Văn học miền Nam 54-75 (659): Xuân Vũ (kỳ 3)

XƯƠNG TRẮNG TRƯỜNG SƠN

 

2-

Bên kia, toán khiêng anh lính gãy chân đã bắt đầu khởi hành. Bệnh nhân nằm ngửa trên võng, cái ngực gần sát với cây đòn, vì chiếc võng mắc thật thẳng để tránh cho anh ta khỏi bị ngâm xuống nước càng ít càng tốt. Anh ta nằm, nhưng có lẽ không an tâm, cho nên anh ta đưa hai tay lên bám chiếc đòn đề phòng những người khiêng loạng choạng đong đưa.

Nhưng vừa bước xuống suối là những người khiêng đã ngấm đến cổ rồi, thành thử ra cả người anh bệnh binh cũng bị ngâm dưới nước. Anh ta cố ngóc lên để thở. Chẳng còn cách nào khác để cho anh ta thoải mái hơn.

Anh Khẩu đội trưởng lui cui cùng với những anh đội viên của anh ta tổ chức khiêng cái nòng pháo. Trông vừa chua chát vừa muốn bật cười.

Tổ chức chiến đấu gì kỳ cục vậy chứ? Người ta cứ ném tất cả vô đây và ở ngoài kia cứ tổ chức ăn mừng, hoan hô sự sáng suốt của đảng và cứ cười tít mắt lên mà tưởng như chiến thắng hiển hách đã ngửi thấy đến nơi rồi.

Họ có biết đâu những đơn vị nguyên lành của họ khi vô đến hang hùm nọc rắn này rồi, trở thành tàn quân trở thành thổ phỉ hung hãn chuyên đi cướp giật của đồng đội, thậm chí lột cả đồ đạc những người ốm mê man để làm hành trang sống lẩn lút trong rừng. Và cuối cùng để quay về quê cũ, họ có biết đâu những cậu thanh niên hăng tiết vịt cắt tay lấy máu viết huyết tâm thư dâng lên đảng đòi vào Nam chiến đấu giờ đây lại là những người chửi đảng to tiếng và độc ác hơn ai hết.

Còn lũ tôi đây thì không đánh ai, vì những người tôi muốn đánh thì không có ở quanh đây, nhưng tinh thần thì xuống thấp hơn ngọn cỏ.

– Ầm ầm ầm!

Những người khiêng anh bệnh binh trợt chân ngã hằng loạt. Cả anh bệnh binh và những người khiêng bị nước cuốn đi. Trên mặt nước chỉ còn trông thấy những cái đầu nhấp nhô và những cánh tay quơ lên tìm cái gì để bám.

Những người mạnh thì bơi vào bờ, còn anh bệnh binh bị nước đập tấp vào một cái nhánh của cây cổ thụ đã quay sang như chiếc cầu từ chiều hôm qua. Những người kia bò lên bờ lóp ngóp, kẻ ngồi người đứng, vuốt mặt lia lịa mà nhìn dòng suối. Kẻ mất ba lô người sút dép, mất nón, tuột áo, mất quần.

Họ không buồn tìm cách vớt anh bạn kia lên nữa. Nhưng cũng may, anh thương binh cứ nắm chắc nhánh cây và nhô hẳn đầu lên mà gào. Tiếng gào của anh ta vang dội vào vách đá, làm như ở đằng kia cũng có một người bị nạn và đang gào kêu cứu như anh!

– Bớ là… là… ông… nư… ức ơi!

Mồm anh ta hả to ra, bị nước vọt vào làm tiếng kêu của anh ta đứt quãng hoặc tắt ngấm đi.

Sự đau khổ đó làm động lòng bác sĩ Năm Cà Dom. Năm Cà Dom lại phóng xuống nước lần nữa, lôi anh thương binh lên bờ.

Sự bi thảm đã lên mức đó, tràn ngập cả trái tim tím bầm của tôi nhưng đây chưa phải là điểm cao nhất.

Từ dưới dòng, hai con người lần lần theo vách đá đi lên. Hai người này không dám lội ra xa bờ vì có lẽ họ sợ nước cuốn.

Bỗng tôi kêu lên:

– Ông Chín! Trời ơi ông Chín!

Tôi không trông thấy mặt mũi ông già nhưng tôi biết đó là ông Chín vì trên lưng trên đầu ông um tùm những nhánh cây. Cơ khổ ông già. Cứ hễ đi ra một bước là giắt lá cây đầy mình. Ông có ý thức che mắt địch nhưng ông lại không biết áp dụng địa hình cũng giống in như một kẻ bị lệ thuộc vào những công thức, những giáo điều mà họ chỉ biết nghe theo chớ không đời nào dám nghĩ khác đi đừng nói chi nghĩ ngược lại. Ông Chín đi qua rừng cây bị chất khai quang chết trụi không còn một cái lá xanh, ông vẫn giắt lá xanh, hay như bây giờ đây, lội giữa suối mà vẫn ngụy trang. Tên phi công nào đần độn nhất từ trên cao cũng nhận ra một mớ cây trôi lên, ngược dòng suối.

Ông Chín ngước mắt nhìn tôi. Mắt ông chỉ còn bằng hai hạt tiêu. Có lẽ ông nhận ra tôi, nên ông đưa tay vẫy vẫy. Tôi gặp ông Chín ở trạm ba, cách trạm làng Ho một trạm. Tôi qua mặt ông Chín rồi tôi sốt ông Chín lại vượt qua tôi. Chiều hôm qua chúng tôi lại gặp nhau trước khi vượt sông. Khi bắt đầu lao thân vào lòng suối thì tôi không còn thấy ông Chín đâu nữa.

Ông Chín đã lội tới chỗ tôi đứng. Tôi đưa tay lôi ông Chín lên và hỏi:

– Giao liên không giúp cho ông nữa à?

– Có biết nó đi đâu đâu!

– Thằng ác thật, nó bỏ ông già thế này.

Tôi nhìn ông Chín. Những nhánh lá vẫn còn dính trên người ông Chín như nhũng người bạn trung thành. Tôi đưa tay rút một nhánh vứt đi và bảo:

– Bỏ đi cụ ạ! Cho nó nhẹ! Lội dưới suối mà ngụy trang lá cây thế này cản nước lội mệt lắm.

Nhưng ông già giáo điều đã xua tay:

– Ấy chết! Đồng chí cứ giữ mãi cái lối khinh địch đó, không chịu bỏ. Tôi bảo cho đồng chí biết từ đây trở vô, lúc nào trên trời cũng có mắt của thằng địch nó dòm mình lom lom. Mình mà sơ hở một chút là bị nó ngay.

Tôi đã tranh luận về việc trốn máy bay với ông Chín không biết bao nhiêu lần. Ông Chín cũng bị thiên hạ phản đối không biết bao nhiêu lần, nhưng ông Chín vẫn chứng nào tật ấy nghĩa là khi ra đi thì y như một bụi cây rậm đang di động.

Tôi nhìn thấy da thịt ông Chín đã đóng rong, đầu ngón tay móp như trái táo khô, hai vành tai tím như tai người chết, còn mồm thì thở vừa ra hơi nước vừa chảy ra nước. Tôi biết ông Chín bết bát lắm rồi, nhưng tôi làm gì được trước một cụ già như thế?

Tôi bảo:

– Cụ ngồi xuống đi bồi dường sức khỏe một chút rồi đi.

– Thằng dắt đường đâu rồi?

– Nó vừa đi qua!

– Nó không chờ, thì biết đường nào mà đi?

– Cứ đi đại lại thôi, hễ còn thấy người bệnh treo võng dọc bờ suối thì đúng là đường đi.

-Thế hả?

Ở phía dưới dòng một người khác bạn đường của ông Chín lúc nãy đã đến ngay chỗ ông Chín đứng. Tay anh ta với lên nắm lấy ống chân của ông Chín làm cho ông giật mình, ông rút chân lên.

Anh bạn kia không còn chỗ bám, và rơi sụt xuống nước. Tôi nhanh tay chụp lấy tóc anh ta và kẻo xểnh anh ta lên bờ.

Trời ơi t Tôi đã vớt đúng một cái thây ma. Tôi đã tự dưng chuốc vào mình một cái tai họa…

Cái người tôi vừa kẻo lên là một cái xác không hồn. Hình như anh ta phải chết lúc này nhưng vì trông thấy chúng tôi ở đây như một cái đích rất gần, cho nên anh ta cố lần vách đá tới đây để mà trút hơi thở cuối cùng. Tôi gọi Năm Cà Dom:

-Về ngay đây!

– Gì nữa đó?

– Về ngay đây?

Năm Cà Dom vốn là một người tốt bụng, một bác sĩ còn có lương tâm, cho nên nghe tiếng kêu cứu của tôi thì nhảy ùm xuống nước bơi về ngay.

– Gì thế?

– Đây này, bác sĩ về mà giải quyết.

Năm Cà Dom nói ngay:

– Đánh gió, làm hô hấp nhân tạo ngay!

Rồi Năm móc túi ba lô lấy cù là, vạch lưng anh bệnh binh xoa, nắn bóp cạo lia lịa không hở tay. Rồi anh làm hô hấp nhân tạo. Chỉ trong vòng mười phút là anh ta cử động được ngay.

Năm nói:

– Anh này chưa có chết, nhưng vì ngâm mình dưới nước lâu nên bị vọp bẻ không đi được. Nếu anh không lôi nó lên nó bị nước cuốn tay chân cứng đờ không bơi được là uống nước chết đắm ngay.

Trên khoảng đất có mấy thước vuông của tôi như cái nền nhà bị nước ngập, có đủ các giới, các thành phần, các miền, đủ cả. Cái sự có mặt của anh bị vọp bẻ làm cho số người trở nên phong phú lên. Anh ta là lính.

Tôi mới nhận ra anh ta là cái anh chàng đi bằng hai cây gậy mà tôi và Thu gặp cách đây mấy trạm. Anh ta có chiếc khăn lông con treo ở quai nón dưới cắm lòng thòng như một bộ râu vĩ đại. Do đó, tôi và Thu gọi anh ta là ông già Noël.

Ông già Noël còn trẻ quá. Hôm nay tôi mới nhìn tận mặt ông ta. Ông ta chỉ là một học sinh. Không biết đau ốm thế nào mà đôi chân cứ đi cà lỉa, cho nên khác hơn mọi người, ông già Noël đi với hai chiếc gậy.

Bây giờ thì ông ta nằm đây trên tảng đá lạnh như nước đá, mà thịt ông ta cũng không ấm hơn nước đá, đang nhờ ông bác sĩ hảo tâm làm cho sống lại.

Tôi cũng không biết làm sao nữa. Tôi biết tôi không thể giúp ai, và chắc chắn không ai có thể giúp tôi. Mỗi một người tự xem cái bản thân mình là một cái nợ đối với mình.

Năm Cà Dom hảo:

-Thời đi thì đi.

– Ta đi đi…

Ông Chín cố mở đôi mắt hẹp khổ của ông ra mà nhìn chúng tôi ngạc nhiên về sự thúc giục của bác sĩ Năm Cà Dom. Có lẽ theo ông Chín thì người ta chỉ cớ thể đi tới đây thôi. Và nằm, và ngồi và ngủ tại đây để chờ Trung ương tới, đưa ra khỏi con suối ” tuyệt long lãnh” này, bằng tàu bay xe tăng, xe lội nước hay bằng phép Tiên phép Phật gì thì bằng, chứ còn như ông, một ông lão già năm mươi bốn tuổi, dù ai nói gì thì nói, ông không thể nào xem con đường này là con đường vinh quang cho được.

Bỗng ông Chín hắt hơi. Rồi ông Chín hắt hơi mấy cái nền. Ông Chín nhìn quanh quất rồi nói:

– Có mùi gì lạ vậy mấy chú?

– Mùi gì đâu ông Chín.

– Mấy chú không ngửi thấy à?

– Mùi thây ma chớ mùi gì nữa. – Năm Cà Dom vọt miệng đáp.- Ba cái thây ma kết súng thành tổ tam tam chế nằm chết thẳng cẳng trên võng bên kia gộp đá kia kìa.

Ông Chín ngạc nhiên, ông hỏi:

– Sao chết dữ vậy?

– Đói chết, bịnh chết chứ sao ông già!

Năm Cà Dom lại giục:

– Bởi vậy cho nên chúng mình phải rời khỏi khu vực này ngay. Chốc nữa nắng lèn, thây ma sẽ sình lên vỡ ra. Nước vàng nó chảy xuống suối mình ngâm mình dưới nước ghê lắm. Ngửi lấy cái không khí này vào người, bị dịch hạch dịch tả dịch… dịch đủ thứ dịch…

Năm Cà Dom nhìn chỗ nào cũng phát hiện ra bệnh, ớn quá. Nào gãy giò, nào nhiễm trùng, nào dịch hạch v.v… Bệnh nào cũng chẳng hiền cả.

Thật là buồn cười. Bây giờ kiểm điểm lại trên chặng đường này, chúng tôi cương quyết rời bỏ cái nền đá này là vì sợ bệnh dịch, chớ không phải vì nôn nóng đi vô giải phóng Miền Nam. Còn kiểm điểm lại động cơ thường trực của những người đi trên con đường này thì mỗi người một khác: tôi thì vì nhớ nhà quá mà xin về, Thu thì vì không biết gì nên xung phong đi, còn bác sĩ Năm Cà Dom về để làm cái nghề cũ là nuôi ngựa đua v.v… Thế nhưng những người lãnh đạo ngồi ngoài Hà Nội cứ rung đùi ngỡ rằng mình đã tận dụng, thậm chí lạm dụng, lợi dụng lòng yếu nước của mọi người để biến họ thành công cụ sống thực hiện những điều mong ước của họ một cách tốt đẹp, không ngờ rằng tất cả những người vượt Trường Sơn, không có trường hợp đặc biệt, đều oán trách, hận thù Trung ương Đảng.

Khi chiến tranh, có lẽ một trong những vấn đề phải đặt lên hàng đầu là phương tiện. Đối với một kẻ thù quá thừa thải phương tiện như Mỹ, thì có lẽ người lãnh đạo sáng suốt phải nghĩ tới việc đó trước khi xông vào đánh đá.

Tôi biết có những chiếc xe cút kít của hợp tác xã được cải tiến để chở phân bón lúa. Thế mà không biết do sáng kiến của ai, những chiếc xe ấy được đưa vào làng Ho để giúp cho pháo binh tải pháo!

Tôi không hiểu những nhà chiến thuật nào đã nghĩ ra cái sáng kiến vĩ đại đó.

Có phải chăng họ nghĩ rằng cái chiến trường mà bộ đội chánh quy của họ đang lao vào đánh nhau với Mỹ là một thứ hợp tác xã mà những xã viên bê trễ thối chí cũng dùng những chiếc xe cút kít này tải pháo trên những con đường bằng phẳng như ở làng quê?

Họ đã lạm dụng sức con người và lòng tin của con người đến mức độ xưa nay chưa từng có.

Họ bắt con người hy sinh quá mức.

Nếu có thể, tôi xin kết luận một câu: Nếu anh muốn làm chiến tranh, anh phải có đầy đủ phương tiện, nếu không, đừng làm!

3

Ông Chín cứ kêu mãi về cái mùi hôi thối của thây ma:

– Sao kỳ cục vậy he! Sao kỳ cục vậy he?

Năm Cà Dom cười và hỏi:

– Vậy từ lúc đi vô nay tới bây giờ ông Chín chưa gặp ai chết dọc đường hay sao!

– Chưa! Chưa gặp người nào chết hết cả!

– Chưa gặp người chết, hay chưa gặp người chết mà không ai chôn?

– Cái nào cũng không gặp hết.

Năm Cà Dom cười:

– Tại ông không thấy, chứ thiếu gì!

Ông Chín nói:

– Tôi nghĩ rằng trên đường này mọi tổ chức đều chu đáo hết. Tôi không tưởng tượng được rằng có một người chết ở đây mà không có người chôn.

– Ông muốn xem không? Năm Cà Dom hỏi dồn tới.

Ông Chín bị hỏi bất ngờ, hơi lúng túng:

Năm Cà Dom nói tiếp:

– Tại ông Chín già yếu rồi, đi đến trạm là nằm nghỉ chứ không có hay tìm tòi xoi mói cho nên không gặp những trường hợp như vậy. Chứ ông Chín có nghĩ rằng có một người treo cổ chết trên đường này không?

– Ối thôi thôi đừng có nói nữa. Đó là trường hợp đặc biệt mà!

Năm Cà Dom cười:

– Chứ chẳng lẽ lại phổ biến?

Ông Chín nói:

– Theo tôi thì cái sự đó nằm trong phạm trù ngẫu nhiên chớ không phải là tất nhiên.

Năm Cà Dom cười:

– Nghĩa là sao ông Chín?

– Nghĩa là ít khi xảy ra, mà có xảy ra là cũng vì một sự bất ngờ nào đó chứ không phải là tất yếu phải xảy ra như vậy. Đồng chí hiểu chưa?

Năm Cà Dom vẫn lắc đầu một cách trêu chọc:

– Chưa hiểu, ông Chín ạ.

Ông Chín hơi cáu như ông đang đứng trước lũ học trò lóc cóc của ông mà giải đáp một bài toán cộng. Ông nói:

– Chú đi vô Nam mà chú không có được võ trang lý luận Mác làm sao mà chiến đấu được. – Rồi ông Chín kiên nhẫn giải thích những trường hợp mà Năm Cà Dom vừa trình bày. – Trong duy vật biện chứng pháp có cả thảy là năm phạm trù và năm qui luật, đồng chí hiểu chưa?

Năm Cà Dom lại hỏi:

– Nhưng phạm trù là cái gì mới được chớ?

Ông Chín chẳng có ngờ cái thằng bác sĩ này lại hỏi câu đó. Ông lúng lúng:

– Phạm trù là phạm vi hoạt động, là cái vòng bao bọc sự việc xảy ra đồng chí hiểu chưa?

Năm Cà Dom nói:

– Vậy sao không gọi là phạm vi hoạt động, là cái vòng bao bọc việc xảy ra mà lại gọi là phạm trù chớ?

– Thì tại sách nó dạy là “phạm trù ” thì mình học là phạm trù chớ gọi là “phạm vi” làm sao được?

– Thế gọi là châu vi có được không? Như châu vi hình chữ nhự, hình tam giác vậy đó, được không?

– Đâu có được đây là triết học chớ không phải toán học, đồng chí lẫn lộn rồi.

Năm Cà Dom nói tiếp, vừa nói vừa đưa tay vẽ một cái vòng chung quanh:

– Thế thì tôi hiểu rồi. Phạm trù là cái vòng bao bọc sự việc xảy ra, ví dụ như cái nền ngập nước mà chúng ta đang đứng đây gồm có ông Chín, tôi, ông văn sĩ này, cô văn công và anh lính bị vọp bẻ đây là một phạm trù.

Ông Chín dậm chân:

– Không phả… ải!

– Vì nó cũng là cái vòng bao bọc sự việc xảy ra. Cái sự việc đang xảy ra là tất cả mọi người đang nằm ngồi đứng và nói chuyện với nhau.

– Chậc! Sao đồng chí lại tầm thường hóa lý luận như vậy được. Đây là duy vật biện chứng pháp chớ đâu có phải cái chuyện lơ mơ xoàng xĩnh, lề mề như đồng chí ví dụ.

Năm Cà Dom cười ngất:

– Thế thì tôi cũng chưa hiểu phạm trù là cái gì hết.

Ông Chín rướn cổ sát vào mặt ông bác sĩ Năm Cà Dom:

– Phạm trù là phạm trù. Voi là voi! Hiểu chưa?

– Chưa hiểu!

– Chưa hiểu thì thôi. Mặc kệ đồng chí, tôi không biết!

Tôi đã từng bị ông Chín giải về Triết học Mác như bốc đất cục bỏ trên giấy cho nên tôi thất kinh hồn vía rồi. Tôi đã bị ông Chín khui cái mớ Triết học loam ngoam của ông ta để cãi nhau với tôi về một cuộc trốn máy bay, bây giờ lại nghe ông Chín giở nó ra để giải thích về những cái chết vô lý, tôi không giận gì ông ta, mà tôi chỉ buồn cười. Một lão già gần đất xa trời và lấm cẩm như vậy mà lại đi về Nam để “chiến đấu. “

Tôi bảo:

– Có đi thì đi, đi cho khỏi chỗ này nhanh lên.

Rồi tôi làm tên quân cảm tử đi tiền phong, tôi lội xuống suối, đi trước mọi người để làm gương sáng, làm đầu tàu, làm nòng cốt cho cái đám nam phụ lão ấu đang ngại ngùng, đang đứng trên cái nền ngập nước

Năm Cà Dom bảo:

– Cô Thu đi đi.

Thu cắn răng lại, nhắm mắt lại mà đưa chân dò từng bước bước xuống nước. Cái thân hình ngọc ngà của Thu ngấm dần xuống nước.

Tôi không dám nhìn nữa.

Trên đường này tôi đã từng quay mặt đi trước nhiều thảm cảnh mà đây là một. Tôi không muốn trông thấy sự tương phản giữa cảnh trí và con người của Thu.

– Con người là vốn quý nhất.

Ai đã nói câu đó, ai đã in câu đó trên sách vở và đã cho nhồi vào đầu của hàng triệu người. Bây giờ ai đã đem cái vốn quý nhất đó ra mà dùng một cách trân trọng như thế này. Cô nữ diễn viên kia xuất hiện ở đây có phải chăng cũng là một trường hợp chứng minh điều đó?

Tôi nghe những lỗ chân lông của tôi hút nước vào trong cơ thể, cái cơ thể vốn sợ nước, vốn đã bã ra vì nước!

Tôi cố bước lên vài bước để lấy trớn, để quên đi cái sự giá lạnh nó đang ùn ùn vây phủ mình. Rồi tôi dừng lại để chờ Thu. Tôi đưa tay ra cho Thu nắm lấy. Tôi lôi Thu đi tới và ngoảnh lại nhìn. Ở hai bên bờ suối chưa có ai lội xuống hết. Anh Khẩu đội tưởng ngồi trên một hòn đá với mấy đội viên của anh ta, và cái nòng pháo vừa được lôi lên khỏi nước.

Nét sầu tiền kiếp, và sự man rợ của những thế kỷ man rợ đã in đậm nét trên gương mặt họ.

Năm Cà Dom đang đứng chống nạnh như một ông tướng.

Anh ta bảo:

– Đi trước đi? Tôi chấp hai ông bà đi nhanh lên, rồi tôi bắt kịp cho mà coi nghe!

Rồi Năm Cà Dom quay lại bảo ông Chín và ông già Noël:

– Ông và đồng chí này đi đi kẻo ở sau không còn ai hết. Rơi lại phát này là không còn ai vớt nữa đâu. Theo tôi thì giao liên trong chuyến tới nó không dùng con đường này nữa, nó chờ cho đến mùa nước cạn năm tới mới quay lại dùng con đường này.

Tôi nghe Năm Cà Dom giải thích mà ớn lòng.

Tôi và Thu dắt nhau đi tới. Tôi cố không nhìn khi đi qua chỗ anh binh sĩ gãy chân.

Nhưng tiếng kêu than của anh ta rền vang hai bên vách đá.

– Ối làng nước ơi! ôi cha mẹ ơi! Chắc con không trông thấy mặt cha mẹ rồi! Hồi ở nhà, cha mẹ bảo con trốn đi, đừng có đi Nam mà không thấy ngày về, bỏ cha bỏ mẹ, nhưng con không nghe, con định đi lập công dâng đảng. Ôi cha mẹ ơi, ối làng nước ơi, ối làng nước ôi cha mẹ ôi!

Vậy là anh ta cứ gọi bố mẹ, làng nước chứ không gọi cái gì thiêng liêng khác như ngày thường anh ta gọi.

Bất giác tôi quay nhìn anh ta. Thiệt là một hình hài làm cho tôi đau khổ suốt đời.

Anh binh sĩ không còn là người nữa, anh ta là một cái mớ giẻ rách, biết nói, một bộ xương, một con ngợm, một con quái vật, một cái gì, ai muốn đặt tên là gì cũng được trừ hai chữ “con người”.

Tôi nhắm mắt lại mà lội bươn qua, làm như cái cảnh tượng đó không có xảy ra trước mắt tôi, hoặc nó có trước mắt tôi mà không có dính ăn dính thua gì với tôi cả.

Đi ngang qua những người khiêng, tôi cố gượng hỏi:

– Sao các đồng chí không trở lại khiêng đồng chí kia?

– Đồng chí có giỏi thì khiêng. Một người trả lời.

– Đồng chí đó là đồng chí đồng đội của đồng chí mà?

– Tôi chằng đồng gì với ai cả.

Một người khác trong đám tiếp:

– Không có gạo đồng chí ạ. Ba lô trôi, ruột tượng cũng tuột hết rồi. Lấy gì mà khiêng. Khi cái chân không bước nổi?

Tôi cũng biết vậy, nhưng sự thương tâm làm cho tương tri của bật lên tiếng nói.

Tôi bảo:

– Cái đó thì tùy.

Tôi quay lại nhìn phía sau. Ông Chín và ông già Noël đang đi theo chiến thuật cũ, nghĩa là lần vách đá mà đi. Còn Năm Cà Dom thở phì phì như trâu nước. Năm Cà Dom đã đi đến ngang tôi. Năm Cà Dom hỏi:

– Ba-lô đâu, đưa tôi quẩy đùm cho.

– Thôi được!

Tôi yếu sức quá, nhưng tôi sợ rủi Năm Cà Dom làm tụt mất có mà chết. Tôi bảo Thu đưa ba lô cho Năm mang giúp. Có lẽ cùng một ý nghĩ như tôi cho nên Thu cũng xin cảm ơn Năm. Năm trườn đi tới, tôi thấy mà thèm, nhưng không tài nào tôi như Năm được. Tôi như cái cục cơm nếp mắc mưa bây giờ đem ngâm xuống nước.

Tôi nhìn Thu, Thu như không còn hồn phách. gì nữa.

Tôi gắng gượng bảo Thu:

– Cố gắng lên em. Tới phía trước có chỗ nghỉ!

Dọc đường tôi đi, không biết còn có bao nhiêu thảm cảnh như thế nữa. Mà chính tôi và Thu đây cùng với cây cỏ chung quanh cũng là một thảm cảnh rồi, cực hình rồi.

Bây giờ tôi cũng không cần phải tả thêm cái con suối ác nghiệt này một nét nào nữa.

Nguồn: http://viteuu.blogspot.com/2013/03/hoi-ky-xuong-trang-truong-son-cua-xuan.html

Comments are closed.