Bác Lang Thanh

Vũ Thư Hiên

Một hôm, tôi ngần ngừ mãi mới dám nói với mẹ:

– Mẹ ơi! Cho con hỏi mẹ chuyện này.

Mẹ tôi đang đọc sách.

Gì, con?

Tôi không biết nên bắt đầu câu hỏi thế nào. Tôi sợ nó sẽ giống sự trách móc:

– Tên con là bố hay mẹ đặt hở mẹ?

Mẹ tôi mở to mắt:

– Sao con lại hỏi thế?

Tôi ngập ngừng:

– Là con hỏi cho biết thôi.

– Con không thích nó à?

– Không phải con không thích. Cơ mà nó giống tên con gái, mẹ ạ.

Mẹ tôi bật cười:

– Người ta không hiểu đấy thôi, chứ nó là một cái tên hay, có ý nghĩa đấy.

– Nhưng là mẹ hay bố đặt?

– Không phải mẹ, không phải bố – mẹ tôi thần mặt, không trả lời ngay – Là bác Lang Thanh đặt cho con.

Mẹ tôi nhìn xa xôi, thở dài.

Bác Lang Thanh mới bị bắt, đang trong tù, tôi biết.

Lang Thanh là bí danh của bác – ông lang người Thanh Hoá, từ Thanh Hoá.

Bác không phải khách thường xuyên trong nhà tôi. Ông thoáng đến, thoáng đi, nhưng là người bao giờ cũng được bố mẹ tôi chờ đón. Người dong dỏng cao, đi hơi cà nhắc, gương mặt khắc khổ với đường nét phân minh, đôi mắt rất sáng mà cái nhìn lại hiền. Trong số bè bạn của cha mẹ tôi, ông là người duy nhất mà cha mẹ tôi gọi bằng “bác” xưng “em”.

Nghe chuyện cha mẹ tôi với bạn bè thì bác Lang Thanh bị tù nhiều hơn bất cứ ai khác trong những nhà cách mạng, trên ba chục năm cả thảy.

Chính quyền thuộc địa ngán ông lắm. Có lần ông bị nhọt ở chân, người ta chữa bằng cách cắt luôn gân chân. Ông bị thọt từ đấy. Một lần khác, ông đau bụng, họ cắt phăng một khúc ruột.

Ra tù, ông không tự đi lại được, phải nằm cáng đi các nơi liên lạc với các đồng chí.

Cũng như cha mẹ tôi, những người bạn chiến đấu của ông, gần gụi với ông nhất là các đảng viên Quốc Dân Đảng. Sau này, ông gia nhập Đảng Cộng sản rồi, nhưng với các đồng chí Quốc Dân Đảng ông mãi mãi giữ tình bạn chung thuỷ.

Vì tình bạn ấy mà sau này nhiều người viết ông là đảng viên Việt Nam Cách mệnh Đồng minh hội.

Ông nói:

– Thuộc đảng nào không quan trọng, cháu ạ. Quan trọng là mình có phải người cách mạng hay không, có vì dân vì nước hay không?

Tôi không có khả năng viết về bác Lang Thanh với tư cách người nghiên cứu. Tôi chỉ ghi lại những gì tôi nghe kể.

Sau này tôi mới được biết tên thật của bác là Đinh Chương Dương, gọi tắt là bác Đinh.

Cuộc đời cách mạng của bác là gương sáng cho lớp đàn em. Các nhà cách mạng mà tôi biết đều ngưỡng mộ bác, dành cho bác sự kính trọng đặc biệt.

Cha mẹ tôi chẳng những yêu quý bác mà còn dành cho bác sự kính trọng đặc biệt. Không một ai trong các bạn cách mạng được cha mẹ tôi xưng ‘em” như với bác.

Chẳng riêng cha mẹ tôi, ngay cả chủ tịch Hồ Chí Minh cũng xưng “em” với bác.

Trong hồi ký Đêm Giữa Ban Ngày tôi có ghi đoạn này:

“Chỉ một lần tôi nghe thấy bác Hồ xưng “em” với người khác – đó là với nhà cách mạng Đinh Chương Dương. Trước Bắc bộ phủ là cả một rừng cờ hoa bên trên biển người xao động, trong tiếng nhạc binh trầm hùng, tiếng hô khẩu hiệu vang trời. Tôi đi cùng bác Đinh. Bác lúc bấy giờ đã yếu lắm, phải tựa vào vai tôi mà lần từng bước. Vì đến muộn, hai bác cháu chật vật mới len được qua đám đông để vào gặp bác Hồ. Nhìn thấy bác Đinh từ xa, bác Hồ lật đật từ trên thềm cao chạy xuống, ân cần đỡ tay ông:

– Bác tới thăm em làm chi, bác chưa được khỏe mà.

Trả lời bác Đinh, bác Hồ ưỡn ngực, cười lớn:

-Hồi nầy em khá nhiều rồi, bác ạ. Vui thế này không khoẻ sao đặng.

Tính về tuổi tác, về đời hoạt động cách mạng, bác Hồ có coi bác Đinh là đàn anh cũng phải phép”.

Điều làm tôi ngạc nhiên và còn hơn thế, tôi bất bình, là nhà nước cho người hy sinh cả cuộc đời cho đất nước được hưởng khoản phụ cấp hằng tháng vừa bằng lương tôi, một nhà báo quèn.

Nghe cha tôi kể thì chính bác Lang Thanh đã đưa cha tôi vào đường cách mạng, khi cha tôi còn là một học sinh. Ông anh cả của cha tôi khi nhậm chức ở toà sứ Tuyên Quang đã đưa ông đi theo. Cái tỉnh lỵ heo hút nọ chẳng có gì lôi cuốn cậu học trò của làng quê bùn lầy nước đọng. Nhưng chính ở đây đã xảy ra bước ngoặt của đời cha tôi.

Cậu học trò ngày ấy buồn, cậu nhớ nhà, cứ tan học là lang thang khắp chốn trong mấy phố xá đìu hiu.

Gần toà sứ có một ngọn đồi thấp được gọi là núi – Núi Cố. Những người tù khổ sai thường được giải ra khỏi trại giam ra đấy làm “cỏ vê”. Cỏ vê (từ tiếng Pháp corvée) chỉ công việc bắt buộc, từ này xuất phát từ thời Trung Cổ chỉ những nông nô hoặc nô lệ phải làm các công việc nặng nhọc theo lệnh chủ. Tù là loại người đặc biệt, bao giờ cũng gợi tò mò ở những người sống ngoài nhà tù. Họ trước kia có thể là những kẻ giết người, những tên cướp hung hãn, và những thứ người gì nữa không biết, nhưng nay họ đều giống nhau ở gương mặt lầm lì. Họ lẳng lặng làm công việc mà những người lính khố đỏ áp giải bắt họ làm.

Cậu học sinh tò mò không kém ai. Cậu lân la đến với những người tù khổ sai. Chính ở đấy, ở Núi Cố, cậu đã gặp người làm thay đổi cả cuộc đời cậu.

Những người tù cách mạng đã cuốn hút cậu. Cậu say sưa nghe những câu chuyện về lịch sử đất nước, về thân phận nô lệ của nhân dân và cuộc đấu tranh giành độc lập.

Cậu học sinh bừng tỉnh. Cậu muốn thấy mình rồi đây sẽ là một người như những người tù anh hùng kia.

Nhưng khi ấy cậu chẳng biết làm gì hơn là nhịn tiền quà sáng chị dâu cho để mua báo cho những người tù đọc, mua quà cho họ. Để rồi, theo yêu cầu của họ, cậu mua cho họ những thứ cần thiết cho một cuộc vượt ngục .

Năm 1997, ở Paris, tôi tìm được người bạn thân của cha tôi từ những năm xa xưa ấy là ông Ngô Thế Tân. Vợ ông, bà Lê Thị Lựu là bạn học của mẹ tôi.

Tôi biết rất ít về cha mình. Những gì tôi biết là qua lời kể của mẹ tôi và bạn bè chung của ông bà. Ông Tân là người có thể cho tôi biết thêm về cha tôi thuở thiếu thời. Nhưng thật tiếc, tôi đã không gặp được ông.

Khi ấy ông Tân ở Nice, một tỉnh miền Nam nước Pháp, còn tôi thì vừa chân ướt chân ráo đến Paris, cuộc sống chưa ổn định, tôi rất muốn gặp mà không có tiền mua vé tàu. Đến lúc có thể đi thì ông không còn nữa.

Trên điện thoại, ông Tân ôn lại kỷ niệm với cha tôi thời hai người ở Tuyên Quang:

– Chẳng hiểu bằng cách nào mà bố anh dám một mình tổ chức một cuộc gặp mặt ban đêm với những người có cảm tình với cách mạng. Tôi có mặt ở đấy, không phải do bố anh rủ mà do một người bạn khác. Hồi ấy hai đứa có quen nhau, nhưng chưa thân. Cuộc họp ấy được tổ chức ở khu rừng bên kia bến đò Ghềnh Quýt. Trong bóng tối tôi thấy có người bịt mặt đứng lên diễn thuyết. Nghe giọng, tôi nhận ra là bố anh. Giọng bố anh không lẫn với ai được.

Cái cách hoạt động cách mạng như thế thật ngây thơ. Nhưng nó là sự sôi nổi chân thành của một thiếu niên khi bước vào đường cách mạng.

Nhiều năm trước, một lần tôi tình cờ đọc được bức thư cha tôi viết dở cho ông Tân. Trong thư có đoạn viết: “Mình hiểu cậu muốn về giúp nước. Đã sống ổn định ở bên ấy rồi, cậu cứ ở yên đấy, về bây giờ chẳng ích lợi cho ai. Cái lý tưởng trước kia của chúng ta không giống những gì đang diễn ra trong thực tế. Chưa biết rồi ra sẽ thế nào…”

Bức thư không gửi bằng đường bưu điện mà nhờ người ở Pháp về thăm nhà chuyển hộ. Trong một xã hội mà mọi mối quan hệ với người ở ngoài nước đều bị bí mật giám sát, cha tôi cũng phải thận trọng.

Ông Tân nghe cha tôi, không trở về.

Ông gửi cho cha tôi một chiếc Mobilette màu xanh lam. Không hiểu vì lẽ gì người Hà Nội gọi loại xe gắn máy này là “cá xanh”. Cha tôi rất quý con “cá xanh” bạn cho. Có nó, ông có phương tiện đi lại, mà không phải nhận ô tô theo tiêu chuẩn vụ trưởng Vụ Lễ tân thường phải tiếp khách nước ngoài. Ông bảo: “Nước còn nghèo, dân ốm đau còn không có xe tải thương, chỉ quanh quẩn mấy phố Hà Nội đi xe đạp cũng được, hà tất phải dùng ô tô”.

Nhưng không dùng ô tô cũng có cái bất tiện. Một lần ông cưỡi “cá xanh” tới dự chiêu đãi nhân dịp kỷ niệm quốc khánh Liên Xô, lính gác ở cửa sứ quán đã không cho ông vào, vì các quan chức tới dự đều đi ô tô, không ai đi xe đạp hoặc xe máy.

Sự ngây thơ của cha tôi không chấm dứt ở Tuyên Quang.

Sau khi mất liên lạc với bác Đinh Chương Dương và những người tù chính trị bất ngờ bị chuyển đi, cha tôi nghĩ chỉ có thể bắt liên lạc được với những người cách mạng bằng cách chính mình phải vào tù, ở đó thể nào ông cũng gặp được họ.

Trở về quê, ông sang tỉnh lỵ Thái Bình, tự mình viết truyền đơn hô hào đánh Pháp giành độc lập. Chẳng cần tài giỏi gì mật thám cũng tìm ngay ra thủ phạm. Cha tôi bị tống giam. Báo hại mấy bà chị thương em phải đội thức ăn đánh đường sang Thái Bình nuôi em. Ông anh cả phải chạy vạy, gõ mọi cửa có thể gõ, để xin cho ông em vị thành niên được thoát án tù hoặc nhà trừng giới.

Nhưng kế sách ngớ ngẩn của cha tôi thế mà thành. Trong trại giam Thái Bình ông đã gặp những người ông mong gặp.

Ông bước vào đường cách mạng từ đó.

Bác Lang Thanh còn có vị trí đặc biệt đối với cha mẹ tôi còn ở chỗ ông là người tác thành cho cuộc hôn nhân của hai người.

Vào khoảng đầu những năm 20 thế kỷ trước, tinh thần đấu tranh chống Pháp dâng cao trong mọi tầng lớp dân chúng. Đó là thời kỳ mà sau này được ghi vào sử sách là “những tổ chức cách mạng mọc lên như nấm”. Những người cách mạng Việt Nam khi ấy rất quan tâm tới việc sáp nhập các tổ chức manh mún tự mọc lên thành một lực lượng nếu chưa thể thống nhất thì cũng thành một tổ chức lớn.

Cha tôi gia nhập tổ chức Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội năm 1925. Ông bắt đầu hoạt động cách mạng trong sự dìu dắt của ông Đinh Chương Dương.

Mẹ tôi và các bạn học sinh trong trường nữ học Brieux, đặc biệt là với bà Trịnh Thị Điền cũng thành lập tổ chức yêu nước của mình. Về sau bà là vợ ông Đỗ Đình Thiện, một nhà cách mạng, mà người ta thường gọi là nhà tư sản dân tộc nổi tiếng trong Tuần lễ Vàng những năm 1945-1946.

Theo sự chỉ đạo của ông Đinh Chương Dương, cha tôi thay mặt Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội tìm gặp tổ chức nữ học sinh do mẹ tôi làm đại diện. Mối tình giữa hai người yêu nước nảy nở từ đấy.

Bà ngoại tôi không ưng mối tình ấy. Cho dù là con của người tham gia phong trào chống Pháp, bà ngoại tôi không muốn con gái mình lấy một chàng trai nghề nghiệp bấp bênh, nay việc này mai việc khác, trong khi mẹ tôi được nhiều ông thông ông phán ngấp nghé.

Đùng một cái, mẹ tôi bị thương hàn. Bệnh trở nặng, hết ông lang này đến ông lang kia bó tay. Trong khi đó thì bà ngày một lả dần. Cha tôi đánh bạo đến xin bà ngoại tôi để cho ông lang là bạn mình chữa. Tình thế ngặt nghèo, bà ngoại tôi đành ưng thuận.

– Mẹ các cháu lúc ấy đã bắt chuồn chuồn rồi – bà ngoại tôi kể – Không thì bà đã đuổi bố các cháu ra khỏi nhà. Biết bà không bằng lòng mà vẫn lăn xả vào van xin, liều thế đấy. Âu cũng là cái duyên cái số, bà mới có lũ chúng mày.

Ông lang đến bắt mạch, bốc thuốc, túc trực ngày đêm bên giường bênh. Mẹ tôi hồi lại dần, rồi khỏi. Ông lang không lấy tiền công, tiền thuốc, chỉ vật nài xin bà ngoại tôi cho cha tôi được làm rể.

Mang ơn cứu con gái mình, bà ngoại tôi đành thuận.

– Ông ấy tốt lắm, người nhà trời đấy, các cháu ạ.

Bà ngoại tôi kể.

Cuộc gặp gỡ của chúng tôi với bác Lang Thanh lần chót rất buồn.

Tháng 10 năm 1967, mẹ tôi đưa chúng tôi vào Hà Đông thăm bác.

Bác khi ấy nằm liệt trên giường. Bác cười mà ra nước mắt, ra hiệu cho chúng tôi lại gần, rồi gắng lết tới thành giường, bác ôm lấy từng đứa áp vào mình.

Tôi có ghi lại vắn tắt cuộc gặp mặt lần ấy như sau:

“Huỳnh ơi! Huỳnh ơi! Huỳnh ơi!” Nghe tin dữ, bác Đinh đang nằm liệt đập tay xuống giường kêu lên ba lần, khóc nức nở.

Nhìn người già lăn lộn khóc lóc, lòng tôi đau quặn.

Mẹ tôi nói với bác Đinh:

– Em rồi cũng có thể bị chúng nó bắt, vì em cũng biết nhiều điều bí mật mà họ muốn giấu kín. Nếu em bị bắt thì cháu Hiên sẽ vào thăm bác, cháu Hiên bị, còn cháu Phương, còn lại đứa nào trong mười đứa con em thì còn có đứa vào đây thăm bác.

Rồi mẹ tôi nghẹn ngào, cười méo xệch:

– Đẻ nhiều đâm ra những lúc như thế này lại có lợi, bác ạ!.

Bác Đinh hỏi tôi:

– Cháu có biết chuyện “giật giải mũ” không?

Tôi thưa có. Bác nói:

– “Người xưa còn thế được, người nay mà thế a?!

Là chuyện Trang Vương nước Sở bên Tàu, sau chiến thắng mở tiệc đãi quần thần đã cùng nhà vua nằm gai nếm mật. Tiệc đang vui thì một ngọn gió làm tắt hết đèn nến. Nhân lúc nhá nhem, một viên quan đã sàm sỡ sờ vú hoàng hậu. Hoàng hậu giật được cái giải mũ đem mách vua. Nhà vua truyền cho các quan giật đứt hết giải mũ rồi mới được tiếp tục cuộc vui, thành thử sau đó không biết ai là người đã làm chuyện quấy ấy nữa. Trang Vương về sau có một tôi trung, những lúc khó khăn gian khổ bao giờ cũng ở cạnh bên ông, chính là tên tiểu quan phạm tội ấy.

Nhắc chuyện giật giải mũ, bác Đinh có ý trách ông Hồ Chí Minh, nhưng không bước ra khỏi giường bệnh, ông đâu có biết lúc ấy ông Hồ chẳng bao nhiêu quyền lực, ông không phải là thủ phạm vụ bắt bớ bất nhân. Ông im lặng vì ông không thể can thiệp, ông không dám can thiệp. Căn cứ những gì tôi biết về ông, tôi nghĩ vậy và tôi nghĩ mình không sai. Nhưng dù sao mặc lòng, sự im lặng của ông đã đặt ông vào vị trí đồng phạm.

Hôm ấy mẹ tôi và chúng tôi ở lại với bác Đinh cả buổi chiều.

Tôi kể tên những người bị bắt vừa qua. Bác nhớ hết những người bạn, những đàn em của mình, không quên một ai. Nói đến mỗi người bị bắt, bác lại đập tay xuống giường, lại nấc lên, nước mắt ròng ròng.

Khi tôi nhắc tới Kỳ Vân thì bác ngắt lời:

– Là Kỳ Vân họ Phạm, bác nhớ. Chính bác gửi anh ấy sang Trung Quốc dự lớp huấn luyện của Hội Thanh Niên mà. Người trẻ mà tinh thần yêu nước thật lớn. Người cách mạng như Phạm Kỳ Vân mà còn bắt thì khốn nạn quá.

Nhà cách mạng Đinh Chương Dương hoàn toàn vắng bóng trong sử ký cách mạng.

Bởi vì ông khác họ, những người đã lợi dụng thắng lợi của cách mạng để chiếm quyền cai trị dân tộc.

Mục đích cách mạng trong ông chỉ là chiến đấu cho dân tộc thoát vòng nô lệ. Ông không nghĩ tới, ông không bao giờ nghĩ tới thắng lợi của cách mạng đồng nghĩa với sự trị vì của đảng cộng sản của ông. Trong lời nói, trong hành xử, ông là người dân chủ. Ông không ưa tôn ti trật tự phong kiến. Với ông, mọi người cách mạng là bình đẳng.

Người ta đã quên ông.

Người ta cố tình quên ông.

Cuộc cách mạng mà vì nó ông hiến dâng cả đời mình đã rẽ sang ngả khác mất rồi.

Comments are closed.