi anh đành chịu thua! Quả là em cao hơn anh một bực!

Tuyết bắt tay Công thiệt chặt, nở một nụ cười đắc thắng mà nàng cố làm ra vẻ khiêm nhường:

– Số kiếp đấy anh ạ! Số em chưa được gối đầu tay anh để nói chuyện đời… có phải không anh?

Tuyết nói vậy, nhưng chưa bao giờ nàng thấy tự bằng lòng mình vào lúc đó. Nàng không phải nhờ cậy Công, mang ơn Công mà vẫn bắt Công phải can thiệp để Văn, Thịnh… được trả tự do. Nàng lại không phải miễn cưỡng yêu Công mà vẫn làm cho Công phải say mê nàng. Nàng thấy cũng chả cần phải thổ lộ mối thù của mình cho Công biết – như hồi chiều nàng đã dự định – để nhờ Công giúp đỡ. Tuyết biết Công buồn, buồn vì thua cờ, và nhất là buồn vì không được “ôm cái hỏa diệm sơn mà ngủ” như chàng vẫn mong ước… Cho nên Tuyết càng tỏ vẻ trìu mến, an ủi Công như một người chị an ủi đứa em vừa lỡ tay để bay mất quả bóng xanh, đỏ của nó. Tuyết dịu dàng nói với Công:

– Em dọn gối, mền cho anh đi ngủ nhé. Gần hai giờ sáng rồi còn gì.

Công cố gượng pha trò:

– Đêm nay chắc sẽ là đêm dài vô tận đối với anh… Thôi anh đành thức trắng đêm nay để mai đi lo cái việc mà anh đã cam kết với em. Đúng như em nói, ở đời cái gì cũng có “số” phải không em?

Ngoan ngoãn như một người vợ hiền săn sóc chồng, Tuyết lăng xăng căng mùng, lấy gối, thu xếp chỗ ngủ cho Công, và khi Công lom khom chui vào cái mùng không lấy gì làm sạch sẽ, dành riêng cho khách, Tuyết siết tay Công, nói nựng bên tai:

– Em không được gối đầu tay anh đêm nay là tại anh đấy. Đáng nhẽ em bắt đền anh… Vậy anh gắng mà ngủ cho ngon nhé!

Rồi Tuyết đi vào buồng trong. Nàng muốn cười phá lên một tiếng thật lớn để diễn tả tất cả niềm khoái trá của mình… Nàng trèo lên giường bà cô, vui vẻ nói với bà cô sắp ngủ, như ngày xưa, Tuyết rúc đầu vào nách mẹ cho khỏi sợ ma:

– Cô chìa tay cho cháu gối đầu tay! Cháu thích quá.

Bà cô của Tuyết, không hiểu sao Tuyết lại trở lại con nít đến thế, nhưng vốn chiều và sợ cháu, bà cũng chìa cánh tay cho Tuyết gối.

Nàng ôm cô, ngủ một giấc ngon lành, không biết rằng Công đã loay hoay dậy đi tiểu tiện ba, bốn lần và đêm hôm đó đối với Công quả là một đêm dài vô tận…

Sáng hôm sau, khi Tuyết thức dậy, nàng đã thấy Công thong dong ngồi uống nước trà tàu trên sập.

– Anh ngủ ngon không?

Công cười xòa:

– Cũng chả lấy gì làm ngon! Anh đợi em dậy, để rủ em đi ăn phở, rồi anh về.

Tuyết vội vàng đánh răng, rửa mặt, trang điểm qua loa rồi đi cùng Công ra xe. Nàng hết sức chiều chuộng Công để Công quên cái thất bại chua cay đêm trước.

Nàng cũng không hề đả động, nhắc tới chuyện Văn, Thịnh, vì nàng biết Công sẽ thực hiện bằng được, lời cam kết “danh dự” với nàng. Ăn phở xong, Công nói với Tuyết trước khi chia tay:

– Em có thể báo tin cho bọn Văn, Hổ biết là chỉ trong một tuần lễ nữa, họ sẽ được trả tự dọ..

– Dạ! Cám ơn anh. Bao giờ anh lại xuống với em, để em đợi?

– Chiều mai, anh sẽ đến đón em…

Khám Chí Hòa, ngày… tháng…

Tuyết,

Những người bị giam thường có cái tâm trạng đặc biệt là đối với bản thân mình thì thản nhiên, bình thản, chỉ băn khoăn, lo buồn cho những người… ở bên ngoài. Có nhẽ vì thế, mà sau khi nghe Tuyết kể câu chuyện không may của Tuyết, thầy thấy thương Tuyết lắm…

Để Tuyết khỏi buồn, thầy sẽ kể một câu chuyện thực của chính bản thân thầy cho Tuyết nghe… Ở trong tù, người ta sợ nhất không biết dùng thời giờ làm gì cho nó trôi qua, cho nên thầy sẽ viết thật dài để Tuyết đọc cho “đã”. Và kể câu chuyện này, thầy có hai dụng ý: thứ nhất là để tự giải thoát khỏi một ám ảnh của quá khứ có nhẽ vẫn tiềm tàng chi phối cuộc đời mình, thứ hai là để Tuyết suy nghiệm ra rằng sống ở đời, chúng ta có vùng vẫy đến đâu cũng không thoát khỏi sự an bài tàn khốc của định mệnh và Tuyết đừng tự dày vò làm gì cho thêm khổ vào thân.

Những người tự kể chuyện đời mình thường vô tình hay cố ý, có khuynh hướng tự đề cao mình, gán cho mình những tình cảm, ý tưởng mà mình không có… Thầy sẽ cố gắng đẻ khỏi mắc cái tật đó. Thầy sẽ kể không thêm, không bớt, không thi vị hóa mà cũng không bi kịch hóa câu chuyện tự nó đã thê thảm rồi…

… Hồi đó – cách đây khoảng hai mươi năm – thầy đang học năm thứ ba trường Luật và đã đính hôn cùng một nữ sinh – em gái của một giáo sư, thầy dạy học cũ của thầy – nổi tiếng đẹp, thùy mị. Thầy chỉ đợi khi ra xong là cưới vợ, tiểu đăng khoa, rồi đại đăng khoa. Đối với một thanh niên của thời đại 1940, giấc mơ ái tình và sự nghiệp như thế kể đã là oai lắm!

… Một buổi chiều, thầy đang lang thang thả bộ trên con đường “Hàng Bông Thợ Nhuộm”, thì một người thầy tướng già, gầy ốm trong cái áo the thâm ngả màu sương nắng, tay cắp cuốn sách và cái ô, lẽo đẽo vừa đi theo thầy, vừa chăm chú nhìn:

– Cậu này thông minh, nhưng số vất vả lắm.

Nghe thầy tướng nói, tôi ngoảnh cổ lại, nói đùa:

– Đoán mơ hồ như vậy thì đoán làm gì? Nếu thầy nêu được điểm gì thật rõ rệt về quá khứ hoặc tương lai tôi, thì tôi sẽ biếu thầy một hào – (một hào thời đó bằng một trăm đồng lúc này).

Ông thầy tướng vẫn chăm chú, vừa đi, vừa nhìn tôi, trả lời:

– Cậu muốn biết về quá khứ hả? Trong gia đình cậu, có một, hai người đã mất vì một bệnh hiểm nghèo – chẳng hạn như bệnh lao – cậu có chịu lời tôi đoán không?

Tôi sững sờ nhìn lão thầy tướng vì quả thực cha tôi và anh tôi đều mất vì bệnh lao. Tôi phải cố làm vẻ không tin, nói với ông già:

– Kể cũng tạm cho là đúng đi! Thế còn hiện tại và tương lai, ông thử đoán một lời nữa xem nào!

Người thầy tướng cười:

– Xem ý cậu vẫn chưa chịu tin. Vậy tôi đoán về hiện tại và tương lai cho cậu nghe nhé! Cậu hiện đang tính chuyện tiểu đăng khoa rồi sẽ đại đăng khoa. Nhưng tôi nói cậu đừng giận, sẽ chẳng có tiểu đăng khoa lẫn đại đăng khoa gì ráo! Bây giờ nói thì cậu không tin, nhưng cậu cứ nghiệm lời tôi nói xem có đúng không!

Tôi lặng người, nhìn lão thầy tướng không biết nên tin hay không nên tin. Sự thực thì tôi vẫn rắp tâm sau kỳ thi ra thì cưới vợ: tôi chỉ còn cách kỳ thi có ba tháng, mẹ tôi cũng đã đưa sính lễ tới nhà thầy dạy học tôi, thế mà lão thầy tướng lại nói dựng đứng lên là tôi sẽ không thi, và cũng không cưới vợ, thì còn trời đất nào nữa! Nhưng tôi bắt đầu thấy sợ lão thầy tướng. Không hiểu sao tôi không muốn hỏi thêm, tôi giở “ví” lấy một hào, đưa cho lão, rồi đi thẳng. Tôi là người không tin ở khoa tướng số, nhưng lời nói của lão thầy tướng, gặp bên lề đường, không khỏi làm tôi suy nghĩ, hoang mang…

Ngay chiều hôm đó, tôi về gian “gác” tôi thuê chung với một người bạn, thì một thiếu nữ vận đại tang đang đợi tôi: Thiếu nữ là cô Hoài, người đồng tỉnh với tôi. Tôi không quen thiếu nữ, và trước kia, chỉ gặp nàng một, hai lần ở nhà một người bà con, nên tôi không khỏi lấy làm lạ tại sao nàng lại tìm đến tôi, mang theo một cái va-li thật lớn. Hỏi nàng để tang ai, thì Hoài khóc, kể cho tôi biết cha nàng mới chết được ba ngày, nàng ra mộ viếng một cha xong thì thu xếp quần áo, trốn ra Hà Nội, vì nàng không chịu nổi sự hành hạ của người dì ghẻ tàn ác.

Nàng cho tôi biết là nàng không dám đến những những người quen biết, nên nàng đành tìm đến tôi, vì nàng nghe tiếng tôi là “người có học và đứng đắn”, nàng yêu cầu tôi cho nàng ở nhờ ít bữa, đợi nàng kiếm được công ăn việc làm sẽ tìm chỗ ở khác. Tôi không ngờ nàng chính là hiện thân của Định Mệnh đến là đảo lộn cuộc đời tôi như thầy bói toán, nên tôi vui vẻ nhận lời, mặc dầu tôi biết sự có mặt của nàng trong gian gác “popote” của chúng tôi, sẽ gây cho tôi nhiều khó khăn, ngộ nhận, vì cô nữ sinh, vợ chưa cưới của tôi, thỉnh thoảng vẫn đến thăm tôi, cùng lũ em nghịch ngợm của nàng… Nhưng làm thế nào từ chối nổi một thiếu nữ bơ vơ, mang va-li đến tìm tôi, vì tin ở sự “có học và đứng đắn” của tôi. Tôi cũng cần nói thêm là khi tôi nhận lời để nàng ở tạm với chúng tôi, tôi không có manh tâm lợi dụng nàng. Không phải vì tôi cao thượng, quân tử… Sự thực, hồi đó tôi cũng đã lợi dụng một, hai thiếu nữ, thuộc những gia đình trưởng giả, giàu sang: những gia đình hợm tiền và những cô thiếu nữ hám danh này cũng chả yêu gì tôi, chẳng qua họ thấy tôi có mảnh bằng thì cũng định lợi dụng tôi, nên tôi cũng trả lại cho họ bằng “thứ tiền cùng loại”. Tôi lợi dụng họ mà không hối hận vì dù họ có bị bỏ rơi, họ vẫn kiếm được những người chồng bác sĩ, luật sư… danh giá hơn tôi. Trường hợp của Hoài thì khác hẳn: Tôi không thể táng tận lương tâm đến mực độ lợi dụng hoàn cảnh thương tâm của một thiếu nữ, tìm đến tôi vì tin ở nơi tôi…

Hơn nữa, khi nghe nàng tuyên bố vì biết tiếng tôi là “người có học và đứng đắn” thì “anh hùng tính” của tôi nổi dậy và tôi tự cho là một bổn phận phải giúp đỡ, an ủi nàng.

Thoạt đầu, tôi cũng không để ý đến sắc đẹp của Hoài vì hình ảnh người vợ chưa cưới choán hết tâm trí, khiến tôi không nhìn thấy ai, không cần phân biệt ai là xấu, là đẹp…

Nhưng hai ngày sau, người bạn cùng sống “popote” với tôi, vốn là một thi sĩ thời danh, nói với tôi:

– Anh có nhận thấy cô Hoài có đôi mắt đẹp lạ kỳ không. Tôi chắc hai nghìn năm về trước và hai nghìn năm về sau này, sẽ không thể nào tìm được đôi mắt kỳ ảo hơn! Và hình như cô ấy không phải là không có cảm tình với anh.

Nghe người bạn nói, tôi bắt đầu hơi lo ngại, và giật mình nhận thức thấy tất cả vẻ quyến rũ ghê gớm của đôi mắt nàng, cũng như của tâm hồn nàng, một tâm hồn rất nhiều đàn bà tính, đam mê, liều lĩnh, nhẹ dạ, phản trắc một cách hồn nhiên, vô tội.

Tôi vẫn hàng ngày lên nhà thầy dạy học, chỉ dẫn bài vở cho người vợ chưa cưới của tôi. Tôi vẫn tha thiết yêu nàng, nhưng tôi không khỏi so sánh với Hoài, và tuy nàng đẹp hơn Hoài – ngoại trừ đôi mắt là nàng thua Hoài – tôi vẫn thấy nàng không làm lòng tôi sôi nổi, rung động bằng khi tôi nhìn vào mắt Hoài, vì cái quyến rũ của Hoài là cái quyến rũ của tội lỗi, rùng rợn hơn sức lôi cuốn của đức hạnh.

Thế rồi việc phải đến đã đến. Một buổi sáng, tôi đang ngồi thân mật chuyện trò với nàng bên ly cà phê thì ông thầy dạy cũ, bố vợ tương lai của tôi, đột nhiên đến thăm tôi. Thấy tôi ngồi bên một thiếu nữ mặc áo cánh, thầy dạy học cũ tôi lạnh lùng rút lui và khi tôi tiễn ông ra cửa, ông nghiêm nghị nói với chúng tôi bằng tiếng Pháp:

– Tôi vẫn yêu anh như trước, nhưng thú thực là tôi thấy anh không đứng đắn. Nếu anh muốn là chồng con gái tôi, anh nên thanh toán những món vớ vẩn ấy đi… Ngày hôm sau, tôi tới thầy dạy, để thanh minh về thái độ của tôi, thì thầy dạy tôi đi vắng, người vợ chưa cưới của tôi không chịu tiếp tôi và cho người nhà đưa cho tôi một mảnh giấy có mấy dòng chữ như sau: “Ba tôi đã nói sự thật cho tôi biết. Tôi rất tiếc không còn có thể gặp anh. Từ nay xin anh đừng đến nhà tôi nữa”.

Tôi trở về, viết cho nàng một lá thư phân trần. Rồi lá thư thứ hai, thứ ba đều không được hồi âm. Một tuần lễ sau, tôi đặt tay lên trán Hoài, vuốt làn tóc mây của Hoài, báo tin cho nàng hay, tôi đã đoạn tuyệt với người vợ chưa cưới của tôi, thì nàng ôm lấy tôi, oà lên khóc.

Lúc đó, tuy tôi có tiếc thương cuộc tình duyên lỡ dở của tôi với cô nữ sinh, con thầy dạy học cũ, cái tiếc thương đó cũng không át nổi niềm hạnh phúc của kẻ được yêu một cách say sưa.

Nhưng chúng tôi bắt đầu yêu nhau thì phong ba bão táp kéo tới ầm ầm. Mẹ tôi được thầy dạy học tôi báo tin cho biết, vội từ nhà quê, ra Hà Nội, nổi cơn lôi đình, bắt tôi phải lìa nàng tức khắc, nếu không mẹ tôi không gửi tiền cho tôi ăn học nữa!

Bị gia đình cắt đứt “tiếp tế”, tôi xài cả tiền lệ phí thi luật học để nuôi Hoài. Do đó, kỳ hạn nộp lệ phí thi đã hết, mà tôi vẫn chưa xoay ra tiền, khiến tôi đành bỏ không thi. Thế là lời tiên tri của ông thầy tướng bắt đầu thực hiện: “chẳng có đại đăng khoa và tiểu đăng khoa gì ráo”!

Nhưng câu chuyện đến đây chỉ mới bắt đầu, bắt đầu bước sang giai đoạn thương tâm.

Không sống ở Hà Nội, chúng tôi mang nhau đi Hải Phòng. Tôi cần nói thêm là Hoài vẫn có một bà mẹ đẻ, bà này vì không chịu nổi sự lăng loàn, tàn bạo của người vợ bé, nên bà đã bỏ đi ba năm, sống lay lắt một thân một mình ở một ngôi chùa gần Hải Phòng. Vì quá đau khổ, bà đã trở nên ngớ ngẩn, không biết cách mưu sinh nào khác, ngoài cách nương nhờ cửa Phật, sống ở đó gần như gia nhân. Về Hải Phòng, tôi thuê một gian gác nhỏ và bảo Hoài đón mẹ về ở cùng.

Trước khi rời Hà Nội, tôi tìm người thầy tướng gặp trên đường “Hàng Bông Thợ Nhuộm” và hỏi ông ta xem cuộc tình duyên của tôi với Hoài liệu có vững bền không, thì người thầy tướng lắc đầu, trả lời:

– Cuộc tình duyên của cậu sẽ chấm dứt một cách kỳ lạ lắm!

– Kỳ lạ là thế nào?

– Kỳ lạ nghĩa là rất oái oăm! Nhưng thiên cơ bất khả lậu. Rồi cậu sẽ nghiệm dần dần.

Lời nói của người thầy tướng không ngớt ám ảnh tôi. Hơn nữa, chính chúng tôi hình như cũng linh cảm thấy cuộc tình duyên của mình không thể nào không tan vỡ. Cho nên chúng tôi yêu nhau một cách chua xót, não nùng. Nhưng có một điểm tôi cần nêu rõ là trong suốt thời gian chung sống với Hoài, tuy chúng tôi yêu nhau, sống bên cạnh nhau, nhưng chúng tôi vẫn chưa phải là “vợ chồng” trên phương diện xác thịt. Điều này nghe thật vô lý: một đôi trai gái yêu nhau, sống quấn quít bên nhau, mà lại không có sự chung sống về xác thịt thì chỉ có thể họ là thần thánh, siêu nhân, hoặc họ bất lực về sinh lý!

Nhưng sự thật là thế. Bởi vì chúng tôi đã bàn tính, giao hẹn với nhau kỹ càng. Chúng tôi nhận định hai trường hợp: Trường hợp thứ nhất là chúng tôi sẽ được chính thức lấy nhau và nếu chúng tôi chính thức lấy nhau thì chúng tôi tự hứa sẽ để dành cái giây phút ái ân, hạnh phúc vợ chồng tới ngày long trọng đó. Chúng tôi không muốn “yêu” nhau một cách luộm thuộm theo kiểu “tiền dâm hậu thú” để sau này, khi chúng tôi chính thức lấy nhau, đêm tân hôn, động phòng hoa chúc sẽ chỉ là một sự mỉa mai. Trường hợp thứ hai là trường hợp chúng tôi buộc phải xa nhau, và trong trường hợp này, tôi lại càng không có lý do gì để xâm phạm tiết trinh của Hoài. Nếu vạn nhất tôi phải xa lìa Hoài, thì ít nhất tôi cũng có niềm an ủi, kiêu hãnh là tôi không lợi dụng nàng, vân tôn trọng nàng, lương tâm tôi sẽ thanh thản, không cắn rứt tôi. Thực ra, chúng tôi cũng đã phấn đấu rất nhiều để chống lại những sự mềm yếu của lòng mình, hoặc những giây phút thôi thúc bởi lòng thèm khát yêu đương. Nhưng cũng may là bà mẹ Hoài luôn luôn ở bên cạnh Hoài!

Chúng tôi sống lẩn lút, điêu linh trong tình yêu, nước mắt và thiếu thốn: được hai tháng thì mẹ tôi tìm đến “tổ uyên ương” của chúng tôi. Nhìn gương mặt đau khổ của mẹ tôi, chúng tôi hiểu chỉ còn cách vĩnh biệt nhau. Hoài bàn với tôi là Hoài sẽ thu xếp đi thật xa, vào miền Trung hay miền Nam, vì nếu còn luẩn quẩn đất Bắc, chẳng chóng thì chầy, Hoài sẽ trở về với tôi, và chúng tôi sẽ không đủ can đảm dứt tình nếu còn ở gần nhau. Tôi nhận thấy lời Hoài không phải là vô lý. Giữa lúc đó, tôi nhận được một cái thư của một người quen, làm tham tá ở một tỉnh miền Nam.

Người thanh niên này trước kia đã “du học” ở Hà Nội nên vẫn nhớ Hà Nội, nhất là những thiếu nữ e lệ, vừa táo bạo, vừa sắc sảo, vừa nhu mì của đất “nghìn năm văn vật”; nên ở đoạn cuối thư, người đó nửa đùa nửa thực hỏi tôi có người em gái họ nào thì giới thiệu cho anh ta làm quen, và anh ta không ao ước gì hơn được làm em rể tôi, v.v. Tôi đưa thư cho Hoài đọc, và nói đùa:

– Hay là em lấy anh chàng này.

Đọc hết cái thư, Hoài có vẻ suy nghĩ, đăm chiêu.

Nàng hỏi tôi về mặt mũi, tính tình, gia đình người thanh niên, rồi bảo tôi:

– Anh trả lời ông ta đi. Thôi em lấy người này!

Tôi phì cười:

– Hắn viết chơi trong thư như vậy. Đã chắc gì hắn thành thực muốn lập gia đình và chắc gì hắn bằng lòng lấy em!

Hoài quả quyết:

– Em tin là nếu em bằng lòng thì thế nào hắn cũng bằng lòng. Anh cứ trả lời và gửi kèm theo một cái hình của em cho hắn coi. Em cần phải đoạn tuyệt với anh để anh đỡ khổ, và muốn đoạn tuyệt anh, chỉ còn cách lấy người này… Em cần đi xa thì mới quên anh được…

Hoài vốn là người đàn bà sôi nổi, liều lĩnh, nhẹ dạ, nghĩ điều gì thì làm ngay, chẳng khác chuyện nàng xách va-li tìm đến nhà tôi, giữa hôm “tam nhật” của cha nàng. Hoài luôn luôn thúc giục tôi trả lời ông tham tá, khiến tôi nghĩ tới lời ông thầy tướng đã tiên tri về cuộc tình duyên của tôi, tôi tặc lưỡi lấy giấy viết thư cho Thao – tên thanh niên. Cuối thư tôi viết: “Nếu anh định lập gia đình và muốn lấy vợ Bắc như anh viết, tôi có đứa em họ mà tôi gửi kèm ảnh theo đây cho anh coi và nếu anh muốn, tôi sẽ giới thiệu để anh làm quen với nó”.

Trong một lúc “bốc đồng” và chán chường, tôi đã làm theo lời Hoài, tôi không dè cái thư đó là khởi điểm của bao nhiêu bão táp, tan vỡ và đau khổ trong cuộc đời của ba người.

Cái thư gửi đi chưa được một tuần lễ, tôi đã nhận thư thứ hai của Thao, trong đó Thao hoan hỉ xin phép tôi được trao đổi thư từ tới với Hoài, bức thư có kèm theo một cái thư riêng gửi cho Hoài. Hoài đọc thư, cười tủm tỉm, và không cần hỏi ý kiến tôi, nàng viết thư trả lời Thao, rồi đưa cho tôi coi. Hoài là đứa sôi nổi, bất cứ làm công việc gì – dù là giả dối – cũng đặt trọn vẹn cả tâm hồn mình vào, nên dòng thư nàng viết cho Thao có đủ cái quyến rũ của một cô gái dậy thì vừa e lệ, vừa thiết tha, vì Hoài làm cái công việc lường gạt tình cảm đó một cách hồn nhiên, một cách hết lòng hết dạ, lòng không băn khoăn và lương tâm không cắn rứt gì ráo. Riêng tôi, thì cái cảnh nàng hí hoáy viết thư cho Thao làm cho tôi cực tủi, nhưng không hiểu sao, có nhẽ vì bị ám ảnh bởi lời ông thầy tướng, có nhẽ vì tôi đã quá mệt mỏi, nên tôi chỉ phản đối nàng lấy lệ, và tôi buông xuôi hai tay, mặc nàng muốn viết gì thì viết. Thế rồi, ngày nào Hoài cũng nhận được một cái thư, và ngày nào cũng trả lời. Đến cái thư thứ mười thì Thao đã gửi nàng “những cái hôn nồng nàn” và giọng thư của Hoài cũng không kém âu yếm. Và tiếp theo cái thư thứ mười là một bức điện tín báo tin Thao đã xin được phép nghỉ một tuần lễ và trong hai ngày nữa,Thao sẽ có mặt ở Hải Phòng.

Nhận được điện tín, tôi lặng người, chợt tỉnh và thấy cầm chấm dứt ngay cái trò nửa đùa nửa thật rất nguy hiểm này! Tôi bàn với Hoài phải kịp đánh điện tín cho Thao để Thao đừng ra. Nhưng hồi đó, chúng tôi ở trong hoàn cảnh hết sức túng thiếu, có ngày không có cả gạo nấu cơm và khi tôi thuyết phục được Hoài đi đánh điện tín thì rờ đến túi, chúng tôi không có một cắc nhỏ. Hoài phải mất cả buổi chiều mới xoay được mấy hào và khi có tiền, nàng lại thấy hàng bún ốc, nàng vừa thích ăn quà vặt, lại vừa đói, nên dềnh dàng mua bún ốc ăn, đến lúc ra Bưu Điện thì đã hết giờ, nàng không đủ tiền đánh điện tín theo giá gấp đôi, đành trở về. Sáng hôm sau, lúc nàng đánh điện tín thì Thao đã nghiễm nhiên ngồi trên chuyến xe lửa tốc hành, lòng hân hoan chờ đón cái giây phút thần tiên được nhìn thấy bằng xương và thịt người mình hằng ao ước!

Nếu Hoài không dềnh dàng ăn bún ốc để đến nỗi lỡ giờ đánh điện tín, thì chắc chắn Thao không ra Bắc. Nhưng có nhẽ Định Mệnh dun dủi nàng ăn bún ốc để Thao không nhận được điện tín. Cho nên khi Hoài và tôi đứng ở ga Hải Phòng đón Thao từ chuyến tàu Hà Nội – Hải Phòng bước xuống, tôi đã mang trong lòng cái tâm trạng chiến bại của kẻ bó tay chờ sự an bài của số kiếp.

Vừa gặp Hoài, Thao đã bị ngay tiếng sét của ái tình làm choáng váng, Hoài và Thao đưa nhau đi ra phố, đi xi-nê, quấn quýt bên nhau như đôi nhân tình từ kiếp trước, và có lúc tôi đã buồn bã, ghen tuông tự hỏi: “Không hiểu Hoài đóng kịch khéo hay là nàng yêu Thao thực”!

Ba ngày sau, Thao từ biệt chúng tôi trở về Nam, say mê, si ngốc như một chàng trai mười tám mặc dầu Thao là một gã nổi tiếng phong tình. Một tuần lễ chưa trôi qua, tôi đã nhận được thư của Thao báo tin cho tôi biết anh được cha mẹ đồng ý cho lấy Hoài làm vợ và sang tháng tới, toàn thể gia đình anh cùng bạn bè, cô bác, sẽ ra Bắc làm lễ hỏi và cưới Hoài cùng một lúc. Anh nói rõ là gia đình anh thuộc “danh gia vọng tộc” nên hôn lễ sẽ cử hành theo cổ tục tại nhà thờ họ của gia đình Hoài. Cuối thư, anh lại tiết lộ cho tôi biết là, để dễ bề thuyết phục cha mẹ anh chấp nhận cho anh lấy Hoài, anh đã phải nói dối cha mẹ anh rằng Hoài là em ruột của tôi, vì cha mẹ anh biết tôi, nếu Hoài là em ruột tôi, thì cha mẹ anh không phản đối. Trời! Tôi đã nói dối Thao rằng Hoài là em họ tôi, bây giờ Thao lại căn dặn tôi phải nói dối thêm một lần nữa và bắt tôi phải nhận người yêu của tôi làm… em ruột! Tôi đưa thư cho Hoài coi. Riêng tôi, tôi cảm thấy tiêu tan hết mọi nghị lực và mình chỉ còn biết nhắm mắt buông trôi. Tôi vấn kế một người bạn thân, anh Hiệp, vốn một người tháo vát, tận tâm và rất thực tế. Nghe tôi kể, người bạn giật mình. Cuội cùng, anh bảo tôi là dù sao cũng không thể lùi được nữa và cần phải bố trí chu đáo để công việc khỏi đến phút cuối cùng vỡ lở. Việc đầu tiên của chúng tôi là tìm đến ông bác ruột của Hoài, người trưởng “họ” cầm chìa khóa nhà từ đường của “họ” để thu xếp việc cử hành hôn lễ tại từ đường. Vừa thấy mặt tôi, ông bác của Hoài đinh ninh là tôi đến để xin phép chính thức lấy Hoài, nên ông tiếp đón niềm nở, nhưng sau khi nghe chúng tôi trình bày mọi uẩn khúc thì ông nổi dóa, chửi bới om sòm. Hiệp phải rất kiên nhẫn và tôi hết sức thành khẩn mới thuyết phục nổi ông và cuối cùng thấy tôi dơm dớm nước mắt, ông cũng mủi lòng khóc, nói với tôi:

– Câu chuyện của cậu thật vô lý, ngược đời. Cậu là người yêu của cháu tôi mà lại đòi đóng vai anh ruột để chủ hôn thì còn trời đất nào nữa! Nhưng lòng cậu thành và cậu chỉ vì cháu tôi mà phải khổ sở, chả nhẽ tôi lại câu nệ mà phá hoại cuộc đời cậu và cuộc đời cháu tôi!

Thế là tạm giải quyết một khó khăn. Khó khăn thứ hai là vấn đề tiền. Tôi bèn trở về quê, trình bày tất cả sự thực với mẹ tôi, mẹ tôi thấy “tống khứ” được nàng đi và thấy gương mặt tôi hốc hác thì cũng thương tôi, bèn đào nền nhà, lấy cái hũ giấu tiền của bà, cho tôi năm trăm tiền bạc trắng hoa xòe. Tôi dùng số tiền đó may áo nhung cho Hoài, sắm kiềng vàng cho nàng, còn lại bao nhiêu, tôi đưa nàng làm vốn riêng về nhà chồng.

Còn ba ngày nữa, tới ngày cưới, tôi vì lo nghĩ nhiều, chạy ngược chạy xuôi, nên bắt đầu nhuốm bệnh, sốt… Thấy tôi bị cảm, Hoài khóc ròng, nói với tôi là nếu tôi mắc bệnh thì họ nhà trai đến, nàng sẽ khước từ để họ trở về, vì nàng không thể bỏ tôi đau ốm mà đi về nhà chồng được. Nghe nàng nói, tôi sợ toát mồ hôi và đột nhiên khỏi bệnh vì tôi biết bản tính nàng cũng có thể liều lĩnh bảo họ nhà trai trở về… không có cô dâu như thường. Tôi phải van lạy nàng, là nếu nàng thương tôi thì nàng phải ngoan ngoãn nghe lời tôi!

Thế rồi họ nhà trai từ chuyến tàu tốc hành đổ xuống ga Hà Nội. Nhìn họ, tôi nhận thức tất cả sự nguy hiểm của tình thế và tội ác tày trời mà sự nhẹ dạ của Hoài và tôi đã gây nên, vì những người cổ kính, đạo mạo đó không phải là những người biết đùa.

Nhưng mọi việc đã trôi chảy nhờ sự khéo léo và tài tháo vát, che đậy của Hiệp. Phút đau khổ và thê thảm nhất đời tôi là lúc tôi quỳ trước bàn thờ nhà Hoài, để khấn vái, trước khi hai vợ chồng Hoài và Thao làm lễ… Một phần vì bệnh mới khỏi, một phần vì xúc động, tôi quỳ trước bàn thờ nhà Hoài, chung quanh có đông đủ hai họ nhà trai, nhà gái, mà lòng xót xa, mênh mông, không biết mình khấn cái gì, khấn cho số kiếp trớ trêu, cho cuộc đời đổ vỡ, hay cầu van cho tội lỗi của chúng tôi được tha thứ. Nhưng Hiệp tinh ý, biết rằng nếu tôi ngã gục trước bàn thờ, thì Hoài sẽ không e dè gì, òa lên khóc mà ôm lấy tôi, nên anh đã lanh lẹ đỡ tôi dậy và tuyên bố là tôi mới khỏi bệnh, không nên để tôi phải quỳ lâu trước bàn thờ…

Sau buổi lễ, hai họ đưa nhau về Hà Nội, để hôm sau, đáp chuyến xe lửa tốc hành đưa cô dâu về với chú rể. Ở Hà Nội, hai họ nhà trai và nhà gái đều thuê khách sạn, ở riêng hai nơi. Tôi vừa tới khách sạn thì lên cơn sốt kịch liệt, khiến Hoài cuống cuồng, khóc sướt mướt, bảo tôi rằng, nàng không đủ can đảm bỏ tôi trong lúc tôi đau, và nàng nhất định ở lại, rồi công việc có vỡ lở thì nàng cũng chẳng cần… Nghe nàng nói, tôi rên rỉ bảo nàng là tôi sở dĩ đau ốm cũng là vì quá lo nghĩ; nếu nàng lại nhẹ dạ, làm cho công việc đổ bể thì cả nàng và tôi sẽ phải ngồi… tù ráo, vì Thao là người khôn ngoan, sắc mắc, chứ không phải người hiền… Tôi dọa nàng như vậy, tưởng nàng sẽ sợ hãi mà đừng “bốc đồng” nữa. Ai ngờ, nghe tôi dọa Thao “sắc mắc”, Hoài đâm sợ và nàng tiết lộ cho tôi biết một bí mật khác: nàng thú thực với tôi rằng, trước khi gặp và yêu tôi, nàng đã bị một gã thanh niên khác lừa dối, phá mất trinh tiết… Như vậy nàng rất sợ khi về với Thao, tất nhiên Thao là người “sắc mắc” sẽ biết sự thực là nàng không còn trinh tiết nữa. Thao sẽ không tha thứ cho nàng về tội đó, sẽ tống khứ nàng về… Điều Hoài tiết lộ quả là một cái tin sét “đánh”! Trời! Thì ra dòng dã bao nhiêu tháng, tôi đã gìn vàng giữ ngọc cho nàng, tôi đã gắng dẹp tắc bao nhiêu thèm khát, thôi thúc của lòng ham muốn xác thịt, tưởng sẽ được hưởng chút an ủi và tự kiêu là khi chúng tôi vĩnh biệt, nàng về nhà chồng vẫn còn giữ nguyên vẹn trinh tiết của mình, thì bây giờ nàng báo tin cho tôi hay tiết trinh của nàng đã mất! Tôi thấy đau khổ mênh mang. Lạ nhất là nghe nàng kể lể, tôi không thấy oán giận, khinh ghét gì nàng. Tôi hỏi nàng tại sao không thú thực cho tôi biết trước kia, để khỏi phải bố trí, bày đặt công việc đi lừa người khác, gây bao nhiêu tai hại cho tất cả mọi người, vì đối với tôi, một người đàn bà còn tiết trinh hay đã mất tiết trinh không thành vấn đề, tôi chỉ cần người đàn bà yêu tôi. Nghe tôi nói, nàng lại càng khóc dữ dội, nói rằng nàng đã rắp tâm nhiều lần thú thực với tôi, nhưng thấy tôi yêu nàng, nàng không nỡ nói thực, vì sợ tôi khinh nàng, ghét bỏ nàng… Thì ra chỉ vì chúng tôi quá yêu nhau mà nàng không muốn nói sự thực cho tôi hiểu, nàng muốn tạo cho tôi ảo tưởng vĩnh viễn là nàng còn trong trắng, ngây thơ!

Chúng tôi ôm nhau khóc ròng, quyết định sẽ gặp Thao để nói cho Thao biết sự thực, vì tôi biết nếu Hoài không còn nguyên vẹn trinh tiết thì Thao sẽ không bao giờ tha thứ cho nàng. Chỉ có tôi là có thể tha thứ cho nàng. Chúng tôi đem ý định bàn với Hiệp, thì Hiệp cương quyết phản đối, kêu chúng tôi điên cuồng. Hiệp đưa ra những lý lẽ rất vững để kết luận rằng đã đến bước này, thì không thể nào lùi được nữa. Hiệp nói với tôi:

– Anh không nhớ lời thầy tướng tiên đoán về cuộc tình duyên này hay sao? Anh không nên cưỡng lại số mệnh! Vì có cưỡng cũng không được. Hơn nữa, nếu công việc lỡ dở thì không những tai tiếng cho hai họ, mà họ nhà trai còn có thể kiện chúng ta, đòi bồi thường là đàng khác. Không kể mẹ anh ở nhà sẽ đau khổ đến bực nào vì thấy anh và Hoài vẫn không đoạn tuyệt nhau…

Rồi Hiệp nói với Hoài, cốt để an ủi nàng:

– Cô đừng sợ, đừng hốt hoảng. Một người con gái thời nay có thể không yêu ai, không trao đổi xác thịt với ai mà vẫn mất tiết trinh; và người chồng không thể biết đích xác được vợ mình còn trinh hay mất đâu mà sợ.

Nghe Hiệp nói, Hoài vốn nhẹ dạ, vội hỏi: “Thực không anh?” Còn tôi vẫn hoang mang chưa quyết định ra sao thì Hiệp đã khôn ngoan, lấy bốn viên thuốc ngủ, hòa nước cho tôi uống, nói dối là thuốc giả cảm, khiến tôi ngủ say liên tiếp trong mười hai tiếng đồng hồ. Trong khi đó, Hiệp tìm đủ cách thuyết phục Hoài. Và chiều hôm sau, khi chuyến tàu tốc hành Hà Nội – Sài Gòn rít lên một hồi còi dài trước khi đưa vợ chồng Thao vào Nam, tôi vẫn nằm trên giường của khách sạn, óc trống rỗng và lòng hoang vắng…

Một tuần lễ sau, những người đi phù dâu trở về, tôi hỏi dò thì mọi việc hình như đều tốt đẹp, không có chuyện gì đáng tiếc xảy ra. Tôi mừng thầm tưởng thế là mồ yên mã đẹp cho cuộc tình duyên đau khổ của mình. Một tháng sau, tôi cũng vâng lời mẹ tôi, lập gia đình. Vợ tôi dĩ nhiên không phải cô nữ sinh, con gái thầy dạy học tôi, vì cô này, để trả thù tôi, đã đính hôn với một bác sĩ có địa vị và nhiều tiền hơn tôi. Tôi gửi giấy báo hỉ cho vợ chồng Thao để gián tiếp tỏ cho Hoài hiểu, thể là dứt khoát, mỗi người đi một con đường, đừng ai quấy rầyai nữa.

Nhưng Hoài có một tâm trạng rất ngược đời. Nàng cho tôi lấy vợ tức là phản bội nàng, vì trước kia, trong một lúc chán chường, tôi đã có lần nói với nàng, nếu nàng đi lấy chồng tôi sẽ sống độc thân suốt đời, không dính dáng tới đàn bà nữa. Lấy cớ là đi dự lễ cưới, Hoài xin phép chồng ra Bắc.

Thao không xin được phép nghỉ, để vợ đi một mình. Ngày nhị hỉ của vợ chồng tôi, Hoài lùng bắt gặp vợ chồng tôi tại Hàng Buồm, và nàng níu xe chúng tôi lại, khóc bù lu bù loa, kể cho vợ tôi biết là tôi phụ tình nàng, vì đã hứa với nàng là không lấy vợ, mà bây giờ lại lấy vợ! Vợ tôi là người đàn bà rất hay ghen, nhưng khi lấy tôi, vợ tôi mới có mười lăm tuổi, chưa hiểu và chưa biết cách ghen thế nào, và thấy Hoài ghen ngược như vậy, vợ tôi cũng hoảng, tưởng mình đuối lý, nên vợ tôi phải vỗ về, an ủi nàng.

Kết quả buổi gặp gỡ hôm đó là vợ tôi về nhà thăm mẹ đẻ, kể tự sự cho bà mẹ vợ, bà cô vợ tôi nghe, và được mọi người trong gia đình nhà vợ huấn luyện cho cách đánh ghen, cách “giữ” chồng, v.v. Vợ tôi bèn áp dụng bài học đánh ghen đầu tiên bằng cách uống một liều thuốc ngủ tự vẫn để khủng bố tôi, vì vợ tôi vẫn nghi là tôi lén lút gặp Hoài.

Sự thực thì Hoài tìm cách gặp tôi, nhưng tôi cố tránh. Không gặp tôi, Hoài khóc sưng húp cả mắt, rồi trở về Nam, và Thao bắt đầu thay đổi thái độ đối với Hoài. Bởi vì, Hoài và tôi nhẹ dạ, nông nổi bao nhiêu, thì Thao kín đáo, thâm trầm bấy nhiêu. Ngay tối tân hôn, Thao đã hiểu vợ mình không còn nguyên vẹn trinh tiết nữa, và người đầu tiên Thao nghi là tôi.

Thao để ý tìm hiểu, dò xét và khi Hoài xin phép ra Bắc dự đám cưới tôi, Thao tuy nghi ngờ, nhưng vẫn cho phép vợ đi, và gương mặt đau khổ của Hoài khi trở về, không lừa dối được Thao nữa. Nhưng Thao vốn sợ tai tiếng nên Thao im lìm, chịu đựng, không nói ra. Thao viết thư mời tôi vào thăm vợ chồng y và giọng thơ của Thao vẫn thân mật, khiến chính tôi cũng không nghi ngờ gì…

Đồng thời, tôi cũng nhận được thư của Hoài, nàng cho tôi biết là nàng đã có thai, nhưng nàng rất khổ sở vì Thao đâm chơi bời, cờ bạc, trai gái và Thao bị bệnh “tình” rồi mang bệnh về đổ cả cho vợ. Có một điềm khiến tôi yên tâm là theo lời Hoài thì Thao không nghi ngờ gì tôi cả.

Hoài có biết đâu Thao là người đàn ông thâm trầm, Thao tuy nghi ngờ nhưng chưa đủ bằng cớ cụ thể thì vẫn im lìm chờ đợi, bố trí cơ hội để bắt quả tang gian phu, dâm phụ….

Hai năm qua, Thao và Hoài đã có một đứa con trai. Tôi có chút việc phải vào Sài Gòn gần một tháng. Tôi biết nếu tôi tới Sài Gòn mà không tạt qua thăm vợ chồng Thao thì thật là vô lý và càng khiến cho Thao thêm nghi ngờ. Ngoài ra, tôi nghĩ rằng quá khứ chắc đã chết trong lòng Hoài rồi, vì Hoài đã có con với Thao và nếu tới gặp Hoài thì cũng không có gì là nguy hiểm.

Vào Sài Gòn, tôi thuê khách sạn ở, và ngày hôm sau, tôi tìm đến nhà Thao…

Thao niềm nở, lịch sự, không có vẻ gì nghi ngờ. Còn Hoài thì chỉ mới hai năm qua mà đã sồ sề, đã già và mệt mỏi, ngoại trừ đô mắt vẫn đẹp, tuy buồn và sâu thẳm hơn.

Thao trách tôi tại sao vào Sài Gòn mà lại không ở nhà anh, và khẩn khoản bảo tôi phải dọn tới ở cùng vợ chồng Thao cho vui.

Tôi phải tìm đủ mọi cách để khước từ. Nhưng có nhẽ Thao nghi ngờ sẵn, nên tưởng rằng tôi ở khách sạn là để hẹn hò với Hoài dễ dàng… Và quả nhiên, chiều hôm sau, Hoài một mình đến thăm tôi tại khách sạn. Thấy Hoài không đi cùng chồng, tôi giật mình khuyên Hoài trở về ngay, nhưng Hoài không nghe.

Sự thực thì Hoài tìm đến tôi không có mục đích gì ám muội, mà chỉ là để có dịp than thở với tôi về những nỗi khổ cực của mình trong hai năm qua, bị chồng tuy không chính thức ruồng bỏ, nhưng rẻ rúng, nhục nhã hơn kẻ bị chồng ruồng bỏ. Nghe Hoài kể lể nỗi thảm, tình thương, lòng tôi cũng tan nát, nhưng tôi vẫn làm vẻ điềm tĩnh, nói với Hoài:

– Cô nên về ngay đi. Chúng ta đã gây nhiều tội ác, nếu chúng ta có phải đau khổ thì vẫn có người đau khổ hơn chúng ta, đau khổ do chúng gây nên: người đó là Thao. Chúng ta chỉ đau khổ vì nhớ thương nhau, chứ cái đau khổ của Thao vì lòng tự ái bị thương tổn, vì bị lừa gạt, cái đau khổ ấy mới đối với ghê gớm đối với một người đàn ông. Tôi không nói tới bổn phận, vì bổn phận đối với tôi là một danh từ mơ hồ, nhưng chúng ta không có quyền gây đau khổ cho người khác…

Tôi cố làm ra vẻ nghiêm nghị, nói những lời quyết liệt, nhưng thực tình lòng tôi lúc đó có nhẽ còn tơi bời hơn cả Hoài. Thấy thái độ đạo đức không biết là giả hay thực của tôi, Hoài khóc bỏ ra về… Nàng ra tới đường thì bao nhiêu thương nhớ tích lũy trong tâm khảm toi, trào dâng lên, khiến trong một phút điên cuồng, tôi tưởng mình sẽ chạy đuổi theo Hoài, gọn nàng trở lại, ôm nàng trong lòng mà khóc… Thật hú vía! Vì hôm đó Thao đã bố trí, chỉ đợi chúng tôi ngã vào lòng nhau là, nhân viên công lực ập tới bắt “gian phu dâm phụ”. Không bắt được quả tang, nhưng thấy rõ là chúng tôi yêu nhau, Thao bèn mời tôi tối hôm sau đến ăn cơm ở nhà anh.

Tôi tới dự bữa cơm với vợ chồng Hoài, lòng không vương mắc một mặc cảm tội lỗi nào. Trái lại, tôi còn có cái tự hào của một nhà đạo đức chính cống! Thao uống thật nhiều rượu, dềnh dàng kéo dài bữa ăn tới mười giờ mới chấm dứt. Tôi sửa soạn định ra về thì Thao lạnh lùng bảo tôi ở lại, vì có nhiều điều cần nói với tôi. Nhìn gương mặt Thao, tôi hiểu ngay. Nhưng tôi không còn biết ngạc nhiên trước bất cứ chuyện gì xảy ra, nên tôi kiên nhẫn và thản nhiên chờ đợi, lòng không buồn, không sợ và chỉ có chịu đựng. Vào khoảng mười hai giờ đêm, hàng xóm láng giềng đều ngủ hết, Thao khóa trái cửa lại, để tôi ngồi ở nhà ngoài, vào phòng trong, bắt đầu tra khảo vợ. Trước khi tra khảo vợ, Thao nói cho vợ biết là chàng không muốn cho hàng xóm biết, vậy nếu chàng có đánh đập thì ráng mà chịu, đừng kêu ca làm gì, vì kêu ca thì nàng là người đầu tiên mang nhục và xấu hổ.

Rồi Thao hỏi Hoài đã yêu ai, đã mất trinh với ai. Hoài hiểu có nói dối cũng bằng thừa, nên nàng trả lời không úp mở là đã yêu tôi và mất trinh với người khác và trong suốt thời gian chúng tôi sống gần nhau, Hoài và tôi không hề có sự chung đụng về xác thịt. Hoài nói tất cả sự thực, không che nay, giấu giếm gì, nhưng Thao cười gằn thật dữ dội, không chịu tin và bắt đầu đánh đập Hoài.

Thao tát, đá, rồi lấy một thanh củi lớn đánh vun vút lên đầu, lên cổ, lên lưng nàng. Tôi ngồi ở ngoài, quằn quại đau đớn hơn Hoài vì mỗi lần Thao vun vút đánh xuống, thì tám hồn tôi, thể xác tôi đón nhận tất cả những ngọn đòn thù phũ phàng, hung hăng của Thao. Sau khi đã đánh đập Hoài gục bên giường, Thao quay ra nhà ngoài, tát tôi một tát, rồi khinh bỉ nói:

– Còn thằng khốn nạn này nữa! Thôi mời mi ra khỏi nhà này cho khỏi bẩn mắt.

Tôi nhận cái tát của Thao, không có phản ứng gì, có nhẽ tôi hèn nhát, sợ Thao giết chết, có nhẽ vì tôi thấy mình có tội đối với Thao hoặc có nhẽ vì tôi thấy tôi không có tội gì, vì tôi chưa hề bao giờ lợi dụng Hoài, chưa ngủ với Hoài, chỉ mưu hạnh phúc cho Hoài và bao nỗi đau khổ của Thao là do Định Mệnh tạo ra, chứ không phải tôi mang tới cho Thao…

Tuyết ơi! Từ đầu bức thư đến giờ, thầy đã cố quên cái “vị trí” thầy dạy học của mình, để có đủ can đảm kể tất cả, cả những điều xấu xa, nhục nhã như cái tát thầy nhận được, để giữ lời hứa là không tự đề cao mình, không thi vị hóa câu chuyện. Thầy muốn tạm ngừng câu chuyện ở cái đoạn tát tai ngày để gửi Tuyết một vài cảm nghĩ. Bởi vì cái tát tai này đã in hằn trong tâm hồn thầy.

Sau cái tát tai đó, thầy vẫn không hiểu mình là hạng người gì: xấu hay tốt, đáng ghê tởm hay đáng thương; có tội hay không có tội: cao thượng, tử tế hay giảo quyệt, đê hèn. Có lúc thầy tự cho mình là cao thượng vì đã không lợi dụng Hoài, không ngủ với Hoài, và luôn luôn lo cho hạnh phúc của Hoài. Có lúc thầy ghê tởm cả bản thân mình, và thấy mình lừa lọc, đê hèn, xấu xa, nhơ nhuốc…

Thực ra, Tuyết cũng như thầy, cũng như Marilyn Monroe trong cuộc đời nàng, chúng ta đều là những kẻ không thích nghi được với hoàn cảnh, với xã hội, với cuộc đời.

… Và từ buổi đón nhận cái tát tai đó, thầy tìm ra một chủ thuyết: chủ thuyết của lòng thương xót. Ở đời chỉ có hai hạng người: hạng đáng thương và hạng không đáng thương. Hạng đáng thương có tất cả các quyền, cả quyền ăn trộm, ăn cướp, lường gạt và… làm cách mạng. Kể ra với cái chủ thuyết phiêu lưu, chủ quan này, người ta sẽ đi đến bước tự diệt hoặc vào nhà tù như thầy đang ở tù hiện nay, nhưng biết làm thế nào, hở Tuyết!

Có nhẽ vì cái chủ thuyết đó mà thầy luôn luôn cảm thấy mình gần gũi, cảm thông với những người đáng thương, những kẻ chiến bại hơn là những kẻ vênh váo, phè phỡn, đắc thắng trên trường đời. Nếu ý nghĩa sự sống không phải là “chiến thắng trong thất bại” như lời Hemingway thì ít nhất những kẻ thất bại cũng có cái chất nhân bản, cái chất “người” khiến ta đau xót. Cũng như câu chuyện mà thầy kể với Tuyết, dĩ nhiên là kết thúc bằng cái chết của Hoài sau nhiều năm lay lắt, tủi nhục. Người đàn bà nhẹ dạ và nông nổi như Hoài mà còn không chịu đựng được những dằn vặt của cuộc sống thì đời người cũng chua chát biết bao! Và mỗi lần hồi tưởng lại cuộc tình duyên của thầy và Hoài, thầy không khỏi nghĩ đến câu nói của Bernard Shaw: “Il y a deux tradegies dans la vie: la première c’est de n’avoir pas ce que son coeur desire; la seconde est de l’obtenier (Có hai thảm kịch trong đời sống: thảm kịch thứ nhất là không đạt được điều mà lòng mình ao ước; thảm kịch thứ hai là đạt được điều ao ước của lòng mình). Thật thế! Đối với thầy, thảm kịch là ở chỗ không lấy được Hoài, nhưng nếu có lấy Hoài thì thảm kịch vẫn nguyên vẹn và biết đâu chẳng đau đớn hơn!

Bởi vì, thảm kịch không phải ở chỗ lấy được hay không lấy được người yêu, thảm kịch chính là ở chỗ mình đã vướng mắc tình lụy. Yêu đương tự nó đã là một thảm kịch và muốn tránh được thảm kịch thì chỉ có cách đừng yêu, diệt dục như Thích Ca Mâu Ni đã dạy…

Thầy không phải là người tin ở Định Mệnh, luôn luôn thầy phấn đấu, phấn đấu để cưỡng lại sự an bài của Định Mệnh. Nhưng trong những phút tin tưởng nhất, thầy vẫn không sao không nghĩ tới tô bún ốc, đã đưa Hoài tới cái chết lần mòn và những giây phút đó, thầy lại muốn “tung hê” tất cả mọi chương trình, dự định cho “rồi”…

Thầy,

VĂN

Nguồn: vietmessenger.com

Comments are closed.