1984 (kỳ 3)

George Orwell

III.

Winston mơ thấy mẹ.

Theo như anh nhớ thì mẹ đã biến mất khi anh chừng mười hay mười một tuổi. Mẹ là một người cao, đẹp và trang nghiêm, ít nói, làm gì cũng chậm rãi, mái tóc sáng và dày. Anh không nhớ rõ bố lắm, chỉ nhớ ông có mái tóc đen, người gầy, luôn mặc bộ complet sang trọng màu đen (không hiểu sao anh nhớ rất rõ đế giày bố rất mỏng), đeo kính. Cả hai chắc đã bị làn sóng thanh trừng đầu tiên hồi những năm 50 nuốt chửng.

Trong mơ mẹ ngồi bên dưới, sâu lắm, tay đang bế cô em gái. Anh hoàn toàn không nhớ gì về cô em cả, ngoại trừ hình ảnh đấy là một đứa nhỏ ốm yếu, đôi mắt to, lặng lẽ quan sát, không bao giờ khóc. Cả hai đang nhìn vào anh. Họ ngồi ở dưới lòng đất – trong lòng một cái giếng, mà cũng có thể dưới mồ sâu – và đang hạ xuống ngày một sâu hơn. Họ ngồi trong buồng một con tàu đang chìm và nhìn lên Winston qua làn nước màu đen. Trong buồng vẫn còn không khí, họ còn nhìn thấy anh và anh thấy họ, nhưng họ đang chìm dần vào làn nước xanh và chỉ chút nữa là sẽ biến mất hoàn toàn. Anh ở ngoài không khí, ngoài ánh sáng, còn họ thì đang bị hút vào chỗ chết, họ bị hút xuống vì anh đang ở trên này. Anh biết thế, họ cũng biết thế, nhìn mặt họ là thấy. Trên nét mặt hay trong tim họ không hề có lời oán trách nào, chỉ có nhận thức rằng họ phải chết để anh được sống vì qui luật là như thế.

Winston không nhớ chuyện đó xảy ra như thế nào, nhưng trong mơ anh biết rằng mẹ và em đã hi sinh vì anh. Đấy là một trong những giấc mơ có thể nhớ được những cảnh huống chính và là sự tiếp nối những suy nghĩ lúc ban ngày, những sự kiện và ý tưởng ta thấy trong đó càng trở nên mới mẻ và có ý nghĩa hơn sau khi đã tỉnh.

Winston bỗng nhận ra rằng cái chết của mẹ gần ba mươi năm trước là một bi kịch và sự đau khổ mà người thời nay không thể nào hiểu được nữa. Bi kịch, như anh thấy, là tài sản của thời xa xưa, thời còn sự riêng tư, thời còn tình yêu, tình bạn, thời mà các thành viên trong một gia đình còn bảo vệ nhau mà không cần lí lẽ. Hình ảnh mẹ vò xé trái tim anh vì bà yêu anh mà anh thì quá nhỏ và ích kỉ, chưa biết đáp lại tình yêu ấy, và cũng vì, anh không biết tại sao, bà đã hi sinh thân mình cho quan điểm trung thành không lay chuyển, của riêng bà. Hiện tại, theo anh, những thứ tình cảm như thế không còn nữa. Hiện tại chỉ còn nỗi sợ hãi, lòng thù hận và khổ đau, nhưng không còn tình cảm cao thượng, không còn nỗi buồn sâu sắc hay phức tạp nữa. Dường như anh đã đọc được tất cả những điều đó trong ánh mắt mẹ và em, những ánh mắt đang nhìn anh qua làn nước trong xanh, từ độ sâu hàng trăm mét, lại đang chìm dần.

Bất ngờ anh thấy mình đang đứng trên một thảm cỏ cắt ngắn, trong một buổi chiều mùa hè, ánh mặt trời chiếu xiên khoai. Anh thường mơ thấy chỗ này nên không thể biết chắc đã thật sự nhìn thấy nó bao giờ hay chưa. Khi thức anh gọi chỗ đó là Đất Đỏ. Đấy là một bãi cỏ cằn cỗi, bị thỏ gặm nham nhở, có một con đường mòn nhỏ chạy vắt ngang, hang chuột đùn lên khắp nơi. Phía cuối bãi cỏ là hàng du đung đưa, tán lá dầy phấp phới như tóc đàn bà bay trước gió. Ở đâu đó rất gần, tuy không trông thấy, là tiếng nước róc rách, nơi những con cá nhỏ đang bơi dưới bóng liễu thướt tha.

Cô gái tóc đen đang đi ngang qua cánh đồng. Có vẻ như chỉ bằng một động tác cô ta đã giật hết quần áo ra khỏi người và ném xuống đất một cách khinh bỉ. Da cô ta trắng và nhẵn, nhưng không khêu gợi được bất kì ham muốn nhục dục nào, thậm chí anh không nhìn cô ta nữa. Cái làm anh thán phục chính là động tác vất bỏ quần áo của cô ta. Hành động đầy duyên dáng và bất cần đời đó có vẻ như đã giết chết toàn bộ nền văn hoá này, toàn bộ hệ tư tưởng này, cứ như thể Anh Cả, Đảng và Cảnh Sát Tư Tưởng, tất cả đều có thể bị quét sạch bằng một cú vung tay điệu nghệ. Đấy là cử chỉ của thời quá khứ xa xôi. Winston thức giấc, môi vẫn mấp máy từ “Shakespeare”.

Màn vô tuyến phát một tiếng huýt gió chói tai, kéo dài đúng ba mươi giây. Đấy là tiếng còi báo thức vào lúc 7 giờ 15 phút, giành cho viên chức nhà nước. Winston chui ra khỏi giường, trên người không mảnh vải vì thành viên Đảng Ngoại Vi chỉ được phát tem phiếu giá ba ngàn để mua quần áo, trong khi giá một bộ pijama đã là sáu trăm rồi, anh rút vội chiếc áo trấn thủ và cái quần đùi treo trên lưng ghế. Ba phút nữa sẽ đến giờ thể dục buổi sáng. Ngay lập tức anh phải gập đôi người lại vì ho, sau khi thức dậy bao giờ anh cũng bị ho như thế. Cơn ho làm anh mệt đến nỗi anh phải nằm ngửa ra và thở sâu mấy lần mới hồi phục được. Các mạch máu căng lên vì ho, còn vết loét do giãn tĩnh mạch thì bắt đầu ngứa.

“Nhóm từ ba mươi đến bốn mươi!”, một giọng đàn bà the thé cất lên. “Nhóm từ ba mươi đến bốn mươi! Đứng vào chỗ! Ba mươi đến bốn mươi!”

Winston đứng nghiêm trước màn vô tuyến: một người phụ nữ còn khá trẻ, gày nhưng rắn chắc, váy ngắn, giày thể thao đã hiện rõ trên màn hình.

“Cong hai tay lại và đưa ra!”, cô ta hô. “Chúng ta cùng đếm nào. Một, hai, ba, bốn! Một, hai, ba, bốn! Tiếp tục, các đồng chí, mạnh mẽ lên! Một, hai, ba, bốn! Một, hai, ba, bốn!”

Cơn đau do trận ho vừa rồi gây ra chưa xoá hết ấn tượng của giấc mơ, nhịp điệu thể dục dường như lại làm nó hồi sinh. Vừa đưa tay ra đưa tay vô một cách tự động với bộ mặt thoả mãn cau có, theo đúng yêu cầu của một buổi tập, Winston vừa cố gắng quay lại với kí ức mù mờ của ngày thơ ấu. Khó quá. Anh đã quên hết những chuyện xảy ra hồi những năm năm mươi rồi. Khi không còn một bằng chứng bên ngoài nào để ta có thể dựa vào thì ngay những nét chính của cuộc đời mình cũng thành ra mờ nhạt hết. Ta có thể nhớ được các sự kiện lớn, nhưng có thể sự kiện đó chưa từng xảy ra, ta có thể nhớ rõ chi tiết một biến cố, nhưng không thể cảm nhận được không khí của nó; và có những khoảng trống dài, không được đánh dấu bằng bất kì sự kiện nào. Lúc đó mọi thứ đều khác bây giờ. Ngay tên các nước cũng như đường biên giới trên bản đồ cũng khác bây giờ. Thí dụ, Đường Bay I lúc đó gọi là England hay Britain, nhưng London – Winston nhớ rõ – thì vẫn gọi là London.

Winston không nhớ rõ những giai đoạn ngừng chiến, nhưng chắc chắn là khi còn nhỏ anh đã được sống trong một thời hòa bình khá dài, bằng chứng là vụ oanh kích đầu tiên đã làm mọi người rất ngạc nhiên. Có thể đấy là lần Colchester bị bỏ bom nguyên tử. Anh không nhớ rõ vụ oanh kích, chỉ nhớ là cha nắm chặt tay anh khi họ chạy xuống, xuống, xuống mãi dưới lòng đất, hết vòng nọ đến vòng kia theo một cái thang hình xoắn ốc, rung rinh dưới chân, cuối cùng mỏi quá, anh thút thít khóc và hai bố con phải ngồi xuống nghỉ. Mẹ, vẫn như mọi khi, mơ mộng và chậm rãi, đi sau khá xa hai bố con. Mẹ bế cô em gái, mà cũng có thể mẹ chỉ ôm đống chăn thôi: Winston không nhớ lúc đó đã có em hay chưa. Cuối cùng họ đến một chỗ đông người, ồn ào – anh nghĩ là ga tầu điện ngầm.

Một số người ngồi trên nền lát đá, số khác chen chúc trên những cái giường sắt xếp thành tầng. Winston ngồi cùng với bố mẹ trên nền, cạnh đấy là hai ông bà già ngồi sát nhau trên một cái giường sắt. Ông cụ mặc bộ complet đen trang nhã, cái mũ cũng màu đen lệch hẳn ra phía sau, tóc bạc trắng, khuôn mặt ửng hồng, đôi mắt màu xanh đầy nước. Người ông sặc mùi rượu Gin. Có vẻ như cơ thể ông đang bốc ra mùi rượu chứ không phải mùi mồ hôi, người ta có thể nghĩ rằng những giọt nước mắt kia cũng là những giọt Gin chính hiệu nữa. Ông già say, nhưng toàn bộ con người ông toát ra một nỗi buồn chân thành và quá sức chịu đựng. Bằng trí óc non nớt của mình, anh đã đoán được là đã xảy ra một sự kiện khủng khiếp, không thể tha thứ, không thể sửa chữa được. Anh còn biết sự kiện đó nữa. Một người thân của ông già, có thể là một cô cháu gái, đã bị giết. Ông cứ nhắc đi nhắc lại:

“Không được tin bọn chúng. Tôi đã nói thế, đúng không bà? Tin chúng thì được thế đấy. Tôi vẫn nói vậy mà. Không được tin bọn khốn kiếp đó.”

Nhưng bọn khốn kiếp không nên tin là ai thì Winston không nhớ.

Chiến sự diễn ra liên tiếp từ đó, nhưng nói cho ngay, đấy không phải là một cuộc chiến kéo dài liên tục từ bấy đến nay. Những cuộc hỗn chiến ngay trên đường phố London kéo dài mấy tháng liền, đấy là khi anh còn nhỏ, có những cảnh anh còn nhớ rất rõ. Nhưng theo dõi tiến trình lịch sử những năm đó, xác định xem ai đánh nhau với ai và vào lúc nào thì hoàn toàn không thể được vì không thể tìm được một tài liệu nào, một lời nói nào về sự phân bố lực lượng khác với phân bố hiện nay. Thí dụ hiện nay, năm 1984 (nếu đúng là năm 1984), Oceania đang giao tranh với Eurasia và liên minh với Eastasia. Không ai bày tỏ một cách công khai hay kín đáo rằng trước đây ba nước này đã từng có quan hệ với nhau khác hẳn bây giờ. Nhưng Winston biết rõ rằng Oceania mới đánh nhau với Eurasia và liên minh với Eastasia được bốn năm. Anh có được một chút kiến thức vụng trộm đó là vì người ta chưa quản lí được hoàn toàn trí não của anh đấy thôi. Chính thức thì bạn và thù chưa bao giờ thay đổi. Oceania đang giao tranh với Eurasia có nghĩa là Oceania luôn luôn giao tranh với Eurasia. Kẻ thù hiện nay là hiện thân của quỉ sứ, chưa từng có chuyện thỏa hiệp với chúng trong quá khứ, càng không thể có chuyện thoả hiệp trong tương lai.

Kinh khủng nhất, anh nghĩ trong khi vặn người (tay chống nạnh, người vặn sang một bên – như thế rất tốt cho cơ lưng), ý nghĩ này đã lặp lại không biết đến lần thứ mấy ngàn, mấy vạn rồi, kinh khủng nhất chính là điều đó có thể là sự thật. Nếu Đảng có thể thò tay vào quá khứ và bảo rằng sự kiện này hay sự kiện kia chưa hề xảy ra, thì điều đó còn khủng khiếp hơn cả tra tấn, hơn cả cái chết.

Đảng nói rằng Oceania chưa bao giờ liên minh với Eurasia. Nhưng anh, Winston Smith, biết rõ rằng mới bốn năm trước đây Oceania từng là đồng minh của Eurasia. Kiến thức ấy được lưu trữ ở đâu? Không ở đâu hết, chỉ có trong đầu anh mà thôi, nhưng anh thì sắp bị tiêu diệt rồi. Nếu tất cả mọi người đều chấp nhận sự giả dối do Đảng áp đặt, nếu tất cả tài liệu đều chép giống nhau như thế thì sự giả dối này sẽ đi vào lịch sử, sẽ trở thành sự thật. “Ai làm chủ quá khứ, người đó sẽ làm chủ tương lai; ai làm chủ hiện tại, người đó sẽ làm chủ quá khứ” – khẩu hiệu của Đảng viết như thế. Quá khứ có thể biến cải, nhưng không ai biến cải được. Điều gì đúng cho hôm nay cũng đúng đối với quá khứ vô cùng và sẽ đúng cho tương lai vô tận. Đơn giản là như thế. Bắt buộc phải thường xuyên khuất phục trí tuệ của chính mình. Đấy là “làm chủ hiện thực” hay gọi bằng Ngômo là “nướcđôi”.

“Nghỉ!”, hướng dẫn viên hô, giọng đã hơi dịu lại.

Winston vừa hạ tay xuống vừa hít vào một hơi thật dài. Tâm trí anh đã lạc vào mê cung của sự bất nhất. Biết mà làm như không biết, hiểu rõ sự thật nhưng lại nói những điều dối trá tinh vi, giữ cùng một lúc hai quan điểm đối chọi nhau, dù biết rõ rằng cái nọ phủ nhận cái kia mà vẫn tin tưởng cả hai, dùng logic giết logic, vi phạm đạo đức trong khi hô hào đề cao đức dục, cho rằng không thể có dân chủ nhưng Đảng lại là người bảo vệ dân chủ, quên những việc phải quên nhưng sẽ nhớ khi cần, rồi lại có thể quên ngay và quan trọng nhất là phải áp dụng quá trình này vào chính tiến trình tư duy. Đấy chính là sự tinh tế tối hậu: cố tình quên và sau đó quên ngay hành động thôi miên vừa mới làm. Ngay cả muốn hiểu từ “nước đôi” cũng phải sử dụng nước đôi.

“Bây giờ xem ai có thể với tay tới mũi ngón chân!”, hướng dẫn viên khích lệ. “Các đồng chí, gập người ngang thắt lưng. Một-hai! Một-hai!…”

Winston ghét động tác này nhất: đau từ gót chân lên tận mông và thường kết thúc bằng một cơn ho. Mấy ý nghĩ vui vui đã biến sạch khỏi đầu. Quá khứ không chỉ bị cải biến, nó đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Làm sao có thể xác định ngay cả một sự kiện hiển nhiên nếu ngoài trí nhớ cá nhân ra, nó không được ghi chép ở đâu cả? Mình được nghe nói đến Anh Cả lần đầu tiên khi nào nhỉ? – anh tự hỏi. Hình như từ những năm 60, nhưng bây giờ làm sao nhớ nổi. Lịch sử Đảng, dĩ nhiên, viết rằng Anh Cả đã là lãnh tụ ngay từ những ngày cách mạng còn trong trứng nước. Chiến công của đồng chí ấy được đẩy lùi dần mãi về thế giới huyền thọai của những năm ba mươi và bốn mươi, khi những tên tư sản đội những chiếc mũ phớt trông rất kì dị vẫn còn nghênh ngang trên những chiếc ô tô láng coóng hay những chiếc xe ngựa bọc kính tứ phía. Không thể nào biết được đâu là thật, đâu là bịa nữa. Winston không nhớ Đảng ra đời vào lúc nào. Anh cũng không tin là anh đã từng nghe từ Chuanh trước năm 1960, nhưng cũng có thể theo Ngôn ngữ cũ thì từ “chủ nghĩa xã hội Anh” đã được sử dụng từ trước rồi. Mọi chuyện quả là rất mù mờ. Nhưng đôi khi có thể phát hiện được những sự dối trá trắng trợn. Thí dụ lời khẳng định trong cuốn Lịch sử Đảng rằng Đảng phát minh ra máy bay là hoàn toàn sai. Anh nhớ rằng máy bay đã có từ thời anh còn bé tí. Nhưng chứng minh thì chịu. Không thể tìm được bất kì chứng cớ nào. Chỉ một lần duy nhất anh nắm được một tài liệu chứng minh tính chất giả dối của một sự kiện lịch sử. Nhưng lần đó…

“Smith”, có tiếng thét. “Số 6079, Smith W Đúng, anh đấy! Cúi thấp nữa xuống! Anh có thể làm được mà. Anh chưa cố hết sức. Thấp nữa! Thế tốt, đồng chí! Bây giờ, tất cả nghỉ, nhìn tôi đây.”

Mồ hôi đổ ướt đẫm khắp người Winston. Nhưng nét mặt thì vẫn thế, không một chút xúc động nào. Không được tỏ ra sợ hãi! Không được tỏ ra bực bội! Chỉ cần một cái chớp mắt là họ phát hiện ra ngay. Anh đứng lặng, quan sát hướng dẫn viên đưa tay lên quá đầu – không thể nói là duyên dáng, nhưng khéo léo và dứt khoát – và gập người, đưa tay chạm đất.

“Làm thế đấy! Tôi muốn các đồng chí cũng làm được đúng như thế. Xem lại lần nữa này. Tôi đã ba mươi chín tuổi, bốn lần sinh nở rồi đấy. Nhìn này.”, cô ta gập người lần nữa. “Các vị xem đầu gối tôi có chùng đâu.” Vừa nói cô ta vừa đứng thẳng lên. “Tất cả những người dưới bốn lăm đều có thể đưa ngón tay chạm đất được. Không phải tất cả chúng ta đều được vinh dự chiến đấu ngoài mặt trận, nhưng ít nhất chúng ta cũng phải giữ cho thân hình cân đối. Hãy nghĩ đến các chiến sĩ của chúng ta trên mặt trận Malabar! Và các thuỷ thủ trên các Pháo Đài Nổi nữa! Biết bao nhiêu khó khăn gian khổ ấy chứ. Bây giờ hãy thử lần nữa. Tốt, đồng chí, tốt lắm!” Cô ta động viên Winston trong khi anh cố gập về phía trước, gối giữ thẳng và lần đầu tiên chạm được ngón tay xuống đất.

IV.

Winston thường có thói quen thở dài một cách vô ý thức, dù đang đứng ngay gần màn vô tuyến, mỗi khi bắt đầu một ngày làm việc mới, rồi anh kéo cái máy ghi lại gần, thổi đám bụi bám trên micro và lấy kính ra đeo. Sau đó anh giở bốn cuộn giấy nhỏ vừa lăn từ một cái ống điều khiển bằng khí nén, nằm ở bên phải bàn làm việc, ra và ghim lại với nhau.

Trong cái ngăn trên tường có ba cái lỗ. Ở bên phải máy ghi là ống khí nén nhỏ dùng để chuyển những tờ giấy giao nhiệm vụ và một lỗ to hơn để chuyển báo chí, còn trên bức tường bên cạnh, có thể với tay tới, là một cái khe hình chữ nhật, dài, chắn lưới thép. Cái này dùng để hủy giấy. Trong tòa nhà của Bộ có hàng ngàn, có thể là hàng chục ngàn cái khe như vậy; ngăn nào cũng có đã đành, mà ngoài hành lang cứ vài bước lại có một cái. Không hiểu tại sao người ta lại gọi đấy là hang nhớ. Khi thấy một tài liệu nào đó cần phải huỷ, hay khi trông thấy một mảnh giấy rơi bên cạnh thì người ta phải tự động nhặt lên, rồi thả vào cái khe gần nhất, nó sẽ bị dòng khí nóng cuộn đến những chiếc lò đốt khổng lồ nằm bí mật trong tòa nhà.

Winston đọc bốn mảnh giấy mà anh vừa giở ra. Mỗi mảnh ghi một nhiệm vụ chỉ một đến hai dòng bằng tiếng lóng viết tắt – không phải Ngômo nhưng đa phần là Ngômo – thứ tiếng lóng dùng trong nội bộ. Nhiệm vụ như sau:

times 17.3.84 A.C. nói tường thuật sai châu Phi chính xác hóa.

times 19.12.83 kế họach quí IV 83 in sai kiểm tra hiện nay

times 14.2.84 bôno trích sai chính xác hóa

times 3.12.83 tường thuật nhật lệnh A.C. sai đôi nói đến không ai viết lại

Winston để tờ nhiệm vụ thứ tư sang một bên. Đây là nhiệm vụ phức tạp và quan trọng, tốt nhất là làm sau cùng. Ba cái còn lại là những nhiệm vụ thường nhật, tuy cái thứ hai có thể tốn nhiều thì giờ tìm kiếm số liệu.

Winston bấm trên màn vô tuyến các “số cũ” để tìm các số báo Times cần thiết và chỉ mấy phút sau ống khí nén đã chuyển đến các số báo anh cần. Nhiệm vụ của anh liên quan đến các bài báo hoặc tin tức đã đăng mà vì lí do nào đó phải sửa lại, hay nói theo ngôn ngữ chính thức là chính xác hóa. Thí dụ tờ Times ngày 17 tháng 3 tường thuật bài nói chuyện của Anh Cả ngày hôm trước, trong đó Anh tiên đoán rằng mặt trận Nam Ấn sẽ yên tĩnh, quân Eurasia sẽ tấn công trên lục địa Bắc Phi. Nhưng hóa ra Bộ Chỉ Huy Tối Cao Eurasia đã mở mặt trận ở Nam Ấn, trong khi ở Bắc Phi không hề có động tĩnh gì. Như vậy là phải viết lại một đoạn trong bài nói chuyện của Anh Cả sao cho tiên đoán của Anh phù hợp với thực tế chiến trường. Hay số ra ngày 19 tháng 12 năm 83 công bố dự báo kế hoạch sản xuất các mặt hàng tiêu dùng trong quí tư năm 83 hay quí thứ sáu của Kế Họach Ba Năm Lần Thứ Chín. Số báo ra ngày hôm nay đăng các số liệu sản xuất thực tế cho thấy dự báo là hoàn toàn sai. Winston có trách nhiệm sửa lại các số liệu ban đầu sao cho trùng khớp với số đăng hôm nay. Nhiệm vụ thứ ba cực kì đơn giản, có thể hoàn thành ngay trong một phút. Số là tháng hai vừa qua Bôno hứa (theo ngôn ngữ chính thức là long trọng cam kết) sẽ không giảm khẩu phần chocolate trong năm 1984. Nhưng thực ra, như anh đã biết, khẩu phần sẽ giảm từ ba mươi gram xuống còn hai mươi ngay cuối tuần này. Anh chỉ việc thay lời hứa ban đầu bằng thông báo rằng khẩu phần chocolate có thể bị giảm vào tháng tư là xong.

Sau khi làm xong, Winston sẽ đính những tờ sửa chữa do máy ghi lại vào số báo Times phù hợp rồi đưa vào ống khí nén. Sau đó, bằng một động tác vô thức, anh vò tờ ghi nhiệm vụ cũng như tất cả những ghi chép có liên quan và vất vào hang nhớ, ngọn lửa sẽ làm phần việc còn lại.

Anh không biết cụ thể công việc trong cái mê cung đằng sau những đường ống khí nén này, anh chỉ biết một cách đại khái thôi. Sau khi những hiệu chỉnh, sửa chữa cho một số báo Times nào đó đã được thu thập đủ và kiểm tra kĩ thì số báo đó sẽ được in lại, số cũ bị hủy, tờ mới in được đưa vào lưu trữ thay cho tờ cũ. Không chỉ báo mà cả sách, tạp chí, khẩu hiệu, truyền đơn, phim ảnh, đĩa ghi âm, tranh vui; tất cả các loại hình văn học nghệ thuật và tài liệu có giá trị về chính trị hay tư tưởng đều phải cải biến như thế cả. Từng ngày, gần như từng phút, quá khứ được điều chỉnh cho phù hợp với hiện tại. Bằng cách làm như vậy, có thể chứng minh tất cả các dự đoán của Đảng đều đúng bằng giấy trắng mực đen hẳn hoi; không được để lại bất kì mẩu tin hay ý kiến nào mâu thuẫn với nhu cầu của hiện tại. Lịch sử giống như được viết trên một tấm da, có thể cạo đi và viết lại bao nhiêu lần cũng được. Sau đó có tài thánh cũng không chứng minh được đấy là tài liệu giả.

Trong phòng đông nhất của Ban Tài Liệu, lớn hơn phòng của Winston nhiều, có vô số người làm việc, họ chỉ có mỗi nhiệm vụ là tìm và thu thập tất cả các cuốn sách, các tờ báo và các tài liệu đã được thay thế, cần phải hủy. Nhiều số Times, do thay đổi liên kết về chính trị hay do đã đăng những tiên đoán sai lầm của Anh Cả mà phải in đi in lại, có thể cả chục lần, vẫn ghi ngày tháng cũ, được xếp trong kho lưu trữ, không có một bản phủ nhận nào tồn tại trên đời. Sách cũng được viết đi viết lại như thế mà không hề có dòng ghi chú nào về việc sửa chữa cả. Ngay cả trên những tờ hướng dẫn nhiệm vụ mà Winston nhận được mỗi ngày, anh phải hủy ngay sau khi hoàn thành công việc, cũng không có câu nào nói đến hay ngụ ý việc giả mạo: chỉ là trích dẫn sai, nhầm lẫn, in nhầm, nói nhầm cần phải sửa lại cho chính xác mà thôi.

Nhưng thực ra, anh vừa sửa các số liệu của Bộ Ấm No vừa nghĩ, đây cũng không phải là giả mạo. Đơn giản chỉ là thay một tài liệu nhảm nhí này bằng một tài liệu nhảm nhí khác mà thôi. Đa số tài liệu mà người ta phải xử lí chẳng có một tí quan hệ nào với thế giới hiện thực, ngay cả quan hệ với cái thế giới giả dối này cũng không nốt. Số liệu lúc đầu cũng như số liệu đã hiệu chỉnh đều là sản phẩm của trí tưởng tượng. Thường là phải tự nghĩ ra. Thí dụ Bộ Ấm No dự kiến trong quí tư sẽ sản xuất 145 triệu đôi giày. Bây giờ người ta thông báo là đã sản xuất được 62 triệu đôi. Nhưng Winston, khi hiệu chỉnh kế hoạch, lại viết 57 triệu để có thể tuyên bố, như mọi khi, là đã hoàn thành vượt mức kế hoạch. Nhưng thực ra 62 triệu hay 57 triệu hay 145 triệu thì cũng thế, số nào cũng gần sự thật và có thể cũng cách xa sự thật như nhau. Rất có thể là chẳng sản xuất được một đôi nào. Cũng có khả năng là chẳng ai biết đã sản xuất được bao nhiêu đôi và chủ yếu là chẳng ai cần biết làm gì. Tất cả những điều người ta biết là: quí nào cũng sản xuất được hằng hà sa số giày, nhưng có thể một nửa dân số Oceania vẫn phải đi chân đất. Mọi tài liệu, từ lớn chí bé, đều như thế hết. Trong cái thế giới huyễn hoặc này, tất cả mọi thứ đều trở nên mờ ảo và cuối cùng đến ngay ngày tháng cũng không làm sao xác định được nữa.

Winston nhìn sang ngăn bên kia hành lang. Một người đàn ông dáng nhỏ bé, nghiêm cẩn, cằm lún phún râu tên là Tillotson đang chăm chú vào công việc, tờ báo mở rộng đặt trên đầu gối, miệng gí sát vào máy ghi. Anh ta làm ra vẻ bí mật, những lời anh ta nói không thể lọt ra ngoài, chỉ một mình cái máy ghi nghe được mà thôi. Anh ta bỗng ngẩng đầu lên, đôi kính loé lên một luồng ánh sáng thù địch hướng thẳng vào Winston.

Winston gần như không quen Tillotson và cũng không biết anh ta làm gì. Người của Phòng Tài Liệu thường không thích nói về công việc của mình. Đấy là một phòng dài, không cửa sổ, trong đó có hai dãy buồng ngăn nhỏ luôn luôn có tiếng lật giấy sột soạt, tiếng thì thầm đọc vào máy ghi là khoảng một tá nhân viên mà Winston vẫn trông thấy đi qua đi lại trong hành lang và vung tay múa chân trong Hai Phút Hận Thù nhưng không biết tên. Anh biết trong ngăn bên cạnh có người phụ nữ nhỏ nhắn, tóc hung, suốt ngày này sang ngày khác bà ta chỉ có một nhiệm vụ là tìm và xóa tên những người đã bị bốc hơi, nghĩa là những người được coi là chưa từng có mặt trên cõi đời này. Về một khía cạnh nào đó, công việc này phù hợp với bà ta, vì chính chồng bà cũng bị bốc hơi khoảng hai năm về trước. Cách chỗ anh mấy ngăn là một người hoà nhã, bất lực, mơ mộng, tên là Ampleforth có tài là viết những bài ngắn, có vần điệu, chuyên làm những bài vè xuyên tạc, được gọi là thơ, những bài hơi có vấn đề về mặt tư tưởng nhưng không thể loại khỏi các tuyển tập văn học. Nhưng cái phòng này với khoảng năm mươi hay gần năm mươi nhân viên cũng mới chỉ là một tiểu ban, một tế bào trong cái cơ thể phức tạp là Phòng Tài Liệu. Đằng kia, bên trên, bên dưới là rất nhiều người đang tham gia giải quyết hàng núi công việc. Có những xưởng in lớn với các biên tập viên riêng, chuyên gia in ấn riêng và cả những phòng trang bị tối tân để làm tranh ảnh giả. Có cả phòng chương trình vô tuyến với các kĩ sư, đạo diễn và các nhóm diễn viên chuyên giả giọng người khác nữa. Có một đội quân đông đảo các thư kí có nhiệm vụ liệt kê những cuốn sách và những ấn phẩm định kì cần kiểm tra. Ngoài ra, còn có những kho cực kì lớn lưu trữ các tài liệu đã được sửa chữa và những lò đốt bí mật chuyên thiêu hủy các văn bản gốc. Và ở đâu đó, không ai biết ở đâu, là bộ óc, là cơ quan lãnh đạo chuyên soạn thảo đường lối nói rằng phần này của quá khứ phải được giữ, phần này phải làm giả, phần này thì xoá sổ hoàn toàn.

Thế mà Ban Tài Liệu cũng chỉ là một nhánh của Bộ Sự Thật, nhiệm vụ chủ yếu của Bộ không phải là tái tạo quá khứ mà là cung cấp cho các công dân Oceania sách báo, phim ảnh, sách giáo khoa, chương trình truyền hình, kịch nghệ, tiểu thuyết, nghĩa là tất cả các loại thông tin, hướng dẫn hoặc giải trí, từ một bức tượng cho đến khẩu hiệu chính trị, từ một bài thơ cho đến luận thuyết sinh học, từ cuốn sách dạy đánh vần cho đến cuốn từ điển Ngômo. Bộ không chỉ có nhiệm vụ thoả mãn các nhu cầu rất đa dạng của Đảng mà còn làm ra các sản phẩm tương tự, tất nhiên là loại hai, cho nhu cầu của bọn cu li nữa. Có một loạt phòng ban chuyên về văn chương, nhạc, kịch và các trò giải trí khác cho bọn cu li. Các phòng ban này in những tờ báo nhảm nhí chuyên về thể thao, tội phạm, thuật chiêm tinh, tiểu thuyết tình cảm lãng mạn giá năm xu, sản xuất các phim đầy cảnh làm tình, những bài hát uỷ mị được những máy gọi là máy chế thơ viết. Có cả một tiểu ban gọi theo Ngômo là Phimheo chuyên sản xuất các loại phim ảnh khiêu dâm hạ đẳng, các phim này được đóng gói kĩ rồi mới chuyển ra ngoài, các đảng viên bên ngoài các phòng chuyên trách bị cấm tuyệt đối không được xem những phim kiểu đó.

Trong khi Winston làm thì lại có thêm ba tờ giấy ghi nhiệm vụ nữa được ống khí nén mang tới, nhưng đây là những việc dễ nên anh đã hoàn thành xong trước khi tham gia Hai Phút Hận Thù. Sau đó anh quay lại ngăn và lấy cuốn từ điển Ngômo từ trên giá sách xuống, anh đặt cái máy ghi sang một bên, đem kính ra lau và bắt đầu giải quyết nhiệm vụ chính của ngày hôm đó.

Thú vui lớn nhất trong đời Winston chính là công việc. Đa phần công việc dĩ nhiên là những chuyện thường nhật chán ngắt, nhưng đôi khi cũng có những việc khó và phức tạp phải dành toàn tâm toàn ý thì mới làm được, giống như giải một bài toán khó vậy, đấy là những vụ giả mạo mà muốn thực hiện thì phải nắm vững các nguyên tắc của Chuanh cũng như phải đánh giá đúng thái độ của Đảng về vấn đề đó nữa, nói nôm na là Đảng thích nghe gì. Ba cái vụ này thì Winston khá rành. Đôi khi anh còn được giao nhiệm vụ chữa cả những bài xã luận viết hoàn toàn bằng Ngômo trên tờ Times. Anh mở tờ giấy giao nhiệm vụ mà lúc sáng anh đã xếp sang bên cạnh:

times 3.12.83 tường thuật nhật lệnh A.C. sai đôi nói đến không ai viết lại

Theo Ngôn Ngữ Cũ (tiếng Anh chuẩn) thì nội dung đại khái như sau:

Times, Số ra ngày 3 tháng 12 năm 1983 đã tường thuật sai nghiêm trọng nhật lệnh của Anh Cả, trong đó có nhắc tới những người không hề tồn tại. Viết lại toàn bộ rồi trình cho cấp trên trước khi đưa vào lưu trữ.

Winston đọc lại bài báo sai lầm. Toàn bộ nhật lệnh của Anh Cả ngày hôm đó là để ca ngợi một tổ chức gọi là FFCC chuyên cung cấp thuốc lá và các vật dụng khác cho thuỷ thủ trên các Pháo Đài Nổi. Bản nhật lệnh đặc biệt khen ngợi một đồng chí tên là Wither, nhà hoạt động nổi tiếng của Đảng Nội Bộ, dịp này đồng chí được tặng Huân Chương Chiến Công hạng II.

Ba tháng sau FFCC bị giải tán một cách bất thình lình, không thấy một lí do nào được đưa ra cả. Wither và các cộng sự bị thất sủng, mặc dù báo chí hay màn vô tuyến không đả động gì đến chuyện này. Cũng là việc bình thường, vì những nhà hoạt động chính trị thất sủng thường ít khi bị đưa ra toà hay lên án công khai. Những cuộc thanh trừng hàng loạt, đụng chạm đến hàng ngàn người, những phiên toà xét xử công khai bọn phản bội và tội phạm tư tưởng với những lời thú tội đáng khinh và sau đó bị đem đi hành quyết là những vụ mẫu, vài năm mới có một lần. Những người không được lòng Đảng thường là biến mất một cách bí hiểm, không còn ai nghe nói đến họ nữa. Không ai biết chuyện gì đã xảy ra với họ. Có thể một số người vẫn còn sống. Chừng ba mươi người quen của Winston, chưa kể bố mẹ anh, đã biến mất như thế trong những khoảng thời gian khác nhau.

Winston lấy cái kẹp giấy gãi mũi. Phía bên kia, đồng chí Tillotson vẫn tiếp tục bí mật đọc vào micro của cái máy ghi. Anh ta ngẩng đầu lên: đôi mắt kính lại phát ra một luồng ánh sáng thù địch. Winston tự hỏi không biết đồng chí Tillotson có làm cùng công việc như mình không. Hoàn toàn có thể như thế. Không bao giờ người ta giao công việc tế nhị cỡ này cho một người duy nhất, nhưng mặt khác, nếu giao cho một ủy ban thì lại có nghĩa là công nhận có sự giả mạo. Rất có khả năng là có đến cả chục người đang đua nhau chấp bút cho bài diễn văn giả định của Anh Cả. Sau đó một cán bộ lãnh đạo trong Đảng Nội Bộ sẽ chọn phương án thích hợp, sẽ hiệu đính lại rồi đưa cho rất nhiều người khác tham khảo, cuối cùng điều bịa đặt đó sẽ được chuyển vào kho lư trữ và trở thành sự thật.

Winston không biết vì sao Wither bị thất sủng. Có thể là do tham nhũng, cũng có thể là do thiếu hiệu năng. Cũng có thể là Anh Cả thấy cần phải loại bỏ một cộng sự đã trở nên quá nổi tiếng. Cũng có thể là Wither hay một người gần gũi nào đó của ông bị nghi là đã đi chệch đường lối chung. Mà có nhiều khả năng là thanh trừng và bốc hơi là một phần không thể thiếu của bộ máy cai trị. Đầu mối duy nhất nằm trong cụm từ “nói đến không ai”, chứng tỏ Wither đã chết. Bị bắt không phải lúc nào cũng có nghĩa là sẽ bị giết ngay. Đôi khi những người bị bắt cũng được thả cho tự do khoảng một hai năm rồi mới bị đem đi hành quyết. Đôi khi có người tưởng là đã chết từ lâu lại hiện lên như một con ma trong một phiên tòa công khai, hắn thú nhận tội lỗi liên quan đến hàng trăm người, sau đó mới biến mất, lần này thì vĩnh viễn. Nhưng Wither đã là “không ai”. Ông ta không tồn tại nữa, ông ta chưa bao giờ tồn tại cả. Winston cho rằng sửa lại bài diễn văn của Anh Cả thôi chưa đủ. Tốt nhất là viết một bài hoàn toàn khác với đề tài ban đầu.

Anh có thể viết một bài diễn văn vạch trần những tên phản bội và những tên tội phạm tư tưởng, chuyện đó không có gì mới; còn việc sáng tác ra một chiến thắng trên mặt trận hay hoàn thành vượt mức Kế Hoạch Ba Năm Lần Thứ Chín lại làm cho tài liệu thành phức tạp hơn rất nhiều. Tốt nhất là một câu chuyện bịa đặt hoàn toàn. Bất ngờ trong đầu anh hiện lên, một cách sống động, y như thật, hình ảnh đồng chí Ogilvy, người chiến sĩ vừa hi sinh anh dũng trên mặt trận. Đôi khi Anh Cả cũng công bố nhật lệnh ca ngợi một đảng viên bình thường và nhấn mạnh rằng cuộc đời và sự hi sinh của người đó là một tấm gương cho toàn dân noi theo. Hôm nay anh sẽ nói về đồng chí Ogilvy. Thực ra chưa từng có người nào tên là Ogilvy cả, nhưng chỉ cần bịa ra vài dòng kèm mấy tấm ảnh giả là xong.

Winston suy nghĩ một lúc rồi kéo cái máy ghi lại gần và đọc, theo đúng kiểu của Anh Cả: dứt khoát và phô trương, bằng cách đặt những câu hỏi và lập tức trả lời (“Chúng ta rút ra được bài học gì từ sự kiện vừa nêu, thưa các đồng chí? Bài học, đồng thời cũng là nguyên lí cơ bản của Chuanh, là…v.v.), dễ bắt chước lắm.

Ngay từ năm lên ba đồng chí Ogilvy đã chỉ thích chơi với súng, trống và máy bay lên thẳng. Năm lên sáu, nghĩa là sớm hơn qui định một năm, đây là trường hợp đặc biệt, đồng chí được kết nạp vào đội Tình Báo và lên chín tuổi thì trở thành trung đội trưởng. Năm mười một tuổi đồng chí đã báo cáo với Cảnh Sát Tư Tưởng về những lời phát biểu mà đồng chí cho là sai trái của bác mình. Năm mười bảy tuổi đồng chí trở thành chủ tịch Hội Thanh Niên Chống Tình Dục huyện. Năm mười chín tuổi đồng chí đã thiết kế được một loại lựu đạn được Bộ Hoà Bình chấp nhận và ngay lần thử đầu tiên đã giết chết ba mươi mốt tên tù binh Eurasia. Đồng chí đã hi sinh khi vừa tròn hai mươi ba tuổi. Khi đó đồng chí đang bay trên Ấn Độ Dương, mang theo những tin tức cực kì quan trọng, thì bị máy bay địch tấn công, đồng chí đã buộc một khẩu súng máy vào mình và nhảy ra khỏi máy bay và chìm xuống đáy biển cũng với tin mật, không để lọt vào tay địch. Chúng ta, Anh Cả nói, cảm phục tinh thần hi sinh của đồng chí. Anh Cả nói cuộc đời của đồng chí Ogilvy rất trong sáng và được dành trọn cho lí tưởng. Đồng chí Ogilvy không uống rượu, không hút thuốc, không biết một thú vui nào khác ngoài việc luyện tập trong khu thể thao, đồng chí cho rằng gia đình sẽ là trở ngại đối với công tác mà đồng chí sẵn sàng phục vụ hai mươi bốn giờ mỗi ngày, cho nên đồng chí đã thề sẽ không lấy vợ. Đồng chí không biết đến đề tài nói chuyện nào khác ngoài các nguyên lí của Chuanh, không có mục đích nào khác ngoài mục đích tiêu diệt quân Eurasia, săn lùng những tên gián điệp, những tên phá hoại, những tên tội phạm tư tưởng và nói chung là những tên phản bội.

Winston cứ suy nghĩ mãi về việc có nên thưởng cho đồng chí Ogilvy Huân Chương Chiến Công hay không, nhưng cuối cùng quyết định không thưởng bởi vì thưởng sẽ kéo theo nhiều rắc rối, phải đối chiếu với nhiều tài liệu khác nữa.

Anh lại nhìn sang phía đối thủ. Không hiểu sao anh tin rằng Tillotson cũng đang làm công việc giống hệt như mình. Không thể nào biết được cuối cùng bài nào sẽ được chấp nhận, nhưng anh tin tưởng tuyệt đối rằng đấy là bài của anh. Trước đây một giờ, chưa có đồng chí Ogilvy, nhưng nay đồng chí đã là một thực tế. Điều làm Winston ấn tượng nhất là có thể tạo ra người chết chứ không thể tạo ra được người sống. Đồng chí Ogilvy chưa từng sống trong thời hiện tại, nhưng nay đã sống trong thời quá khứ và khi hành động giả mạo này bị lãng quên thì anh ta sẽ sống một cách chân xác và không thể nào phủ nhận được, giống như Charlemagne[1] hay Julius Ceasar[2] vậy.


[1] Charlemagne – Vua Pháp (724-814)

[2] Ceasar – Hoàng đế La Mã (100-44 trước Công nguyên)

Comments are closed.