BỐN NĂM SAU

Ghi chép

Lê Minh Hà

1.

Sân bay Nội Bài. Nóng. Nhưng thoáng đãng. Nhân viên không cười. Nhưng cái nhìn hình như không căng thẳng như nhiều lần gặp trước. Đã chuẩn bị tinh thần cho thằng con trai lần đầu đến Việt Nam về một cuộc chờ đợi làm thủ tục nhập cảnh vừa lâu vừa lắm nỗi bực mình, lần trở về này là một bất ngờ. Nhất là khi cúm lợn đang làm cho thế giới này điên đảo. Thằng con hoan hỉ rằng mẹ nói vậy mà không phải vậy, sân bay Việt Nam to đẹp đàng hoàng hơn cả sân bay Nga, bất chợt ré lên mẹ ơi nước. Nước rỏ tí tách ngay chỗ chúng tôi đứng. Sân bay quốc tế bị giột. Đúng Việt Nam đây rồi. Bố già của nó cười khì khì. Vậy là có thể giữ cho riêng mình câu chuyện vừa vô tình nghe và thấy trong toillet. Hai cô nhân viên ngồi xổm trước một đống lõi giấy vệ sinh đã dùng hết, cãi vã nhau tưng bừng vì nỗi khách nhiều ít như nhau mà giấy… chùi … lại (hết) nhiều ít khác nhau ở mỗi ca. Giải pháp đưa tới hòa bình mà tôi được chứng kiến là các cô thoăn thoắt cuốn giấy từ cuộn mới vào các lõi cũ cho có vẻ nhiều, đủ dùng. Đừng nghĩ là tôi nói dối. Nhưng có phải là mỗi bước đi chúng ta thêm thương Tổ Quốc chính từ những nỗi này không?

Chỉ bốn năm trước thôi, chính ở chỗ này đây, tôi đã thấy đồng hương của tôi kẹp tiền vào hộ chiếu làm thủ tục hải quan. Và phải nói thực, vẻ lạnh lùng không chịu nổi của nhân viên công vụ không làm tôi e ngại bằng vẻ vừa kênh kênh vừa lo sợ của nhiều người trở về. Từ Đức, nhưng nhiều hơn là từ nước Nga. Rất nhiều người trong số đó về lại quê hương để giải quyết khâu oai bằng cách vung tiền, sau những ngày tháng nhọc nhằn quê người. Tuy nhiên, tiền nhiều vẫn không làm mất đi ở họ cái tâm lí lo sợ vô nguyên cớ nảy sinh ở một thời buổi mà không sống qua thì khó mà hiểu hết.

Chỉ bốn năm trước thôi, chính ở cái cửa cuối cùng để tôi ra với người thân, nhân viên hải quan khi không thấy tôi chìa hộ chiếu có kẹp thêm gì đó đã cấm cửa tôi chưa hỏi thì chị đừng nói và tôi đã nổi khùng tôi hỏi thì anh ngồi làm việc ở chỗ này phải trả lời. Nổi khùng rồi đâm phát hoảng nhỡ gặp chuyện gì sau rất nhiều lần phải đối mặt với chuyện gì ấy ngay cả khi đã rời xa Tổ Quốc. Thì thế, cứ gì một Nguyễn Tuân sống được nhờ hèn. Cứ gì một Tô Hải tự xưng tôi là thằng hèn. Đồng bào của các ông chỉ khác các ông ở chỗ không biết được điều ấy nên bình tâm sống thôi. Hoặc cũng biết những cư xử khác, giản dị hơn nên nhiều khi được việc hơn, và cái gì không biết chứ không thiếu phần can đảm. Cô bạn tôi, Ái Thanh, mười năm trước truyền cho tôi kinh nghiệm đối phó khi nhập cảnh. Cậu ta bảo chị phải thế này thế nọ. Thế cái luật này nọ đâu đưa ra đây cho tôi xem. Cậu ta lại bảo chị về nhà mà tìm. Tôi chưa xong cái thủ tục này thì làm sao về được nhà. Cậu ta lầm bầm thôi chị ra đi. Tôi không ra, anh đại diện cho nhà nước yêu cầu thì tôi là công dân phải thực hiện. Chúng nó quay lại thì thào con mẹ này điên. Này này  anh bảo ai điên. Sau lưng mình là một hàng người chờ đợi nhé. Cuối cùng thì mấy cô cậu hải quan đúng là phải khuân đồ ra, thiếu điều bế theo mình… Phải nghe cô bạn lên cái giọng dân ca ba miền vẽo vọt kèm bộ điệu kịch nói uốn cái lưng phì nhiêu cơ, cứ gọi là mỏi hết hàm vì cười.

Rồi buồn.

Rất buồn.

Nông nỗi (để)  buồn / cười này hầu như không xảy đến cho ai lần trở về này. Trừ với mấy cậu thanh niên người Quảng Bình Nghệ An. Họ bay cùng chuyến với tôi. Mặt rất quen. Trên máy bay, mấy cậu bé hỏi xin đổi mấy chục Euro tiền lẻ. Để làm gì? Chúng cháu bị trục xuất cô ạ. Đổi tiền để về sân bay nhà mình đút cho các anh công an. Thế sẽ không bị giữ lâu.

Hiểu rồi. Hiểu vì sao thấy các cậu cứ quen quen rồi. Những gương mặt này, ít tuổi mà không trẻ, những dáng dấp này, còi cọc vì thiếu ăn tuổi bé, tôi vẫn gặp hàng ngày ở trung tâm tiếp nhận tị nạn.

Tại sân bay Nga, suốt thời gian quá cảnh, họ bị giữ bên trong không được ra ngoài. Lúc làm thủ tục lên máy bay, tôi thấy họ, được dẫn giải lên máy bay trước nhất. Mấy chàng trai vẫy chào tôi, mỉm cười, vẻ vừa mừng vừa buồn lo. Tôi biết chúng tôi không bao giờ gặp lại nhau được nữa.

Đấy cũng là một nụ cười của người trở về. Rất Việt Nam quê hương tôi.

2.

Phản xạ đầu tiên của thằng con lớn khi lên xe ô tô rời sân bay là với tay quàng dây bảo hiểm. Và không thấy. Ông cậu đang cầm lái bảo dây đang ở dưới đít cháu ngồi ấy và thằng con mặt mũi bần thần vì bất an. Nhưng rồi cậu chàng yên tâm ngay để ngắm cảnh dọc đường. Đây, bờ mương một dãy chuối chưa trổ buồng đứng rũ dưới nắng. Đây, một gốc cổ thụ trùm bóng mát lên những mái quán xiêu vẹo, quán chữa xe, quán cắt tóc, dĩ nhiên, bên cạnh đó là quán nước. Mát mẻ và thân thương tựa hồ những mái quán dọc con đường sơ tán tuổi thơ, những Ba La Bông Đỏ, những Vác ngả rẽ về bốn làng Vân ngả xuôi tới Vân Đình. Gương mặt người lại qua cũng hệt gương mặt người ngày tháng cũ, tần tảo, cằn cỗi mà tươi bưởi. Hình như người khá giả không dừng chân nơi này. Cái khác duy nhất mà tôi nhìn ra là đôi ba cái xe máy tòng tọc dựng trước quán và chồng bia lon nước ngọt hình tháp bên cạnh lọ bánh rán tẩm đường. Và bụi. Bụi mờ mịt khắp con đường dẫn vào thành phố. Thì thế! Nhà cửa mọc lên từng ngày, vật liệu chuyên chở từng ngày thế này. Khắp nơi thấy nhà cửa mới xây cực kì hoành tráng. Rồi còn sự đông người. Người lạng lách xe máy vèo vèo trước mũi ô tô khiến tôi biến thành cái phanh mồm lúc nào không biết. Về tới nhà, thằng bé con cười khì khì ở đây đi ô tô không cần quàng dây thật mẹ ạ. Con nhìn đồng hồ, tốc độ xe có lúc chỉ 10 km một giờ, không sợ. Ơ hơ, thế mới đúng là con trai mẹ, biết đường ta ta cứ đi.

Và nó cũng không tỏ vẻ kinh ngạc gì khi xe dừng trước một nhà cao tầng trong một khu nhà lắp ghép cũ, khu Thành Công. Nhà nhà cơi nới, đeo ba lô đằng trước đằng sau. Lởm chởm, lô nhô. Ôi, phố Phái sẽ muôn đời là Hà Nội của một thời dường như xa lắm trong nhịp sống cuồng nhiệt này. Hà Nội của thời tôi, là nhà lắp ghép, là chuồng cọp, còn bây giờ, ba lô đằng trước đằng sau. Bà chị gái tôi, giáo viên, nguyên vợ liệt sĩ, đương kim vợ cựu chiến binh, không được phân nhà cửa gì, liều lĩnh xây hẳn một tầng trên mái, chất lượng căn hộ mới nhìn hơn đứt chất lượng căn hộ cũ mua hoa hồng. Nhưng có nguy hiểm không? Chị Kim Trâm em gái chị Đặng Thùy Trâm đến chơi, cười: yên tâm, nhà này chất lượng… Liên xô. Xây thêm tầng nén xuống thì không sao, lao rầm sắt ra đua thành phòng mới còn được nữa là. Chị là kĩ sư chị… biết. Mấy chị em cười rầm rĩ, rồi cười dịu dàng nho nhỏ dần khi nhắc cùng nhau một Hà Nội của ba mươi bốn mươi năm trước ngày còn tuổi bé, khi Hà Nội còn vườn trong phố, còn hương cây – Những ngày chúng tôi rồng rắn lên mây cùng nhau đi qua chiến tranh.

Khu tập thể Thành Công gần ba mươi năm trước là một bãi rác khổng lồ. Hồi tôi học Sư phạm, đi qua đê La Thành, hay tạt vào đây thăm cô bạn gái. Khi đó khu này là khu tập thể mới nhất của Hà Nội. Vượt qua triền đê (kéo từ Ô Chợ Dừa qua Nhạc viện, qua trường Mỹ thuật Công nghiệp, và đại học Văn hóa) bốc mùi giẻ rách dân đồng nát phơi là tới cái khu này. Có vẻ như hiện đại và hoành tráng và vân vân nhất vào thời đó, chí ít vì ở đó có cả căn hộ ba phòng. Đã nhiều đêm tôi nằm trong một căn phòng cheo leo trên tầng năm, ôm thằng bé cháu mồ côi cho mẹ nó mang chiếu đi giặt nhân ngày có nước, và lắng nghe… Tiếng chim lợn kêu ghê rợn ngoài kia, trên con sông đen lặng lẽ chở trăng mờ. Hai mươi mấy năm sau, đứa cháu đã là một chàng trai trưởng thành, dòng sông còn lại đó, chảy nặng nhọc hơn vì bùn đọng nhiều hơn, và bốc mùi khủng khiếp trước mỗi lần đổi giời. Thằng bé lớn thì cứ đeo theo mẹ hỏi mùi gì. Thằng bé buổi sáng theo bố ra hồ, đi men theo con sông bốc mùi, về nôn chớ cả ngày và một ông bạn bác sĩ bảo có thể nó bị ngộ hơi. Nhưng với bố mẹ chúng nó thì bình thường, chẳng có gì lạ cả. Với chúng tôi, đó chính là Tổ Quốc, là thành phố quê hương, là tuổi trẻ cọc cằn vì thiếu đói thời bao cấp, mà lòng vẫn im lìm xôn xao bao nhiêu khát khao.

Khu Thành Công giờ biến đổi, cũng với nhịp điệu y như mọi góc phố, ngõ hẹp ở thành phố này. Thành Công cũ thì xuống cấp, cơi nới loạn xạ. Thành Công mới, phải gọi như thế chăng cái phần phình ra sau này, là khu Láng Hạ, thì khác hẳn. Trên mảnh đất hôm nay sừng sững những ngôi nhà chọc giời, một ngày đã xa mà không muốn quên, tôi thả tóc bay trong gió trưa chang chang nắng cho đỡ nóng, đạp xe trên con đường nối từ Giảng Võ sang Láng qua một cánh đồng rác mênh mông. Đi mượn giáo trình ngôn ngữ của trường Tổng hợp để về lòe mấy đứa bạn Sư phạm. Kinh thật. Nghĩ mà phục tuổi mình. Làm sao ngày ấy đói xanh xao mà vẫn có thể nhồi vào đầu đứa thì cổ điển đứa thì sức bền vật liệu, và vẫn rưng rưng được cùng nhau trước một… chẳng hạn như câu thơ này hơi lạnh nào ngón tay cầm se giá suốt cuộc đời chưa hiểu hết vì sao (Lưu Quang Vũ). Chỉ đơn giản vì Đẹp. Chẳng lẽ chỉ đơn giản vì Đẹp? Cho đến bây giờ, tôi biết, vẫn có những người chưa thôi tự hỏi mình câu hỏi này.

3.

Hà Nội nóng khủng khiếp. Hơi nóng tỏa từ trời, dâng từ dất, phả ra từ trăm ngàn ống xả xe máy chạy điên cuồng trên phố, từ những máy điều hòa nhiệt độ lổm chổm chồm ra từ mọi bờ tường. Lại nhớ lần về trước, cũng ngày nắng hạ thế này, chủ nhân blog Quê choa, nhà văn Nguyễn Quang Lập đã “ối em ơi em về mùa này nóng không chịu nổi đâu”. Mà ông anh chính cống dân xứ bọ, đất gió lào cát trắng Quảng Bình đấy.

Trong buổi chiều nóng nung người ngay sau hôm về, tôi nhận được lời mời tham dự một cuộc triển lãm của mấy họa sĩ sắp đặt, từ nhà văn Lê Anh Hoài, tác giả cuốn “Chuyện tình thời tạp kĩ”, cũng là người hóa thân vào tác phẩm hội họa “Cột điện” (dĩ nhiên, của Hà Nội, nơi chó và người đều có thể bắc cầu vồng dù có biển đề cấm đái, nơi người ta có thể treo lên đó đủ thứ quảng cáo, từ tư vấn du học đến thuốc chữa bệnh tổ đỉa hay liệt âm liệt dương). Người đàn ông trẻ này tôi đã gặp lần đầu cách đây bốn năm, trong một bữa ăn trưa chung cùng với nhà văn Phạm Xuân Nguyên và Đỗ Hoàng Diệu. Và khi đó, tôi đã không dám thú nhận rằng mình cảm động. Chẳng lẽ lại có thể nói điều ấy dễ dàng trước một đĩa thịt ngan kếch xù. Nhưng đúng là như vậy, khi anh nói về cảm giác của anh khi đọc những dòng chữ tôi viết về  Hà Nội, và những ngày xanh xưa chúng tôi… Hai nhà văn Phạm Xuân Nguyên Đỗ Hoàng Diệu bây giờ còn công dân Hà Nội Phố hơn cả tôi, nhưng kí ức về một bờ tường hồng dịu màu hoa tigon chạy suốt đường Thụy Khê, về mùi lá sen tàn từ một góc hồ Tây thoảng về với phố, về tiếng chuông xe điện trong màn sương rạng sớm, và nắng nhỏ trên hàng cây rét muộn có thể nào không xui tôi nhớ… (Bằng Việt), thì tôi chung với Hoài. Cả hai tác phẩm văn và họa của Hoài đều có tiếng vang xa cả. Tác phẩm văn tôi đã đọc trên dạng bản thảo, mỗi tuần Hoài viết gửi một chương, cho ngày cuối tuần hai vợ chồng tranh nhau đọc rồi cười sặc sụa vì buồn cười quá. Hiếm có nhà văn Việt nào hài hước được như Người Hà Nội này. Chỉ tức nỗi Internet tuyệt vời, nhưng lại không được tin cậy trong khả năng sàng lọc. Thế nên khi tôi gửi bản thảo của Hoài đi tứ tung, chẳng thấy ai cười cùng, có lẽ vì chẳng ai để tâm đọc. Nhưng khi in ra, tác phẩm đã nhận được rất nhiều lời bình chắc nịch: Hay! Ừ, văn chương còn cần gì hơn thế. Và điều này làm tôi lại tin lắm vào sức mạnh của chữ, vào sức sống của mỗi cuốn sách chúng ta cầm lên tay. Cái còn lại để băn khoăn chỉ là ta có đủ sức dành thời gian cho chính mình, tìm về với chính mình qua chữ không thôi.

Cuộc triển lãm của Hoài và các bạn được tổ chức tại một xưởng vẽ của một trong số họ. Nói cho oai, nó giống một nhà kho bỏ không, mái tôn, nằm ngay trên bờ sông Tô Lịch và muốn vào thì phải vượt qua bụi bặm của cả một con đường đang mở, một ngõ nhỏ khấp khểnh chỗ ổ gà chỗ sống trâu, nhưng đâu đó vẫn còn lại dấu tích của một con đường làng lát gạch nghiêng từ một thời ca dao nào xa xôi lắm. Người đến rất đông, và phần lớn còn rất trẻ, trẻ nhất có lẽ là thằng bé con hai mươi tháng tuổi của tôi. Những bó hoa, một bom bia hay là trà đá gì đó tôi không rõ, dăm ba đĩa ổi găng và nhãn…  và những nụ cười, thân tình hồ hởi của khách, phấn khích bồi hồi của chủ. Nói thật là tôi rất ngạc nhiên. Lâu lắm rồi tôi không tham dự vào một hoạt động nghệ thuật như thế này, không biết có thể có một hoạt động thuần túy nghệ thuật như thế này. Bốn năm trước, khi tôi về, mọi người đã rủ rê hò hẹn đến với chương trình đọc thơ của nhóm Mở Miệng tại viện Goeter, để rồi ngày trước lúc khai mạc cả lũ chưng hửng vì tin nhóm Mở Miệng không được mở miệng, chương trình bị dừng vì những lí do hành chính gì đó. Nhà thơ Dư Thị Hoàn tổng kết tại gia: Buổi đọc thơ đã thành công rực rỡ (vì bị cấm) và rủ tất cả về phố biển. Tiếc tôi là đàn bà, về được có mấy ngày, mải chơi đến mấy vẫn không dám bỏ việc nhà theo nhau đi rong.

Cuộc triển lãm của các bạn họa sĩ diễn ra suôn sẽ, có phần còn được trời chiều. Sấm. Chớp. Gió. Sáng lên. Thốc lên. Tưng bừng mưa ca trên mái tôn. Nhưng mùi sông không chảy ngoài kia vẫn đặc quánh. Còn trong, thuốc lá toả khói mù mịt. Thằng con lớn tủm tỉm “mẹ lại bảo thế này mới thật Việt Nam đây” khi tìm cách lẩn ra cửa hứng mưa tránh khói thuốc.

Dĩ nhiên là sau khi đã chắp tay sau đít ngắm nghía. Lê Anh Hoài với tác phẩm mang ngay trên người: Một mũi tên hào hùng lao xuống dưới và dòng chữ Tiến lên, trắng trên đen, rất nổi. Trần Đủ với những bức họa không hình khối, giống những tấm bảng ngày sơ tán xa xôi chúng tôi vẫn sơn quét bằng cách mắm môi mắm lợi chà xát bằng lá khoai nước. Còn nữa, của các nghệ sĩ khác: Một cái vò đặt hơi nghiêng, miệng tỏa sáng. Ba cái ghế đóng vào nhau trong một thế chênh vênh. Kim găm kín trên đầu trên cổ các gương mặt Phật… Và tuyên ngôn nghệ thuật của từng người. Không mang tầm triết học, không sâu xa như tuyên ngôn của nhóm Dạ đài ngày nào, nhưng đủ để thấy sự quẫy cựa đòi bùng nổ của khao khát sáng tạo.

Mưa vẫn rơi. Ngoài cửa, chớp loé làm sáng lên trong khoảnh khắc màu nước sông đen và đặc. Rất ấn tượng. Chợt tôi hiểu vì sao ngay trong cửa xưởng vẽ này lại có một bức tường và mấy bậc cầu thang. Để ngăn nước sông Tô Lịch dềnh lên. Một cô bé chắc phải là chỗ thân tình lắm với chủ nhân giải thích. Hà Nội mùa này nhiều mưa lắm, và từ ngày đất nước đổi mới, người và nhà lớp lớp sinh ra, mọc lên, Hà Nội thường xuyên ngập sau mưa.

Chợt nghĩ, nếu mình cũng là họa sĩ, mình sẽ làm một dãy mũi tên đồng, phải sáng phải ngời, men theo bờ sông khấp khểnh, tới trước xưởng vẽ trống trơn có bức tường này, đặt ở đó một tấm biển thật hiện thực chủ nghĩa: Nơi sáng tạo của nghệ sĩ. Rồi cho người người ngày ngày đi qua.

Thế không phải là một tác phẩm nghệ thuật (có khi xứng đáng là hậu hiện đại) sao?

4.

Lần trở về trước, dù rất lo ngại cho hai cái đầu gối giữa dòng xe máy lạng lách điên cuồng, tôi vẫn suốt ngày long rong trên phố với mấy đồng chí xe ôm. Và tôi đã phát hiện ra rất nhiều anh xe ôm là người thành Nam. Lần trở về này, muốn làm chó cái trốn con cũng không xong, vì con bám mẹ quá và còn bé quá, nên đi đâu tôi cũng tha lôi theo cả nhà. Và vì thế lúc nào cũng phải gọi tắc xi. Và lại thú vị với phát hiện mới tinh, rất nhiều tài xế tắc xi là người Nam Định. Cũng có anh bạn là người Hà Nội là tôi, chở lòng vòng khắp các phố mới mở mù mịt bụi để tới một phố sát nhà, lấy cớ đường tắc, đường một chiều, dễ bị các anh hùng Núp – một cách gọi cảnh sát giao thông rất gợi nhưng cũng không còn thông dụng lắm – xử lí. Nhưng nhìn chung, những phút ngồi tắc xi với tôi cực kì dễ chịu. Chẳng phải vì máy lạnh. Ơ hơ, sá gì cái nóng do hiệu ứng ống xả bê tông lung tung này. Mà là câu chuyện cùng họ. Chính là trước họ mà tôi nhận ra thành phố này biến đổi, thành phố này đang tạo cho nó một lớp người riêng. Trẻ. Học nhiều và học ít. Nói ngọng. Liều lĩnh và cam chịu, cần cù. Trong cách sống của họ có không ít điều với người Hà Nội cũ dường như chưa ngấu, chưa nhuyễn. Nhưng quả thật, chính là họ đang làm nên một phần rất cơ bản gương mặt của phố hôm nay.

Đúng là thế. Miếng xôi xéo sáng nay tôi vừa ăn không thoảng vị lá sen già, vì đựng trong hộp xốp. Vẫn cứ tưởng do một ban tay đàn bà phố nhỏ làm ra. Mà không phải, do một cặp vợ chồng trẻ người tận Đông Anh ngày ngày nấu, chở sang Hà Nội. Cứ lầm lũi hăm hở thế, mỗi ngày họ nhồi veo veo vào bụng người Hà Nội mấy thúng xôi xéo xôi vò, là cái miếng ngon một thuở tưởng chỉ đất này mới có. Ngọn rau thơm nhỏ nhỏ, vị không thật đậm, nhưng đúng là rau thơm Láng, cầm lên tay tần ngần biết chẳng còn được trồng đất cũ. Ở đâu? Chắc Giang Biên Đông Dư gì đấy. Bà chị gái, dạy học trường Láng Hạ thản nhiên giảng giải. Tấc đất tâc đô rô (đo la, euro), ai điên để đất trồng rau rồi ngồi khóc với trời mưa trời nắng. Chợt nhớ một ngày xa xôi lắm một lũ con gái con trai học trò Hà Nội phải đi lao động, thực tế là sang quấy nhiễu bà con nông dân hợp tác xã Giang Biên. Cả lớp quây quần bên một luống đất đã được cào xới tinh tươm, trêu chòng nhau cho quên đói, chờ đến lúc được thót lên xe qua cầu Long Biên ngược về với phố. Đằng xa kia, trên cánh đồng mênh mông gió, những dáng người hì hụi úp mặt vào đất. Sau này nghĩ lại cái sự đi lao động của mình và của các phụ mẫu, cả lũ đều cười. Rồi, kinh ngạc. Có một thời như vậy thật sao? Chỉ vục tay vào đất, chỉ quai búa, đục, khoan… mới được quyền tự hào công khai. Nhưng, vinh quang mà thiếu đói. Nhưng, từ đó, không ai được yên thân với công việc của chính mình. Nên mới có niềm vui quái gở cơ quan bộ này lôi nhau đi trồng sắn cơ quan bộ khác lôi nhau đi trồng rau, để cuối mùa chia nhau củ sắn dài ngoằng nhỉnh hơn củ sâm Triều Tiên, và dăm ba mớ rau cằn.

Chợt tưởng như mình còn đang đứng giữa cánh đồng mưa phùn gió lạnh đằng sau khu vực trường Đảng, thời sinh viên, dịp học quân sự, cười sằng sặc với nhau vì câu ca dao về vườn cây của các học viên trường này không biết đứa nào mới sưu tầm hoan hô các cụ trồng cây mười cây chết chín một cây gật gù thế là các cháu ta mù mười cây chết cả gật gù ở … chỗ nào. Ôi những nụ cười tím. Vì rét. Mấy đứa bạn sinh viên người vùng xa lúc nào cũng chỉ thấy mặc có hai cái áo cánh, tay săn nổi da gà. Cái lạnh một thời, lạnh từ trong ruột lạnh ra, lạnh run chân, vì đói. Giờ ai nhớ?

Vườn cây xưa dĩ nhiên không còn nữa. Con đường qua đó dẫn về dốc Bưởi ngày xưa không tên cô đơn trong trưa trong chiều bây giờ xe cộ gầm gào và mang tên một lãnh tụ Đảng hi sinh từ hồi bóng tối. Nhà cửa mọc lên kín mít. Đất ở đó chắc vào hàng đắt nhất Hà Nội. Không thể không trầm trồ vì vẻ đẹp, và trước hết là giá trị tiền bạc của từng ngôi nhà, và sau đó, lực tiền lực bạc của chủ nhân. Nhưng cũng không thể phân biệt được kiến trúc của cả quần thể. Thời nào? Có mái vòm mái chóp. Có cột tròn cột thẳng. Cái giống nhau duy nhất là cửa sổ nhà nào cũng lắp chấn song sắt rất chắc. Kiến trúc thời nào đây? Vài mươi năm sau liệu điều này có là câu hỏi cho các sinh viên trường Kiến trúc? Chắc là không! Anh bạn kiến trúc sư cười khì khì. Phá rồi xây là điệp khúc bài ca xây dựng của dân mình mà, khi quy hoạch loạn cào cào thế này và giấy phép xây dựng được cấp không theo quy hoạch mà …

Có thể! Tôi vừa được một người bạn cũ mời tới thăm nhà. Ngôi nhà cũ, rất đẹp được xây cách đây chưa đầy hai mươi năm vừa bị đập bỏ xây mới. Mạnh nhỉ – Tôi trầm trồ. Mạnh gì – Bà mẹ già của anh bạn mau mắn trả lời – Thế thời phải thế thôi cháu ạ. Ngày trước, nhà cô cao hơn mặt đường gần một mét, rồi đất lún, tôn đường, nền nhà thấp hơn mặt đường cũng gần một mét, những ngày mưa…

5.

Ơi chao những ngày mưa Hà Nội. Khi viết cuốn Gió tự thời khuất mặt, dường như tôi đọc thẳng từ gan ruột mình ra mấy câu này: Buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua – Trên bước chân em âm thầm lá đổ. “Những chuyến mưa qua…” Phải. Hà Nội mùa này nhiều mưa lắm… Những cơn mưa buộc người ta ngồi lại, lặng lẽ nơi này, để, đôi khi, chỉ đôi khi thôi mà lòng đau đớn mãi. “Nhìn lại lại mình đời đã xanh rêu”. Như không phải là mình viết nữa, mà là thời gian đục thẳng vào tâm hồn chúng tôi. Đau. Và rất chậm.

Mưa hôm nay trên phố phường Hà Nội khác quá những cơn mưa ngày tháng cũ. Trước cơn mưa không có cái lặng phắc của cây lá, không có cái nhịp điệu nhanh dần của những vòng bánh xe đạp quay quay, không có cái cảm giác gió lùa tóc bên vai, mơn man má nhỏ. Sau cơn mưa thiếu tiếng ve hớt hải gọi mặt trời về, thiếu những giọt mồ côi rơi từ lá rũ, trên hết, thiếu cảm giác thanh sạch, trong veo, nhẹ bỗng, tưởng chừng có thể bay lên.

Mưa hôm nay trên phố phường Hà Nội khác quá những cơn mưa ngày tháng cũ. Giống cơn mưa Sài Gòn. Sầm sập. Rào rạt. Một ngày nào xa xôi lắm tôi đã giang tay giữa một cơn mưa như thế. Hai mươi mấy năm rồi. Ngày đó cái áo đi mưa của người Sài Gòn còn là ao ước của dân Hà Nội, vốn quen chỉ có hai tấm nilon choàng trước choàng sau làm phép, nói thật, với bọn con gái chúng tôi chỉ có độc tác dụng che đôi vú hùng dũng nhô lên sau lớp áo mỏng ướt sũng. Trên một con đường Sài Gòn năm đó có một dáng con gái váy áo trắng tinh lướt thướt phóng xe máy trong mưa, hệt một cô dâu chạy trốn khỏi phòng cưới trong một bộ phim Triều Tiên Hồng Kong gì đó ngày nào cũng được phát trên sóng ở Việt Nam. Diễm My! Diễm My! Có bác xích lô Sài Gòn nào hân hoan. Cơn mưa phương Nam gắn với tôi hai mươi mấy năm qua cùng gương mặt người đàn bà cực kì khả ái quyến vờn cả nước khi đó.

Cơn mưa Hà Nội của chúng tôi cũng hân hoan, theo một cách khác. Lặng lẽ và dịu dàng. Tôi, vốn không phì nhiêu trong thời con gái, vốn khổ vì bệnh nắng mưa, mà vẫn cứ liều lĩnh tự thỏa mãn mình bằng cái thú đi chơi trong đêm mưa, ngang nhiên bước giữa lòng phố. Cùng hai người bạn cũng hâm dở như tôi. Một đứa con gái, hai thằng con trai, chúi trong một tấm nilon được sáu bàn tay cùng giữ mà vẫn phồng lên, chỉ chực bay như một cánh buồm giữa phố. Hình như chúng tôi không nói gì. Hình như mưa to lắm. Hình như bắp chân tôi ngứa ran vì mưa. Mưa dập dồn ca hát trên tấm nilon. Lòng chúng tôi ca hát. Hình như bàn tay tôi chạm vào tay ai, nóng bỏng mà ướt át … Ơi chúng mình ơi!

Nam thanh nữ tú bây giờ có muốn điên như chúng tôi ngày xưa cũng không thể nào điên nổi. Con mưa giông mưa trận ập về. Trên mọi ngả đường, dòng xe cộ lầm lụi trôi đi. Không dừng. Không chậm. Mưa không át nổi tiếng động kinh hoàng vọng lên từ dưới phố, có chăng, chỉ làm ngắt quãng được cái giai điệu ẽo ợt chẳng biết dân ca quan họ nước nào vọng ra từ nhà hàng xóm. Mấy hôm đầu nửa mê nửa tỉnh, tôi ngỡ nhạc phim Triều Tiên Trung Hoa Banglades gì đó. Nghe mãi mới ra bốn chữ nước mắt tuôn rơi. Chắc là cái người ta gọi nhạc não tình nhạc thị trường gì đây. Cười thầm hồi chiến tranh giả dụ cái thứ nhạc này được phép phổ biến, chứ không phải ta vượt trên đỉnh núi cao Trường Sơn đá mòn mà đôi gót không mòn  ta đi nhằm phương nam ta về quê hương quân về trong gió đang dâng triều lên… (Bước chân trên dải Trường Sơn – Vũ Trọng Hối) thì cầm chắc miền Nam thắng. Nhưng, giả dụ là như thế, với cái não trạng không đi cùng tao thì là kẻ thù của tao của rất nhiều người Việt chúng ta, Việt Nam hôm nay sẽ như thế nào?

Thắt ruột vì một câu thơ Lưu Quang Vũ viết từ 1972, trên đất nước thời giông bão. Người ta còn muốn gì người nữa  – Việt Nam ơi? Bởi vì tỉnh với quê hôm nay, những cảnh đời hôm nay, dù khác, vẫn còn nguyên đó cái vất vả và thương khó. Trong mưa, nỗi đó thêm nhọc nhằn.

Đây, một góc chợ chiều. Hàng quán rũ liệt không có người vào ra chao chát. Mưa gõ trên mái nilon, mưa hắt thẳng vào sạp hàng xanh xanh đỏ đỏ toàn đồ Trung quốc rẻ tiền bày ra trong cái chái vẩy thêm từ một căn hộ chung cư cũ. Cô hàng thịt quay luống cuống kéo tấm nilon che nơi đứng bán. Chị hàng rau người teo nhách khép nép đứng ghé dưới mái quán ăn. Có con bé hôm trước vừa bán cho tôi mấy quả dứa vừa kể chuyện tranh thủ đi buôn vặt thế này mấy tháng hè, hi vọng sang năm bố mẹ không bảo thôi con nghỉ học tùm hum trong cái áo mưa đứng như trời trồng bên cạnh chiếc xe đạp kềnh càng hai sọt hàng. Nó dân ở Phùng, nó học ở chính cái trường huyện tôi bắt đầu kiếp nhà giáo nhà nghèo của mình. Qua Diễn qua Nhổn qua Trôi Đăm là tới, chỉ cách Bờ Hồ chừng 30 cây số, có thời nhập tách và bây giờ lại nhập về Hà Nội. Quê ông Quang Dũng Tây Tiến đấy, người có câu thơ không hiểu vì sao tôi cứ muốn nhớ thành “chiều xanh không thấy đáy Ba Vì”.

Trong mưa, tôi nghe thấy một lời mời. Ngoảnh lại: người lái xe ôm tùm hụp trong cái áo mưa xám nhờ, chỉ thấy mắt chẳng biết già hay trẻ, ngồi trên cái xe ôm chân co chân duỗi. Y như con cò gầy. Cái cò đi đón cơn mưa … Con cò mày đi ăn đêm… Cái cò lặn lội bờ sông…

Chúng tôi cũng đang đứng trên một bờ sông. Sông Tô Lịch nuốt chửng bụng nước phì xuống từ trời, phềnh lên chiếm lĩnh hai bờ. Mùi nước sông nồng nặc trộn với mùi rác từ ngõ chợ, quẩn rõ mùi vỏ mít nẫu dưới nắng nay rã dần trong mưa. Một anh chàng đứng dé chân chèo trong cửa tiệm Internet cách mặt con sông đen chưa đầy hai mét đang đùng đùng đoàng đoàng trò chơi game gì đó, khoái chí điều gì cười hầng hậc rồi văng tục. Cực kì sảng khoái. Có phải vì nóng nung người nay được trận mưa chăng?

Sự sống là thế ư? Cứ than ngán ngẩm hoài với nhau, mà chẳng bao giờ chán sống.

6.

Nhưng thật ra, khi phải vật vã với cơm áo hàng ngày, người ta chẳng than van. Có mệt vì áo cơm đến mức khùng lên, nói bằng ngôn ngữ của tuổi trẻ thời nay là chán (đến mức) cứt chẳng buồn ăn thì người ta cũng chỉ chửi rủa dăm ba câu một mình nếu chưa tìm ra đối tác để gây hấn, chứ thật ra chẳng thấy ai ngồi ngẫm ngợi với nhau về ý nghĩa tồn sinh như mấy anh ra tiền. 

Chẳng hạn như cậu bạn thân của tôi.

Cứ ngồi cười khành khạch với nhau mỗi lần gặp mặt rằng may mà không lấy nhau chứ nếu không chẳng đứa nào biết thế nào là yêu, vậy mà quay trước quay sau đã ba mươi năm có lẻ là bạn, là cái tai nghe cho nhau những lúc gieo neo trong đời. Tôi lẩn thẩn đến giờ vẫn chỉ biết có một… – thôi, nhớ cái câu cực hay của bà lão nhà quê trong Bài học nông thôn của Nguyễn Huy Thiệp mà không dám dẫn, kẻo lại bị cho là (hì hì) – , còn bạn, hai đời vợ, mấy dòng con, vậy mà cái tình dành cho nhau vẫn vẹn nguyên cái tình tuổi học trò vô tư lự.

Đến thăm bạn ở khu Nam Thăng Long, hay còn gọi là Ciputra, thú thật là tôi choáng vì sự giàu có của ông bạn cũ. Nằm trên đất Phú Thượng gần hồ Tây, khu nhà rất hay được lên báo này giống hệt một góc phố ở một nước châu Âu nào đó, có điều hoành tráng hơn nhiều. Và có vẻ mới nỏi hơn nhiều. Thật, làm gì có một khu phố nào ở châu Âu dành cho dân, kể cả trên tiền, lại có cả đàn ngựa đúc đồng lồng lên với trời cao ở đầu phố cuối phố. Làm gì có khu dân cư nào ở châu Âu có người gác và người đi tuần ngày đêm như ở đây. Hệt những quãng phố ở khu Ba Đình thuộc diện bảo mật, như Nguyễn Cảnh Chân, Phan Đình Phùng, Hoàng Diệu… Những biệt thự nằm bên nhau, tĩnh lặng. Những chiếc xe ô tô Mercedes bóng lộn, thù lù trong ga ra. Rồi dây leo, tán cọ thập thò vượt tường. Có cái gì đó chuẩn mực đến thành không thực. Càng không thực khi phố xá trong khu đó gần như không có bóng người ngoài đôi ba bóng đồng phục đi tuần. Ngoài kia, con đường Lạc Long Quân đang mở, xe cộ gầm gào, các gia đình mới chòi được ra mặt đường thi nhau xây nhà cao cao mãi, lởm chởm, quê mùa, hoạnh tiền, đầy vẻ thị xã tỉnh lẻ, bụi mờ mịt chỉ chực một cơn mưa đổ xuống để đáp trở lại mặt đất và biến thành bùn. Nắng lóa mắt và trời thì xanh. Vô ưu.

Gặp, chòng nhau tiếc không lấy nhau để được làm đại gia bà trước ống kính camera của đương kim chồng, mà lòng xót cho bạn quá. Già, béo, xệ ra. Ông chồng tôi đùa sao giống cựu thủ tướng Nam Triều Tiên. Còn tôi thầm nghĩ sao bạn mình giống hệt một tay viên chức cao cấp ở một cái hãng nổi tiếng nào của Nhật sắp tự tử vì căng thẳng. Có thể là tôi còn bị ám ảnh bởi câu chuyện dài về đường trường làm ăn của bạn mình bốn năm về trước. Chuyên môn giỏi? Chưa đủ! Đào tạo tại nước ngoài? Chưa đủ! Còn phải biết. Biết gì? Bạn cười khì khì. “Ngày xưa ở Nga viết thư cho Hà, toàn những chuyện đi dạo trên bờ sông Neva, xem lá mùa thu trong vườn ở Leningrad, nghe hòa nhạc ở Riga. Bây giờ thì là gói thầu, dự án, đối tác, những cuộc nhậu nhẹt và những chuyến bay… Bây giờ mình biết uống rượu rồi. Gan nát hết vì rượu. Nhưng không thế thì không làm ăn gì được.”

Một ngày sau buổi gặp gỡ đó bốn năm trước, tôi đi Hải Phòng. Trở lại Hà Nội, chui vào ngự trong cái xe chẳng biết mấy trăm ngàn euro của bạn, tôi đã cười khi bạn bảo “mấy hôm rồi không kịp nhớ ra Hà đang ở Việt Nam. Nếu không thì Hà đã chẳng ngồi yên ở Hải Phòng đâu. Ngỡ tình xưa nghĩa cũ chứ.“Chán quá. Chán đến không buồn cáu. Mình đã thu xếp tất cả đồ đạc ở phòng làm việc. Tính tung hê. Về nhà nằm, tự dưng nghe tiếng trẻ con léo nhéo ngoài phố, lại nhớ  mình còn con, mình không có quyền.. Nhưng … Như thế này mà là sống ư?“

Những đàn ông đang nháo nhào chạy xe, đang khuân vác, đang đào đất ngoài phố xa kia, những đàn bà đang nhớn nhác với gánh hàng đầu ngõ chợ, mặt mũi khắc khổ nhưng dễ cười hơn chúng tôi. Họ không biết có nỗi băn khoăn của bạn tôi, một đại gia: Như thế này mà là sống ư? Chỉ đơn giản là họ sống. Họ không có điều kiện để chọn lựa. Và sống với họ là làm sao đủ áo cơm, đủ tiền xây lại cái nhà, cho con ăn học.

Sống, với nhiều người, là còn hay được thở ra hít vào, đôi khi chỉ giản dị là như thế.

7.

Tôi lại lí sự mọn mất rồi. Sống không thở ra hít vào thì chẳng lẽ lại thở vào hít ra.

Cái sự thở hít sao cho cờ lờ xờ – CLC – chất lượng cao nay với nhiều người Hà Nội là rất quan trọng. Thành phố phình tướng ra, bao nhiêu con đường mới mở, các loại máy móc động cơ thi nhau gầm gào. Ô nhiễm âm thanh tạo cho mọi người khả năng nói to nghe nhỏ hay sao ấy. Khả năng mà tôi chưa có. Cứ phải nhấc điện thoại gọi hay trả lời là tôi luống cuống tìm chỗ để nghe. Lúc vào cầu thang máy đóng cửa một mình vi vu lên cao xuống thấp. Lúc chạy vào chỗ chẳng ai lại vào đó ăn hay nói. Lúc lao ra bãi đỗ ô tô. Nói chung, ở Việt Nam, chỗ này khá yên tĩnh vì lượng người có xe chưa được bao nhiêu… Chạy trốn âm thanh đã khó, chạy trốn không khí là bất khả. Ai có thể chấm dứt được cái sự thở ra hít vào. Sáng trưa chiều đêm mù mịt bụi, và khói, toả ra từ trăm ngàn ống xả xe máy gào rú trên đường. Trước khi tôi về thành phố còn bị phong tỏa bởi có nạn khói mù. Nguyên do đọc trên báo mạng thấy có nhiều, chẳng nhớ. Bà hàng xóm cao giọng giải thích tựu trung lại hoặc do nông dân ngoại thành đốt rạ sau khi hết vụ, hoặc do hiệu ứng thời tiết lung tung gì đó làm nghẹn mạch lưu thông không khí. Những ngày đó Hà Nội lúc nào cũng như lúc thành phố lên đèn giăng mù sương mùa thu ngày xưa, chỉ khác là nóng hực và khó thở. Ông anh rể hể hả may, chứ về đúng mấy hôm đó thì bọn mắt mờ chân chậm như vợ chồng con cái cô chú khéo không dắt díu nổi nhau qua đường. Bà chị gái thử giọng trước giờ đi dạy với chị hàng xóm, rằng nếu con bé (là tôi đấy, sáu mươi hai cân hơi và tuổi thì sắp đầu năm đít chơi vơi rồi) về vào đúng hôm có khói mù thì chắc mấy thằng bác sĩ phải bế thẳng từ sân bay vào bệnh viện cấp cứu. Bà chị thuộc loại du kích nhà ta ra thành phố, chẳng phân biệt được phương hướng, tưởng Nội Bài gần Trâu Qùy bệnh viện tâm thần, ra sức giảng giải tôi có nhiều bạn qúy là bác sĩ, kể cả bác sĩ ở Trâu Qùy, vào là được cứu chữa lập tức. Ơi giời, giá kể với ai có công cứu tử cũng phải lấy thân ra đền bồi thì tấm thân quả mít này biết xẻ bao nhiêu cho đủ.

Nhưng mà tôi đang đứng trên ban công một ngôi nhà cao tầng giữa Hà Nội bụi và khói bình thường. Không biết cái nơi một thuở vườn trong phố dù có đi bốn phương trời lòng vẫn nhớ này thở bằng lá phổi xanh sạch nào. Bây giờ. Những hàng cây thâm nghiêm trên phố cũ ngày xưa, những cơm nguội, những sao, những bằng lăng, phượng vĩ qua mùa hoa trông cằn cọc tội nghiệp bên vô thiên lủng nhà cao tầng mặt tiền hẹp nhảy hai bước là hết. Phố mới, cây vừa tròn bóng chưa lâu. Lại thêm giờ trên rất nhiều con đường mới mở chỉ thấy trồng cọ hay cau vua, không có bóng lá, nhang nhác những đại lộ Sài Gòn hay Los Angeles. Những làng quả làng hoa phía bắc thành phố, những Nghi Tàm Nhật Tân Quảng An Quảng Bá Xuân Đỉnh Xuân La giờ rối rít người xe, kín mít nhà cửa. Hồ ao thì ở cái nơi đất trên trời này đã được đắp được lấp. Những hồ ao tự nhiên mạn Đền Lừ, Ô Cầu Rền, Tương Mai, Quỳnh Lôi, Chùa Sét xưa nhiều khi chỉ phân cách nhau bằng con đường làng mảnh dẻ, đi qua sau mỗi trận mưa mà sơ ý hay cố ý làm trệch vòng bánh xe nhau một chút là đã có thể lăn ùm xuống với rau muống bè, nay không còn dấu tích. Hồ Tây, một chiều xưa hào hển chở tôi vượt dốc Yên Phụ, cô bạn ít khả năng tưởng tượng đã chỉ bảo “cứ đứng ở một góc hồ, tốt nhất phía đường Cổ Ngư, tháo kính rồi nhìn qua hồ sang bên kia, đằng nào mày cũng chả thấy nhà cửa đèn đóm gì, thế là coi như đã ra tới biển” nay bé tí hin, vì nhà cửa nêm san sát quanh hồ và cả vì mấy nhà hàng nổi. Thạch Lam giá còn sống ở cái nhà ven hồ Tây ngày xưa, dăm ba tuần gọi xe ben chở cho vài chuyến đất đóng kè đổ xuống thì khéo có thể gọi cả con từ Mỹ về cho hưởng thừa kế triệu đô không chừng. Ấy nhưng tưởng tượng này xúc phạm Thạch Lam rồi . Ông – Người Hà Nội của một Hà Nội nhã đến không thể nào nhã hơn thế, ông bỏ quá cho con.

Hà Nội hôm nay hừng hực sống. Hà Nội hôm nay không còn là đất của người đi nhẹ nói khẽ ăn ít no lâu. Hà Nội bụi và khói. Hà Nội bốc đủ thứ mùi đời. Trên mỗi bậc cầu thang ngôi nhà chung cư xập xệ này, phả vào tôi mùi hành tỏi phi, mùi cá rán, mùi canh măng nấu cá. Bước qua đường, mùi nước con sông hấp hối sát bên nhà, mùi chợ cóc xộc thẳng vào khứu giác. Cái chợ này ngày tôi ở nhà chưa có, thành hình chắc trên cơ sở cung cầu tự phát, họp ngay trên nền một trường mẫu giáo cũ, phình ra thu lại giữa các khối nhà. Một đồng nghiệp cũ của tôi hiện vẫn sống trong một trong các khối nhà đó. Cô bạn chung bàn với tôi thời cấp ba hiện đang thu mình sau sạp hàng tạp hóa ở đầu ngõ chợ đó. Với tác giả tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh và tác giả trường ca Trầm tích, nơi này cũng từng là một cõi đi về.

Tôi nhớ Nam Cao. Nhớ Điền của ông. Đã ngồi viết, giữa tiếng con khóc, tiếng vợ léo nhéo và cả tiếng chửi của người hàng xóm ban đêm mất gà. Sông Tô Lịch ngày ông còn vật vờ kiếp sống mòn trong ngôi trường tư ngoại ô chắc chắn chưa bốc mùi như bây giờ.

8.

Thế nên sự người Hà Nội chăm lo cho việc thở ra hít vào là rất bình thường. Có tiền thì xây nhà to để phòng rộng chơi bóng bàn tại gia, cuối tuần lên trang trại chơi trò nông dân nghiệp dư hay du ngoạn các vùng sinh thái, hay chơi gôn, hay chơi tennis, hay đi bơi trong bể bơi thuộc khách sạn năm sao, hay nhảy tàu bay bay tuốt qua châu Âu tránh nóng. Ít tiền hơn thì tập luyện quanh nhà. Đứng trên ban công nhà bà chị nhìn qua hồ Thành Công, giờ nào cũng như giờ nào tôi đều thấy người rồng rắn vì lí do sức khoẻ. Giữa một khu chung cư lớn, cũ, xập xệ như cái khu Thành Công này, hồ Thành Công xứng đáng là mắt ngọc. Nếu nó lóng lánh giữa một khu vườn lớn thì tuyệt lắm. Nhưng đất Hà Nội có giá thế này, cái hồ chỉ còn được bao quanh bởi một con đường nhỏ  nằm kề bên một vòng hoa cỏ nhỏ. Sát đó, là những biệt thự của abc, nhà múa hát (đám nghệ sĩ vừa ngồi cà phê với tôi gọi nhà hát ca múa nhạc Việt Nam thế), nhà của tổng công ti dầu khí và của các cơ quan xyj. Hôm trước, tôi thấy ở bảng tin phường dán một bài thơ của ông lão nào chẳng rõ, buồn bã vì nỗi hồ chưa bị lấp nhưng đất quanh hồ đều đã bị buôn đi bán lại, với câu kết kinh hoàng: hậu thế ơi hỏng mất rồi. Giờ thì không ai phải đối mặt với nỗi kinh hoàng này, vì bài thơ đã dĩ nhiên bị xé.

Ông anh rể cựu chiến binh của tôi, từng tây tiến thời chống Mỹ, đi qua mười năm tuổi trẻ ở chiến trường Pakhet, ôm một đống bệnh kể từ ngày đi từ trong rừng ra (chữ dùng của nhà văn Nguyễn Minh Châu) nên rất chú trọng giữ gìn sức khoẻ … cho vợ. Ngày nào cũng như ngày nào, cứ sáu giờ sáng và hai giờ chiều là ông anh đánh cái áo ba lỗ và quần cộc, dận giày đi ra hồ. Nóng chảy tất cả thế này, sáu giờ sáng… đã đành, nhưng sao lại hai giờ chiều? Ông anh ngửa mặt cười kha kha kha: Qua tuổi tầm bồ rồi cô ơi. Đường đêm phải dành cho người tính yêu thêm chứ? Thằng cháu hồi còn chưa đi học – tị – nạn ở xứ người (chữ này cũng không phải của tôi mà của nhà văn Dạ Ngân) chiều chiều cữ hai giờ là ra hồ chạy, giải thích cho bà cô ngố rằng giờ đó mới tạm thời vắng vẻ, đỡ phải thở hít mồ hôi người.

Buổi sáng, tôi theo ông anh xông ra hồ. Xe máy vè vè lướt qua cửa vườn lủng củng một dãy xe đẩy chuyên chở rác cái lành cái thủng, bốc mùi nồng nặc. Những chiếc khẩu trang được gỡ xuống. Đồ đạc tập luyện được tháo khỏi xe. Từ cửa nhà vệ sinh công cộng, một phụ nữ đứng nhìn ra, và đó là người duy nhất tôi thấy vẫn kín mít trong khẩu trang, hoàn toàn dửng dưng với đám đông hiên ngang hăng hái. Cũng phải! Quần quật mấy tiếng đồng hồ để làm sạch cái trạm luân chuyển lương thực thực phẩm này, cần quái gì chạy bộ cho gầy người hay dưỡng sinh. Vẽ.

Người nhất loạt đi theo một hướng dòng quanh hồ. Tôi nhận ra tức thì tinh thần thể dục ngày nay của dân mình có biểu hiện đậm đà qua tinh thần đi bộ, và đi kiểu này cũng dễ, ve vẩy nhẹ nhàng như đi chợ. Trẻ vừa đi vừa nghe nhạc. Già vừa đi vừa trầm ngâm. Một chị dáng mỡ màng trong bộ áo quần hoa phấp phới gió ban mai, tay khư khư ví, ý chừng tập xong quay về nhảo ngay ra cái chợ cóc họp sát bên hồ. Một ông chắc đã đi đủ chỉ tiêu ngày, dừng chân ở cái ghế đá trống, rút chiếc radio nhỏ nhỏ dò sóng, thảnh thơi chiếm ngự một đầu ghế. Một bà (chắc chắn không quen với ông) bám lấy đầu ghế bên kia, gắng gập người chổng mông làm một động tác cực khó với người đã trót để mình phì. Một bà khác đứng nhắm mắt dưỡng thần bên cạnh một đôi chíp hôi đang ngủ gật bên nhau như thể đã đi dạo suốt đêm. Rất hồn nhiên. Khác hẳn thời tôi ngày trước, chẳng ai cấm đoán nhưng đứa nào cũng ngượng nghịu mỗi lúc phải giơ chân giơ tay, kể cả lúc giơ tay hô quyết tâm quyết tâm. Tội ở mì gia công và hạt bo bo. No thì vẫn no, nhưng người ngợm cứ oải ra. Tập luyện nhằm mục đích giải trừ năng lượng là môn học xa xỉ với chúng tôi. Ngại. Đứa nào mà hăng hái thật thì nhất định là giống quái.

Người cứ đổ thêm vào dòng. Trước, sau, bên trái, bên phải, tay, chân, lưng, bụng. Ai cũng chăm chú và thành tâm. Tôi chưa từng thấy ở dân mình ý thức cá nhân, dám hết mình vì bản thân đẹp như thế này. Một thời hối thúc nhau “khoẻ vì nước kiến thiết quốc gia” cũng hớn hở đến thế này thôi chứ gì?

Bên lề cỏ, một mái tóc xác, một ánh mắt khô, một hàm răng hơi hô ngước lên. Hóa ra tôi suýt dẫm phải đống quần đùi áo cộc rẻ tiền vừa bày ra ngay lề cỏ, phục vụ tại chỗ bà con đi tập thể dục sớm của người đàn bà chắc ở quê ra. Tránh, tôi đụng phải một cánh tay rắn chắc vừa vung lên. Tiếng văng tục. May quá, anh chàng không để ý đến lời tôi xin lỗi mà còn mải bình luận với bạn về một đồng chí cầu thủ phường “hậu vệ gì mà đéo biết rê”, ngôn ngữ cực sống động.

Bước sát bên hai cậu chàng, hai ông bà có tuổi vừa vung tay vừa trò chuyện. Ông, trông rõ ra người quen nói lời gang thép khi xưa khoe thằng con trai đã tưởng phải nuôi báo cô một đời nay vừa chơi thêm một căn hộ cao cấp trên đường Hoàng Đạo Thúy và đổi xe năm chỗ lấy xe bảy chỗ. Bà, dáng cả đời cống hiến cho chồng con vô điều kiện, than mắc bệnh cao huyết áp vì thằng cháu biếng ăn, ngày nào cũng phải diễn trò bất đắc dĩ ôsin bế cháu bà bê bát, ông hát bài quần không có lấy áo ra mà phất có múa minh hoạ kèm theo, (lưu ý bạn đọc hát câu này theo giai điệu Tiến quân ca).

9.

Ông anh rể đã sốt ruột lắm rồi vì cái thói đi ngang tắt của tôi, vẫn phải rẽ theo cô em vợ dở hơi xuống con đường thấp tịt hẳn xuống chạy quanh hồ. Tiếng gì như tiếng cầu kinh, phát ra từ cái radio đặt trên lề cỏ. Một nhóm người đủ nam phụ lão ấu, (tôi tia ngay được một nhan sắc hom hem nhưng đoá n chắc có thời đẹp dã man và một nhan sắc khác ngon như trái na chưa mở mắt) đang đi một bài dưỡng sinh chậm theo hiệu lệnh phát ra từ đó. Nghe một hồi na ná tiếng Tàu, một hồi nữa có âm gì từa tựa như sung quá trong tiếng Việt. Tới đó thì tất cả co chân giơ một tay. Còn khi radio thì thào súng quả thì tất cả giơ hai tay. Không biết bài tập của môn phái nào. Tôi, nói chung dù rất khổ vì khả năng thở hít của bản thân, vẫn coi sự thở là tự nhiên như nhiên, khó thở thì cố mà thở, có bị làm sao thì sẽ tự an ủi chết trẻ khoẻ ma, không cứ làm ma khoẻ mà còn là ma đẹp, bảo tập dưỡng sinh tập trung vào từng hơi thở thì… Chịu. Nên rất thú vị đứng ngắm mọi người đang hết sức chăm chú vào từng động tác dưỡng sinh này.

Rồi mới miễn cưỡng đi tiếp theo ông anh rể cho hết một vòng hồ. Qua tòa nhà của tổng công ti dầu khí, thấy tấm biển đồng sáng choang:  Chứng nhận công trình kiến trúc tiêu biểu cho thời kì đổi mới. Mẹ kiếp, kiến trúc gì mà không tính tới quần thể, xây ngôi nhà to vật vưỡng thế này ngay sát hồ, khác gì lấy ngà voi lắp hàm người. Gửi tấm ảnh này qua Pháp cho một kiến trúc sư kì cựu, ông cũng kêu trời.

Ông anh rể khoát tay còn tấm biển nữa kia kìa. Nằm ở góc khuất, màu sắc rất kiểu cổ động Bờ Hồ, tấm biển của công đoàn cơ quan dầu khí kêu gọi việc hôm nay chớ để ngày mai. Chỉ vì mải tìm góc ngắm mà tôi sơ ý bước vào vạch cỏ cấm, bị cậu bảo vệ mặc đồng phục xanh quát một tiếng vãi cả linh hồn.

Thì đi, dưới chân tượng Indira Gandhi – bà thủ tướng Ấn Độ từng bị ám sát – rất nhiều người đang vẹo hông lắc cổ. Ôi giời. Bà Gandhi phải di tản về đây. Ngày trước, bà được rước về vườn hoa trước Ngân hàng nhà nước, sát ủy ban hành chính thành phố, to đẹp đàng hoàng hơn rất nhiều, lại còn được ngày đêm dõi nhìn ảnh Bác cực đại treo trên nóc nhà tiền. Nay, nơi đó cây cối được bạt đi khá nhiều để dựng tượng đài Lý Thái Tổ, chuyển chỗ cho bà cũng phải, nhưng ai lại xén một góc cái vườn hoa còi vốn đã bị xén gọt đủ vành để xây nhà cửa làm chỗ ở cho bà. Lại nhớ câu chuyện với đám nghệ sĩ hôm ngồi với nhau ở quán cà phê góc hồ. Bà vợ một nhạc sĩ bảo không biết người ta đút cái gì vào mồm ai mà được phép xây sướng phản cảm thế này, thế nào rồi bà Gandhi cũng phải sơ tán lần nữa, khéo lần này lên Hòa Lạc và Đào Anh Khánh ngồi cười cười lắng nghe, dáng rất quái.

Chắc hẳn đã phát ngấy cô em vợ cứ đi một bước lại dừng một bước ngó ngoáy cổ nhìn nhìn ngó ngó, ông anh rể đem tôi bỏ ở chỗ náo động nhất hồ. Trước mặt tôi, một đám đông có lẽ gần trăm người đứng trong vòng quây của rất nhiều làn nhựa xanh xanh đỏ đỏ đang say sưa tập dưỡng sinh theo một tấu khúc chắc chắn Trung Hoa. Tới gần, tôi mới biết đó là các làn đựng đạo cụ tập luyện. Tiếng Tàu, phát từ cái loa đại của một hàng bán nước mía nghe chói lói íí a ìa aa sức mạnh thần công hây và tất cả mọi người lại chân co chân duỗi lao về phía trước trong tư thế xông tới, tay xỉa thẳng gáy người đứng trước, những cái quạt lụa đỏ rực đồng loạt xòe ra nghe pạch một cái giật mình. Bất chợt nghĩ sự hăng say này, sự hết mình này nếu không giải tỏa qua tinh thần thể dục thì…

Sức mạnh thần công đột ngột bị át đi bởi giai điệu Xibone. Như nước. Như lửa. Xì bô nê bố tây đen mẹ tây đen đẻ ra con cũng đen sì ngày xưa chúng tôi âm ư hát nhại, tưởng mình là Vân Khánh mặt vuông giọng hát khàn hoang dại. Ngày xưa Hà Nội chiều mùa hạ phảng phất mùi ổi chín, hương sen, loa truyền thanh vang vang, Vân Khánh say đắm Xibone, Ái Vân thiết tha triệu triệu bông hồng, Ngọc Tân gặp nhau trên bến cảng ta cầm tay nhau nghe trong lòng xao xuyến ôi đất nước… Ôi đất nước!

Lạc chân sang với Xibone, tôi đứng sững. Khiêu vũ lúc bình minh! Cái này mới thực là đặc sản Hà Nội Mới đây. Nếu là hướng dẫn viên du lịch cho dân nước ngoài, thế nào tôi cũng dựng cổ khách dậy cho ra đây ngắm. Một chị áo dạ hội xẻ tà cao tận thắt lưng, lưng áo sũng mồ hôi, mê mệt trong vòng quay cùng một bác già già quần đùi giày đông bóng loáng. Hai chị đỡ vai nhau tiến tiến lùi lùi, quần ngố áo hai dây, mặt mũi căng thẳng và rạng rỡ tập trung hết mình cho điệu nhảy. Một chị khác dáng trẻ trẻ như tôi váy ngắn tới lim giơ cao hai tay say sưa trong một vòng xoay bốc lửa, váy cũng bốc. Xibone lịm tắt, tất cả rời sàn nhảy, là mặt đất cỏ trụi vì những bàn chân quần đảo, ra tạm nghỉ trên những vỏ cây thuốc vinataba đập bẹp, đặt rải rác cùng với rất nhiều quạt nan. Một giai điệu khác trỗi lên. Thanh mát trong đêm trường ta xúm quanh… Em hỡi em , có một chiều… Xiberi. Sao hôm nay tôi lại được gặp tuổi trẻ của tôi nhiều như thế này. Một bác già già dáng dấp rất viên chức nghèo về hưu trước Đổi Mới xoè tay mời và tôi bước lùi, chối từ bằng một câu rất chướng bố cháu có lẽ đang bế cháu ra tìm em.

Rời sàn nhảy độc đáo này, tôi rơi thẳng vào một lớp học khiêu vũ chay không nhạc ngay tại đó. Vũ sư, dáng dẻo như một bóng cậu, da đen nhẻm vì sáng chiều đều có mặt nơi đây đang ra lệnh qua máy tăng âm và chân tôi cuống lên. Bên cạnh tôi, một đàn bà, một đàn bà, một đàn ông, hai con gái say sưa luyện bước theo hiệu lệnh. Nhanh nhanh chậm … chậm… nhanh nhanh … bước xoay tròn … quả trám … ô vuông… đổi mới … nâng cao… nhanh nhanh chậm … chậm …

Gió sớm ngừng hắt mùi xe chở rác về phía chúng tôi. Mặt trời hớn hở chòi lên, rọi những tia đồng thau xuông mặt hồ chết sững. Tôi lại về với bờ sông Lừ bốc mùi hấp hối, với con. Sau lưng tôi, tiếng hô nhỏ dần đi… đổi mới… nâng cao… nhanh nhanh chậm… chậm…. Trước mặt tôi, một chiếc xe m

y lao tới.

10.

Làm cái thân đàn bà nghĩ rất là tội, rất đáng thương mình. Đến gọi là đi chơi cũng phải tay năm tay mười vì gia đình. Mà đã về đến Việt Nam thì sự vì gia đình phải nghĩ tới đầu tiên là chuyện đường âm. Chưa đưa được con về quê thăm mộ ông bà ông vải, nhận họ hàng, lòng không yên để đi nhởn trên dương thế.

Buổi sáng, gió lập thu như một ân huệ mênh mang vờn trên phố. Thằng cháu chồng, trộm vía, đã ngoại tứ tuần, đương kim giám đốc gì to lắm của tập đoàn than khoáng sản Việt Nam vè vè ô tô đến đón. Tốt nghiệp Mỏ Địa Chất và có thêm dăm ba cái bằng khác của nước ngoài, anh cháu tự tổng kết: Hoành nhất là cái bằng của Học viện Chính trị cao cấp cô ạ. Cô đừng tưởng cháu được bế vào đảng. Cũng sầy vẩy đấy. Cơ hội làm ăn mà. Cô thấy xe cháu được không. Mới mua tháng trước. Nhờ ơn Đảng và nhà nước đấy.

Hay thật, tôi để ý cái chữ tậu đã gần như mất hẳn trên môi người Việt. Ngày xưa tậu trâu tậutậu nhà tậu cửa, chữ tậu xuất hiện tronng những sự vụ trọng đại nhất của đời người. Bây giờ, cái nhà triệu đô triệu (eu) rô cũng chỉ nói là mua, nữa cái xe dăm ba chục ngàn đô rô.

Giữa một thành phố người như nêm của Hà Nội hôm nay, xe ô tô là chuyện phân đẳng cấp giữa người có của. Vừa vừa thì là xe Hàn Quốc. Cao cao thì, đấy, như cô diễn viên chân dài Tăng Thanh Hà, chơi luôn một con mẹc đời mới nhất – ông cháu vừa khai hóa cho cô chú vừa đưa xe luồn lách ra khỏi đê La Thành. Ba mươi năm trước, khi học sư phạm, tôi một ngày hai lần đi về trên con đê này. Tụt hẳn dưới chân đê là làng Hào Nam, đi qua chỉ thấy cây lá. Ngày hai buổi trước lúc lên giảng đường hay sau lúc tan trường, sinh viên đại học Thương Nghiệp, Sư Phạm, Giao Thông, Ngoại Thương, Ngoại Giao, tiên trường Múa công chúa Cao đẳng sư phạm Hà Nội 10 + 3 dập dìu xe đạp, tán nhau bằng tiếng Việt chen lẫn tiếng Nga, còn ngoài ra, con đê này vắng ngơ vắng ngắt. Đến nỗi cái gì xảy ra ở đó cũng là sự kiện. Ví như chuyện tôi giữa kì học quân sự, ban đêm phải vào trường vì bọn bạn báo động có báo động, mắt thị lực có 3/ 10 mà cứ đi theo cái đốm thuốc lá đỏ phía trước cũng lần được lên tới trường, chẳng bị làm sao. Ví như chuyện con lợn béo ục, phải nặng gấp ba lần tôi khi đó, mang trên lưng dòng chữ ESPANA kẻ bằng bàn tay chắc chắn là của họa sĩ nhân sự bóng đá thế giới năm đó ở Tây Ban Nha, oai vệ đi từ làng lên đê, ngáng trở con đường sinh viên của chúng tôi, buộc bọn con gái phải dừng xe đợi như đợi vẫy hoa một đồng chí lãnh đạo đảng nhà nước nước anh em nào, rất nhiều đứa cùng đi học một đường bây giờ vẫn nhắc.

Hà Nội giờ có những đoạn đường rất đẹp, chia làn đàng hoàng. Nhưng ông chồng tôi, vốn là người cầm lái vĩ đại của tôi khi ở châu Âu, vẫn không dám lái. Sợ chứ. Luồn lách trong dòng xe cộ trên phố khi trước mũi xe có chị đàn bà thản nhiên gánh một gánh toàn bát đĩa với nồi nước dùng sôi sùng sục băng qua đường? Đố! Mà ra khỏi thành phố, ngay ở chỗ cho chạy 50 km/giờ cũng không dám. Từng quãng, tự dưng lại có cái xe máy quay đầu, tự dưng lại có một đoàn người gồng gánh băng ngang, bốn năm trước tôi còn thấy người ta giúp nhau trèo qua rào ngăn hai làn ngược chiều, giờ thấy ngành giao thông đổi mới bằng cách phá luôn từng khúc để gây dễ cho dân. Ngại nhất là vụ trâu bò lừng lững đi trên đường, nghênh sừng sẵn sàng húc.

Con đường về quê Hưng Yên của ông chồng tôi cách Hà Nội chưa đầy 40km, nhưng phải đi áng chừng tiếng rưỡi. Xe đi qua những dãy phố mới hình thành sau khi mở đường. Đèn xanh đèn đỏ chỉ đường còn hiện đại hơn ở châu Âu, vì có thêm bảng báo từng giây đèn sẽ đổi màu. Từng đoạn từng đoạn, trụ sở những tổ hợp sản xuất, tập đoàn kinh tế Vinashin, Hòa Phát và vân vân hiện ra, rất hoành tráng. Cậu cháu hờ hững giữ tay lái, bảo: “để cháu giới thiệu với cô một chỗ rất hoành nữa, đố cô biết là gì”. Cô chịu. Hóa ra là trụ sở các cơ quan huyện nhà. Một dãy nhà nằm ven đường 5, không còn một chút dáng dấp nhà của cơ quan tỉnh huyện của ngày trước với bậc thềm dẫn lên hành lang rộng, với những cánh cửa chớp màu xanh, với những bụi cây cô tòng lá lốm đốm vàng hay đỏ sẫm chen lẫn hoa màu gà mặt trước. Trụ sở Ủy ban hành chính, trụ sở công an, chi cục thuế… các cơ quan huyện giờ đây là một dãy biệt thự cửa đóng kín. Có lẽ các phòng trong đó đều lắp máy điều hòa. Khác với các đoạn đường xe vừa đi qua, đoạn đường trước cửa cơ quan huyện không thấy ngập rác.

11.

Rác ở thành phố ê hề. Tưởng ra chỗ đất rộng người thưa đi một chút thì ít rác hơn một chút. Nhưng có phần kinh khiếp hơn. Khi chưa về tôi có đọc một bài về sự rác đồng quê, cũng tưởng chuyện đơn lẻ qua mồm nhà báo bị phóng đại. Hóa ra thật. Thành phố còn có nơi đổ rác theo quy định, có xe thu gom, có xe chở rác. Đi đâu không biết, chắc hẳn phải có nơi cũng theo quy định và cũng đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu vệ sinh của dân. Còn ở nông thôn, rác tự phát. Đi trên đường, từng lúc, gió lại hất tung những túi nilon và giấy từ bãi rác ven đồng. Đại họa cho ai nếu bờ ruộng nhà mình lại thành nơi đổ rác của thiên hạ, làm mùa thay vì nhặt cỏ thì giờ trước hết phải nhặt vỏ đồ hộp, túi nilon. Mà cũng nhặt làm sao hết khi rác ngày ngày được đổ vãi thế này. Rác chất chồng ngay dưới chân đèn xanh đèn đỏ, chân cột đèn cao áp. Còn bên cạnh, ở ranh giới các làn đường, những người đàn bà mặt bịt kín đứng tựa bên cái xe đạp thồ chất ngất không bánh mì thì hoa quả, vàng rộm, đỏ tươi, chẳng che đậy. Nhìn ra, rặt một giống đào tàu đẹp như đào nhựa, nhưng ăn rất nhạt và bở. Cô em họ chồng, chuyên môn phụ là cày cấy chuyên môn chính là buôn bán hoa quả thì khuyến cáo không nên ăn.

Quê chồng, cả hai vợ chồng sinh ra giữa lòng phố không có dịp về thăm nhiều, nhưng đây không phải lần đầu về quê, vậy mà tôi không tài nào nhận ra đường sá. Thứ nhất vì đường toàn ổ ma mút, nắng chan lửa mà nước từ cơn mưa nào vẫn vỗ ì oạp khi xe bò qua, y hệt xe qua ngầm sau trận bom thời chiến tranh. Thứ hai là đầu làng giờ mới nảy chợ cóc giống như Hà Nội. Cũng một chái nhà vẩy thêm, bà chủ ngồi ngó ra đường nắng, trước mặt là dăm ba cây cải bắp, một dúm rau thơm, ít quả mướp đắng, một mẹt rau muống rau cải các loại, khúc bí xanh, nắm nụ mướp. Đậu phụ và lòng lợn sống. Thịt tươi bày sàng và cá bơi trong chậu. Ôi chao, nhà quê giờ cũng nước sông gạo chợ thế này ư? Đồng đã xoay ra phố cả làng ư? Hỏi, cậu cháu bảo tất cả chỉ là để phục vụ các nhà may mắn chòi ra được mặt đường mở cửa hàng buôn bán và dăm ba nhà giàu trên tỉnh, các cụ già muốn vui thú điền viên bỏ phố về làng dưỡng già. Còn phần lớn dân làng, một thời thanh niên tứ tán về Quảng Ninh làm thuê, đi đào than thổ phỉ, không chết vì sập hầm thì cũng chết dần vì phổi nhiễm bụi, súc phổi ra nước đen như bồ hóng, nay, lên Hà Nội đi xây, chạy xe ôm, hoặc đem nhà thế chấp học tiếng Hàn, hi vọng sang làm thuê cho mấy bác Cao Li, rồi ngồi ôm món nợ cả trăm triệu vì bị bọn tuyển người lừa, vắt mũi đút miệng còn chẳng đủ, làm sao dám sống kiểu nước sông gạo chợ ngay trong làng.

Ai nghèo cứ nghèo, ai giàu cứ giàu. Mà không phải là chuyện giàu xó quê đâu nhé. Nếu cứ căn cứ vào con đường chạy giữa làng quê chồng tôi đây thì đố ai dám bảo nước mình nghèo. Biệt thự tơi tới mọc lên, kiểu cách cầu kì sang trọng. “Cái ngày bác mới lấy bác trai, về quê lần đầu còn đạp xe đạp, em cũng mới lấy vợ, xin ra bìa làng là chỗ này đây, nhìn quanh có độc hai vợ chồng son. Giờ thì lên ông lên bà rồi, còn cái chỗ này thì lại thành giữa làng – Cậu em con chú chồng hai mươi mấy năm làm từ công tác đoàn sang công tác đảng, chính quyền, có thời là phó chủ tịch kiêm trưởng công an xã, nay theo quy định mới về chức trách của nhà nước, trở lại giữ một đầu việc trưởng công an rầm rì kể. Hỏi chuyện công tác, bà vợ của ông em mau mắn: “Ấy nhà em ba bốn hôm rồi bị nghiện nó hành, phải đi với công an xã bên. May mà tóm được… Thỉnh thoảng rảnh rỗi thì lại đan quạt bác ạ.”

Thế mới biết đàn bà là giống dại, nghe thế phải ngoảnh nhìn chồng và được ông em hơn tuổi vừa lừ mắt cho vợ vừa giảng giải: “có mấy thằng nghiện quậy làng xóm quá, suốt ngày dân tố bị trộm, rình bắt được lần đầu nó vác ghế quăng lên mái nhà thủng cả ngói, tay còng số tám mà nó trèo tường trốn được mới tài. Bắt lần này là phải phối hợp công an mấy xã. Mà rồi cũng là bắt cóc bỏ đĩa thôi. Mình ở làng bắt con người ta giải đem nộp huyện để công an huyện thả. Nửa oán nửa ân, không ở làng không hiểu được cái khổ của quan làng kiểu như em.” Thế còn đan quạt, thời nay quạt máy cũng có từ quạt điện cho tới quạt pin, đến cái quạt nan vừa rồi tôi cũng thấy làm bằng da… Chồng cười phì phì còn ông em chồng ngượng nghịu thay cho cái sự chậm hiểu của bà chị dâu thì thỉnh thoảng họp nhau chơi bài cò con ấy mà bác.

12.

Cơ nghiệp của ông em bây giờ là bà vợ yếu, vừa ngồi nhà ôm cháu vừa bán cò con dăm ba cân thức ăn gia súc cho dân làng, cô con gái chồng con rồi đi làm xí nghiệp chưa đủ nuôi thân. Mảnh đất năm xưa vừa xin vừa lấn thêm nay cũng mới cắt ra bán bớt cho cậu út, vừa là anh em giúp nhau vừa là để có đồng ra đồng vào.

Ông chú chồng tôi, bố của mấy ông em vốn là hiệu trưởng trường cấp 2 của xã, cực kì đẹp trai (ở tuổi ngoài bảy mươi thì phải nói là cực kì kháu lão), dáng rất thi sĩ như người đời vẫn hình dung chứ không phải giống thi sĩ thật thường lệch thệch, thế nhưng suốt đời vất vả. Là học trò trở về làng vào thời kháng chiến, chỉ vì chuyện lí lịch một thời buổi mà phải lấy ngay nữ đồng chí dân quân mù chữ. May, bà thím dâu của tôi tính rất lành. Mà cũng không may, vợ lành quá, buông súng xuống cũng chỉ biết cầm lại cái hái cái liềm, bao nhiêu chuyện cơm áo gạo tiền cho bầy con toàn một tay chú. Lương không đủ sống, chú trồng chuối trồng khế, nuôi cá nuôi gà, kèm nhịn ăn, cho con ăn học. Lần này về, thím tôi đã mất, chú đã yếu nhiều, vừa phải giải tán đàn gà chọi tăng gia. Chú lòm khòm đi ra đi vào, giục ông con ngoài năm mươi tuổi hái bưởi, trẩy khế, ngắt một cái lá ngọc lan để gói cho chị mấy bông hoa mới nở, nói cười mừng rỡ vì đứa cháu trai sinh ra lớn lên ở Hà Nội, nửa đời người biệt xứ vẫn biết lùa vợ con về với quê làng. Buổi trưa, lúc cùng bầy con cháu đưa nhà tôi ra thắp hương ngoài nghĩa trang làng, ông chú rì rầm kể cho tôi nguyện ước cuồi cùng, “chú chỉ xin ông bà cho khoẻ mạnh một hai năm nữa… trước là để kịp sang cát cho thím, sau là xem thằng em đi bộ đội biên phòng về có sống được hay không”.

Một đời làm giáo làng, một đời răn dạy con người con mình. Thằng con đầu trưởng công an xã sợ ông bố già một phép. “Ông nhà em không nói nhiều, nhưng nói một câu bà con nghe một câu. Em ở làng, có định uống chén rượu người ta mời cũng phải nghĩ về ông sẽ nói gì, có bảo đừng làm cường hào đời mới, sống đất lề quê thói, phải biết đâu oán đâu ân mà cư xử sao cho ông không phải tránh mặt ai khi đi trên đường làng.”

Thằng con út của ông chú, ngày tôi về quê chồng lần đầu còn đang dong bò ngoài bờ thửa, nay đã vợ con, chồng thú y vợ nhân y làng, xây cái nhà to vật vưỡng bên cái nhà cũ kĩ của bố mẹ nhưng gần như suốt ngày ở cái nhà mặt đường, nơi có cái tủ kính mờ bụi chất đầy thuốc men cho lợn cho gà cho chó cho người, cứ băn khoăn mãi cái nỗi em chỉ ở được với bố em lúc đêm hôm, còn ngày thì ông bảo không muốn phiền con nào, từ ngày bà mất ông toàn ăn cơm hộp.

Chao ôi, đời mới, ông thầy giáo làng kiêm nông dân nghiệp dư có thể đặt cơm hộp để khỏi phải lọ mọ cơm niêu nước lọ trong cái chái bếp lúc nào cũng tanh bành vì con gà mái già nanh nọc. Nhưng nỗi lo toan cho cháu cho con cả đời người thì vẫn vậy. Đứa ở làng yên phận, còn đứa xuống bể đứa lên rừng. Không nói ra nhưng tôi biết ông thương bầy cháu ngoài đảo Cát Hải nhất nhà. Bố chúng nó, thằng con trai thứ của ông, bộ đội biên phòng, ngày ra đảo gặp mẹ nó, giờ đóng quân trên Daklak. Mỗi năm một lần về phép, giữ lễ về thăm cha rồi lại tốc ra đảo đón vợ con về ở với ông dăm ba ngày, rồi lại đem vợ con gửi ra đảo nhờ cậy ông bà ngoại. Gặp thằng em họ mặt mũi đen sắt, quân phục lúc nào cũng nồng nực mồ hôi, không hiểu sao tôi cứ nhớ có người đi lính hiền như đất – mùa hạ tưng bừng thương núi sông của Chính Hữu. Đất nước thời bình, cái tưng bừng của một thời buổi cả dân tộc rũ bùn đứng dậy sáng lòa (Nguyễn Đình Thi) không còn nữa. Chỉ còn toan lo sống và sống.

Buổi trưa nhà quê, đồng trống, gió nổi làm bó hương bốc đùng đùng. Ông bà mình về, bố mẹ cháu về đấy. Ông chú hoan hỉ trong niềm tin vào sự giao hòa âm dương. Tôi đứng ôm thằng con trong tay, nước mắt rưng rưng không sao kìm nổi. Chao ôi, có những đời người khổ và đẹp như vậy đấy, như đời ông lão đang đứng cùng tôi dưới gốc phi lao này. Sống, cực nhọc tận cùng, vẫn một lòng một dạ vì con, mong con giữ đạo thường, và vẫn hi vọng… khoẻ mạnh một hai năm nữa… trước là để kịp sang cát cho thím, sau là xem thằng em đi bộ đội biên phòng về có sống được hay không”.

Buổi chiều lên xe từ Lực Điền nơi chú ở sang Đồng Than quê ngoại chồng tôi, chú dúi vào tay tôi túi khế ngọt và gói hoa ngọc lan bọc trong lá, thắt sợi nilon vàng. Cứ ngỡ rơm khô. Thằng bé con từ trưa ra thăm mộ ông bà hăng hái bắt chước mọi người chắp tay lạy như bổ củi, nhoài khỏi tay mẹ theo ông, rồi lại cười tít mắt chắp tay lễ và ông chú cười “cha bố nó chứ… Thôi các cháu cho con đi… Lần sau …”

13.

Dẫu phải theo chồng thân phận gái – Đường về quê mẹ vẫn không quên… (Đoàn Văn Cừ)

Quên làm sao được. Quên làm sao cái tuổi lên năm lên bảy của mình. Quên làm sao những ngày trời cứ xanh vô ưu và bên dưới bầu trời kia, đứa bé gái là tôi nhìn dọc theo con đường quốc lộ kìn kìn người, có chú bộ đội trong hàng quân đang đi về phía Bình Đà giơ tay vẫy vẫy, có thằng bé con ngồi trong ghế mây chằng sau lưng mẹ suýt tuột khỏi xe đạp rơi xuống đường, hai bàn tay xinh như chiếc lá chua me đất vẫn cố vỗ vào nhau theo tiếng hát ngọng nghịu “bé bé bằng bông bé đi sơ tán bế em theo cùng bao giờ thống nhất cho bé về phố đông.” Sau này đọc lắm tự biết ngu nhiều, tôi thấy mình chỉ thật sự hiểu (bằng mọi cảm quan)  Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh và Có một đêm như thế của Phạm Thị Minh Thư. Cái vầng trăng màu đỏ bất an của Phạm Thị Minh Thư thật sự là màu trăng của một thế hệ thanh thiếu niên Hà Nội. Nỗi khắc khoải trước hồ Tây chiều bình an về một cơn gió phũ phàng nào sẽ thổi của Bảo Ninh cũng vậy, cũng là của một thế hệ học trò đất này. Chúng tôi lớn lên thời buổi ấy, tuổi thơ nào cũng gắn với niềm thương nhớ phố và với một vùng quê đêm nằm năm ở ngày sơ tán. Một đời người Việt, còn đôi khi bất chợt thèm nhớ một ngọn rau muống rau khoai, xác tép trong vò mắm, hạt ngô hạt nếp trong bát tương, quả cà muối xổi… là còn nặng nỗi quê người quê nhà. Quê mẹ tôi, đất Mọc Quan Nhân, nay đã xoay ra phố cả làng rồi. Đi trên phố Chính Kinh, chịu không biết đâu thuộc về giáp nào, chịu không tìm ra cái ngõ nhỏ thâm u bờ ruối dẫn tới ao đình gần nhà bà Trưởng Ái bác mẹ tôi. Hồi còn ở nhà, có dạo tôi đã toan tính mua mảnh đất ở quê mẹ xây nhà, rồi lại thôi, vì có người khuyên đất gần chùa, xây cao hơn chùa dù cách cả đầm sen cũng vẫn là không phải. Thế mà giờ, mái tam quan tủn hoẳn bên vô số nhà mái bằng mái lệch, xe đi qua không được chỉ được trỏ cũng khó nhìn ra.

Qua Mọc Quan Nhân, qua Ba La Bông Đỏ là vẫn đang trên đường tìm về với mảnh đất quê xưa có mái nhà tôi thơ dại lủi thủi vào ra với bà tôi. Nằm ngay đầu ngã ba sông Đáy và sông Nhuệ, ngả ngược Thác Bà ngả xuôi xuống Phù Lưu Tế, người đất làng này bao đời tự xưng mình là Kẻ Thá, không cần hiểu Thá là dòng tiếng cổ và do vậy mà có chữ Ba Thá quê mình.

Có những miền đất cứ như bị trời đày, rất khổ. Làng Ba Thá nằm ngay đầu cầu vắt ngang sông Đáy, dẫn về phía Miếu Môn trong chân núi. Khi những Mai Thảo, Nguyễn Tuân và bao nhiêu văn nghệ sĩ kháng chiến còn đang “… mơ thấy tiến về Hà Nội – Bao giờ sẽ về – Phố phường xưa gạch ngói ngang đường … Nhớ đêm ra đi đất trời bốc lửa – Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng – Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng…” bên chõng thịt chó bên mâm vịt cỏ đất Vân Đình cũng nằm ven sông Đáy thì Ba Thá đã là vùng tề, dân đã bị bắt đi phu xây lô cốt đầu cầu, du kích bị trói giật khuỷu tay đem ra mom sông ngay trước lô cốt bắn rồi xô xác thẳng xuống sông. Ông trẻ của tôi từng mất xác ở đó vào những ngày tháng đó. Cô họ tôi, nếu còn sống cũng đã ngoài bảy mươi, hòa bình về đi cắt cỏ gần lô cốt, liềm giật trúng mìn, vĩnh viễn tuổi mười ba. Và tôi, mấy chục năm sau, hết đạn bom nhưng chưa được về với phố cứ trưa trưa lần mò trong các khoang lô cốt ngửi cứt bò chán lại ra bò trên chạc cây nhãn cụ, nhắm mắt nghe nước thao thiết xoáy dưới mom sông. Đôi khi ta lắng nghe ta, như Trịnh, mới hiểu ra suốt đời người cô độc với người trăm sự cũng vì những đùm gói kí ức vụn ai khôn thì quăng bỏ này.

Ba Thá, cũng như toàn Hà Tây, mà xa xôi hơn thì gọi là tổng Hà Đông một thời bị kéo giật vào thành một cái tỉnh mới cùng với Sơn Tây, Hòa Bình gọi là Hà Sơn Bình, vẫn bị chúng tôi chòng ghẹo là Hà Sơn Buồn, nay được nâng đời thành Hà Nội. Thôi, khỏi bàn làm gì cái sự nước mình bé tí mà có cái thủ (đô) to tổ bố, chẳng giống ma nào và những sự đằng sau cái sự đó. Cái nước mình nó thế. Cái đêm Hoàng Ngọc Hiến qua nhà tôi, hổn hển hậm hực kể lại những điều trông thấy nghe thấy, và quăng ra cái câu này, tôi đã thì thào với quý chồng bố này chắc sẽ muôn năm.

Cái nước mình nó thế, nên quê tôi Hà Tây bây giờ thành Hà Nội. Tự ái dồn dập về cái sự văn hóa xứ Đoài việc quái gì phải cấy ghép với văn hóa thần kinh, tôi vẫn phì cười khi nghe mấy cô em họ kể chuyện ra tỉnh bán thịt lợn bị chê là nhà quê không biết gì, các cô vều môi ra mắng lại các chị chẳng qua là Hà Nội cũ chứ chúng em đây là người Hà Nội mới. Cũ mà hơn được mới a?

14.

Không biết có phải vì tình quê hay vì không biết lái xe mà tôi cứ tâm niệm rằng con đê men theo bốn làng Vân (Vân Nội Vân Ngoại Vân Xá Vân Đồng) về đất Ba Thá đẹp nhất nước, đẹp hơn cả con đê sông Đuống mà mỗi lần rời cầu Long Biên bò tới Yên Viên tôi lại sững sờ. Cậu lái xe thì lăm lăm tay lái, miệng liên hồi rủa, khi thì rủa anh lái cái xe chạy ngược chiều, qua chỗ vòng không giảm tốc độ như thằng muốn chết, lúc lại rủa con bò cái hông còn nguyên vết bùn hay bầy vịt núc ních thản nhiên lạch bạch trên bờ đê. Còn tôi chỉ thấy đẹp. Đẹp thật. Dưới kia là sông Đáy, của Mai Thảo Đêm giã từ Hà Nội, của Quang Dũng Đôi mắt người Sơn Tây, của Nguyễn Quang Thiều Hai người đàn bà xóm trại, của tôi. Bờ đê lướt thướt cỏ may uốn mình dưới nắng trưa như một người đàn bà được buổi vãn việc tự cho phép mình uể oải, vừa thơ vừa lẳng.

Nhà bà tôi, cách cầu chừng 30 mét mấy chục năm nay đã là nhà người khác. Tôi không đủ can đảm vào nhìn. Khác hết rồi, tất cả. Đầu cầu xưa trơ trọi cửa hàng hợp tác xã bán độc có diêm, muối, xà phòng hương lí hương chanh, chiều muộn có thêm dăm ba đàn bà trẻ mỏ mang mớ tép mớ tôm vừa đi hôi đi tát về bán lại, chỉ thật sự đông vui vào ngày phiên chợ một tháng đôi lần, nay quanh năm suốt tháng họp chợ. Có quán cháo lòng tiết canh. Có quán bún thịt chó bên quán gội sấy tóc. Con cháu họ mới lấy chồng vừa góp mặt đầu cầu bằng việc mở thêm quán karaoke, tự tính đêm về nhà quê biết đi đâu ăn chơi ngoài ra đầu cầu hóng gió, không thể nào lỗ được.Vẫn biết đó là chuyện cung cầu, nhưng vẫn thấy mất hết cả duyên quê đồng bằng Bắc Bộ. Cái sự tinh mơ mấy anh nông dân ra chợ ăn sáng như ở đồng bằng sông Tiền sông Hậu, hay đêm về gầy một cuộc lai rai với chiếc ghi ta là của độc đáng yêu của miền đất phương Nam thì ở phương Bắc bờ ruộng chỉ bằng mình con chó nằm ngang lại thấy kì kì.

Ngày đưa bà tôi về làng theo ý nguyện của bà, làng còn bé và bà tôi nằm một mình giữa cánh đồng, xa làng nhất họ. Bây giờ, ô tô lao thẳng ra đó, và tôi kinh ngạc thấy một ngôi nhà rất lớn chắn ngay đầu bờ, sát bên một ngôi mộ xây cực kì hoành tráng. Đất hẹp người đông, nay, làng đã lên đời, người làng nửa đêm bò dậy đã ra người Hà Nội cả, tấc đất tấc vàng, thành ra người sống lại nhào ra đồng chen chân cùng người chết. Thôi cũng được, âm dương giao hòa, sống với làng với nước, chết cũng với làng với nước, càng vui.

Mà nước mắt cứ ứa ra. Thắt ruột thương bà, ông đi kháng chiến hi sinh, gửi xương ở góc rừng Việt Bắc nào không sao tìm được, bà một thân góa bụa, từ Hà Nội về làng, thẻo đất chó ỉa cũng chẳng có, lệch vai tập cấy tập hái tập gồng tập gánh, chèo chống nuôi con. Rồi đến thời đạn bom chống Mỹ, lại lếch thếch dẫn bầy cháu đi sơ tán, tới đâu bà cũng xách theo cái bu nhốt con gà mái mắn đẻ và chục bát Trung Quốc mỏng tang, gắn chặt với ngày sống mà vẫn như tách rời khỏi ngày sống ấy để mơ về nơi xa lắm mà bà đã đi qua thời con gái. Bà không biết, đứa cháu của bà lớn lên nết ở hệt như bà, cho nhau cái gì cũng không băn khoăn mà lại tiếc lưng bát cơm thiu, cũng hệt như bà. Bà không biết, đứa cháu của bà từng viết trong nhật kí tuổi mười chín hai mươi của nó những dòng về ông về bà, may mà không ai biết: Có người trai của thời buổi ấy – Đã ra đi không trở lại bao giờ – Vợ ở lại một mình thành bà lão – Rồi một mình thành nấm mộ chơ vơ – Đấy lịch sử dân tộc tôi là thế – Thế hệ nào cũng trải những cơn đau – Trong khao khát đi qua thời gian khổ – Để yên lòng lo những chuyện mai sau – Chiến tranh đi qua như một phép màu – Người còn sống cô đơn hơn người khuất…

Nhưng đất nước ngày giông bão, chẳng lo chết chỉ lo sống, mấy ai ngồi nghĩ tới sự cô đơn. Có lúc nào rảnh rang, bà dẫn tôi qua nhà hàng xóm, vừa tẩn mẩn với âu trầu, các bà vừa nhắc lại chuyện ngày xưa, có lúc còn véo von cò lả chung một cảnh nghèo này ai ơi… thời đôi chúng ta chung một cảnh nghèo, rồi cười. Ngày ấy sao có lắm đàn bà con gái sống một mình, mà chỉ mãi sau này nhớn nhao rồi tôi mới nhận ra điều ấy.

15.

Từ mộ bà nhìn sâu vào những ngõ hẹp thấy toàn nhà to sân nhỏ. Không có việc bãi bỏ hợp tác xã, chắc khó có cảnh này. Khi tôi còn bé, chập tối áng chừng xong bữa cơm chiều là đầu các xóm kẻng vang lên, gọi người làm đồng đi họp tính điểm. Sân nhà nào cũng to hơn cái nhà, chưa tính sân hợp tác. Luật quật cả ngày, bà cô tôi, goá chồng từ năm hai sáu tuổi một nách nuôi bầy con bốn đứa, đi họp về đứng giữa sân chửi đổng cả ngày được 10 điểm tính ra bằng sáu lạng thóc ướt chó nó cũng đéo thèm làm, rồi lại ôm đứa em tôi khóc khi nó thỏ thẻ con cho u mười điểm toán của con, với lại con còn đi mót. Là một trong hai ba người đàn bà tần tảo nhất làng, dám tung hê công điểm, thuê người cấy rẽ từ hồi phong trào hợp tác xã còn đang vượng, bà tềnh tang quang gánh, đi buôn. Từ hạt cải tới bông, qua măng tươi măng khô, mùa nào thức nấy. Cứ nửa đêm là vục dậy ra ngõ thì thào gọi nhau, những người đàn bà làng tôi ngược xuôi từ Ba Thá vào Miếu Môn buôn bán đổi chác với bà con người Mường, lúc đi nhờ xe tải, lúc tắt rừng trốn phòng thuế, tiếng Mường choanh choách. Rất tài. Cái thời cán bộ công nhân viên còn chưa biết mặt đồng vàng thế nào, con gái bà đứa nào tai cũng khuyên cũng nụ lủng lẳng. Mấy mươi năm qua, những người đàn bà thế hệ cô tôi đã người còn ít hơn người mất, mắt mờ tai chậm, lại lần mò vào ra góc sân bờ hè ôm cháu ôm chắt cho người trẻ tuổi thay mình xốc vác. Và tính việc vẫn minh mẫn lạ kì.

Minh mẫn nhất là ngay từ buổi đầu phong trào hụi phong trào đề bùng nổ, bà cô tôi đã cảnh cáo bầy con dính vào còn khốn khổ hơn cụ ngày xưa nghiện thuốc phiện, trâu nghé gì cũng theo nhau chui tọt vào trong dọc tẩu cả. Nhưng mắng mỏ răn đe đàn con đã thành ông thành bà cũng bằng như lội ngược dòng. Tôi về, đứa em họ hơn chục năm trước phải phới khỏi ngôi nhà giữa xóm ra bìa làng mở quán bán cơm, đón khách ra vào bệnh viện tâm thần Hà Tây, nay mới hớn hở trở lại được. Cô giáp út nhà bà cô tôi, từng nhiều năm tranh với tôi chỗ nằm cạnh bà để sờ ti toàn da, nay vừa mất cả trăm triệu chạy cho thằng con đi Hàn Quốc và đang lăm le chơi đề bù lỗ, bị bà mẹ cấm cửa, nói cười với bà chị ở xa về mà mắt cứ lấm lét liếc bà mẹ già nghiêm khắc. Tôi ở xa về, bà cô hạ lệnh con cháu bỏ hết công việc ở nhà  nhận họ. Là hai thằng con tôi chưa ai biết mặt. Cả nhà râm ran vui mừng về sự đông đủ, cháu bế ông bác hai mươi tháng tuổi chạy khoe hết ngõ nọ ngõ kia. Phúc đức quá. Người thành phố, người đi xa tít trời Âu Mỹ nhiều khi không hiểu hết cái sự hoan hỉ này của người quê và cứ tưởng mình văn minh với ý tưởng cá nhân là rốn (của gì không biết), không để ý mình lẫn lộn văn minh thành ích kỉ, bo bo sống. Bất chợt giật mình.

Hỏi chuyện làm, cả nhà rổn rảng kể chuyện người làng thôi không đua nhau đi buôn gỗ như trước mà ra Hà Nội bán thịt lợn. Cô em họ ham đề đóm của tôi ngày ngày vi vu tay lái, phía trước là con lợn mổ phanh nhăn răng cười, phía sau có ông chồng ngồi, kẹp giữa là con lợn sống cứ xe vừa đi vừa ị. Đó chính là cô trều môi tuyên bố mình là người Hà Nội Mới.

Nhờ nghề gỗ và nghề buôn thịt lợn, rất nhiều người làng tôi xây biệt thự trong làng, mua nhà ở Hà Nội nuôi con ăn học. Mùa thi đại học năm nay, cả làng có tới 25 em thi đỗ. Hỏi học làm gì mấy trường đại học hàng tỉnh hàng huyện chất lượng như đùa để rồi lại lo thất nghiệp, cậu em họ cười khắc khổ: bác ở xa không biết chứ. Giờ chẳng làm người nhà nước nữa nhưng cứ rút được chân ra khỏi ruộng, có lương có bảo hiểm là hơn. Nhà nào có của ăn của để con không học được thì đành chịu, chứ con còn chịu đèn sách thì bán nhà bán đất cho con học rồi ở lại trên tỉnh làm văn phòng vẫn là sướng nhất.

Sau bữa cơm trưa ngon lành vì có món măng vầu tươi thật chứ không phải tươi nhờ hóa chất ( khó kiếm ở cái làng làm làm nghề buôn măng bao đời này) đứa cháu họ dẫn tôi vào thăm bếp. Không còn rơm rạ, không còn chạn bát, không còn chuồng lợn gà kề bên, bếp nhà quê bây giờ là bếp ga, tủ lạnh chạy ro ro, ruồi muỗi đi định cư nơi khác. Vòi nước chảy ào ào. Không phải nước gánh từ sông lên. Đứa cháu cười bảo sông Đáy đang chết dần, bến sông ngày nào bố mẹ nó và tôi vùng vẫy mỗi chiều có dạo là nơi cho cả xóm đổ rác và bến sông nào ở khúc sông nào qua làng cũng vậy. Nhớ, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều than Sông Đáy người ta thả rau muống bè rồi em ơi. Nhớ, Quang Dũng dặm dài kháng chiến vẫn đau đáu Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc. Nhớ, một dòng trong có thể nhìn thấy cả con hến đang dò dẫm dưới lòng sâu, trưa tháng ba bà dắt cháu ra cào hến, thẳng lưng nhìn về xuôi và lại nhắc cái ngày son rỗi bà về làng theo chúng bạn mang theo thúng bánh giày, ra bến sông này gọi đò dọc xuôi về Bến Đục, vãng cảnh chùa Hương hết cả giêng hai.

Sông không lành nữa. Người ven sông cũng không lành nữa. Hăm hở, hừng hực sống. Rồi lại rủ nhau tự tàn phá đời sống của mình. Cô em ham đề đóm bần thần kể chuyện bọn em ở nhà làm cả làng được lên ti vi bác ạ. Hỏi, tất cả lại ào ào giảng giải cho tôi bằng cái giọng chỉ người vùng này mới có, giọng Kẻ Thá, âm e nghe bẹp như bất kể người ở đâu quanh quanh cái mảnh đất một thời được phong là Hà Tây quê lụa cửa ngõ Thủ Đô này, và dấu huyền thì nói cao dấu sắc thì nói thấp, réo ra réo rắt.

Vâng, người quê tôi hôm nay nổi tiếng vì cả làng có những lúc chỉ lo nuôi độc con… Số Một, hi vọng bõ công ăn, vì phụ nữ trong làng xắn quần chạy theo số đề, có lúc làm chồng con thất điên bát đảo. Nhưng đất này vẫn còn phiên chợ Thá, vẫn còn dòng sông đang chết dần kia nhất định phải có lúc hồi sinh, vẫn còn đám đàn ông dám quật mình vào việc làm ăn tận trên rừng trên rú, vẫn còn đám đàn bà xốc vác nửa đêm gà gáy kéo nhau ra bán thịt lợn ở hầu khắp các chợ cóc quanh quanh Hà Nội. Và những đứa trẻ, đã tập được thói quen thôi mang rác ra vứt rệ sông mà chờ xe rác tới gom theo quy định mới của xã.

Gần như là đơn độc, nhưng vẫn còn những ông lão bà lão như bà cô tôi, còn sống còn nhất quyết giữ cho làng một linh hồn. Như bao đời đã thế.

Tôi lại rời bà tôi, mừng tủi chia tay họ hàng, lên xe, qua con sông Đáy từng trong văn vắt nay đang chết dần bốc mùi không ai dám tắm, nghĩ tới một ngày về lại.

Biết đâu chừng lại được úp mặt vào lòng nhau. Sông ơi!

16.

Ở bên kia, đi nghỉ đúng là đi nghỉ, là những buổi nằm dài trên cát, hay lang thang trong rừng, là những bữa ăn sáng trưa chiều như ý, trong yên tịnh. Trên hết, là được thoát hẳn khỏi thế giới hàng ngày vẫn sống.

Nhưng nếu về Việt Nam, kì nghỉ sẽ là một cơn choáng kéo dài, vì nóng, vì ồn, vì bụi, vì hôm nay như đứt đoạn hẳn với ngày xưa, và toàn bộ kì nghỉ là một cố gắng tuyệt vọng để phục hiện lại cái ngày xưa sắp vô tăm tích đó.

Đó là lí do khiến tôi không nương nhẹ thằng con trai gần hết kì nghỉ vẫn chưa hết choáng, chỉ thích chui trong phòng máy lạnh đọc tin trên mạng. Đi chơi con có thể nói không. Nhưng có một số việc thì phải thoăn thoắt bò dậy theo bố mẹ.

Một trong những việc đó là đi thăm mộ bà ngoại của nó.

Với mẹ tôi, mấy chữ hồng nhan bạc phận đúng mà cũng vẫn là không hẳn vậy. Ba bảy tuổi, sống xong hai cuộc chiến tranh với Pháp với Mỹ cùng cả nước, mẹ tôi lên đường. Tháng 5. 1975, cả Hà Nội đổ ra đường mừng hết đánh nhau, mẹ tôi đi vào bệnh viện. Tháng 5. 1976, người khắp nơi dồn về Hà Nội xem duyệt binh bắn pháo hoa mừng thống nhất, mẹ tôi từ bệnh viện ra đi. Chỉ mãi sau này, tôi mới hiểu được lời bà tôi nói ngay trước ngày mẹ tôi đi mẹ mày chết thôi cũng là hết khổ.

Đường về thăm mẹ của tôi là đường lên, lên với Bất Bạt Yên Kì của cụ Tản Đà. Xe đi qua con đường xưa chị em tôi từng đi hàng ngày tới nơi học và dạy học. Qua Cầu Giấy. Qua Phùng. Qua Sơn. Qua Bún Thượng… Tây Đằng… Trung Hà… rồi Yên Kì Bất Bạt. Không còn gì như trong trí nhớ. Con đường xưa chạy giữa hai bờ lúa giờ khuôn lại bởi những dãy nhà phần lớn mới xây hoặc đang xây. Nhìn đã biết là tốn tiền nhiều của nhưng nhang nhác như nhau, bảo là Hà Nội cũng được, mà bảo là phố huyện tỉnh lẻ nào vừa đưa vào dự án quy hoạch phát triển cũng được. Cảm giác nơi nào cũng giống nơi nào này được tích cực củng cố bởi hàng loạt biểu ngữ căng khắp nơi, đặc biệt nhiều ở trục đường chính từng vùng. Thị xã Sơn Tây ra sức thi đua … Nhân dân Tây Đằng phấn khởi … Nhân dân Đan Phượng chào mừng… Rồi các khẩu hiệu kêu gọi nộp thuế, đẻ từ một cho tới hai con và cả Rèn luyện thân thể nâng cao sức khoẻ là làm theo gương Bác Hồ vĩ đại… đâu đâu cũng như Hà Nội đang đổi từng ngày và đâu đâu cũng rất quê mình, Hưng Yên cũng như Sơn Tây, không còn chút gì cái vẻ đẹp cổng thành đá ong nứt – hào trong soi bóng đầy nắng nghiêng chiều hoa lí – ngựa sững vó đầu làng-  mái gầy thơm nếp hương (Tô Hà), giá có bảo thường thôi quê Bác thì cũng … được.

Nhưng xe tôi dừng đây là đất Bất Bạt Yên Kì. Ba mươi ba năm kể từ mùa hạ đó. Ba mươi năm rồi mẹ tôi nằm lại nơi này – nghĩa trang Hà Nội.Thành phố của người khuất giờ đây đông đúc cũng y như thành phố của người đang sống, và cũng phân đẳng cấp giàu nghèo. Mộ chen chúc bên nhau, cao thấp, nhỏ to, đủ kích cỡ. Nhưng vẫn còn lại đó những ngôi mộ của mấy mươi năm trước, xây theo quy chuẩn, sụt lún như sắp lẫn vào trong cỏ. Nơi đây chỉ có người ở Hà Nội sau khi sang cát tụ về. Thắp nén hương cho những nấm mồ đơn độc không được chăm nom, lòng cứ quặn lên câu hỏi người thân của người dưới mộ bây giờ ở nơi đâu, không lẽ đã dắt nhau bỏ thành phố này biệt xứ và không có cơ tìm về?

Lòng quay quắt nỗi đau thiếu mẹ chỉ càng già càng mới hiểu. Mẹ, cùng bao người nằm đây đã đi qua những nông nỗi cơ cực nhất của một thời chiến tranh kèm bao cấp. Mẹ không đọc được trong nhật kí của con gái mẹ tuổi mười sáu những dòng này thịt tem gạo sổ ích gì máu xương của những người đi không về ta chiến thắng rồi nhưng thắng để làm chi? Nhưng như thế thật ra cũng tốt. Nếu biết trong đầu tôi từ cái tuổi ranh con ấy đã đầy ự những ý nghĩ kiểu này, có lẽ mẹ sẽ lo cho tôi suốt cả những kiếp sau, sau.

Những hàng bạch đàn tơ năm xưa nay đã lên hàng đại lão không chia được bóng mát cho tất cả người nằm dưới mộ. Năm từng năm, nghĩa trang lấn dần sang những quả đồi đá ong lúp xúp nơi đây, trở thành nới kiếm ăn quanh của dân Bất Bạt Yên Kì quê hương Tản Đà. Có dạo, dịch vụ vừa chăm sóc vừa khủng bố cả người chết lẫn người sống nơi này phát triển đến mức công an Hà Nội phải vào trận đánh dẹp. Lên thăm mộ mà không chi đẹp là y như người nhà mình nằm đây bị hành, đau hết cả lòng. Già trẻ lớn bé ở quanh quanh cứ lăm lăm cuốc quây xung quanh người vừa lên thăm mộ, kèo nèo, đòi hỏi, đe dọa. Cả một vùng văn hóa xứ Đoài bị tàn phá chỉ bởi con người phải vật lộn với miếng cơm ăn.

Nhưng bây giờ đất đã lành trở lại. Cô bé chăm nom ngôi mộ mẹ tôi theo lời nhờ cậy của gia đình vác cuốc đứng dưới gốc bạch đàn vẫy vẫy. Phía xa kia, núi Tản xanh mờ, đường viền trên đỉnh thẫm màu chàm, vừa thơ thới vừa đường bệ. Ve ran như là trong kí ức và tôi chia tay mẹ, trở về, mang theo tiếng ve xưa đã mất hoàn toàn giữa phố phường Hà Nội náo nhiệt hôm nay.

17.

Và lại rơi đánh phịch vào trong cái ồn ã chứa đầy sức sống tôi chưa cảm hết của những dãy phố mới thành hình. Trên cao biểu ngữ đỏ rực, dưới thấp biển báo mời chào đủ mọi màu sắc. Vịt nướng đi em bên cạnh lời mời Tắm thuốc bắc .Khoan cắt bê tông nằm sát Dịch vụ sản xuất thương binh nặng. Sát bên hàng Bánh tẻ quê hương nhân thịt lạc là tiệm Thời trang tóc Gối chăn ga Hàn Quốc. Hà Nội có khác chăng chỉ còn là mấy nhà hàng nhớn nhằm vào đám khách ngoại quốc hay đôi ba người có tiền chê nước dùng (miền Nam miền Trung gọi là nước lèo đây), nóng chảy mỡ nhưng ưa mì ống Ý ăn giữa không gian máy lạnh. Hàng ăn mở thẳng ra đường, hàng ở, tỉ như hàng tắm thuốc bắc kia thì cửa kính mờ đóng kín đáo. Những quán bia cỏ người ngồi ràn rạt làm thằng con tôi kinh ngạc kề sát bên phòng khám hay hiệu thuốc. Nếu cứ nhòm vào các nhà hàng kiểu này thì thấy dân mình sướng kinh khủng, chỉ thấy ăn và uống, sự ăn uống đã trở thành cả một công nghệ cực kì phát triển. Nhưng cậu lái xe thì khuyến cáo tôi hãy gắng nhìn qua những khe kẽ ở mặt phố ra phía sau. Phía sau, giữa Hà Nội, là những ngõ hẹp chi chít nhà và người, ở ngoại thành mới mở, là cánh đồng ruộng nước phấp phới bù nhìn, hàng rào nilon ngăn chuột và đôi ba bóng người lủi thủi dưới nắng. Từ trên xe nhìn ra, không còn nữa cánh đồng Phùng vừa được cày ải và tháo nước, con cua càng khó nhọc bò trên luống cày, nơi tôi đau đáu nhớ một Hà Nội vừa rời buổi sáng, chờ chuyến xe xuôi cùng bao nhiêu người đàn bà tần tảo với bịch xô màn nhà dệt, với khối mật mía nặng như bộc phá, với thịt chó, bu gà, dưa lê, thúng bún, thúng nem chua. Rất nhiều người trong số đó là học trò cũ của trường tôi, gặp nhau miệng chào cô ạ cô ạ tay dúi thẳng hàng hoá vào lòng cô hi vọng qua mắt phòng thuế để yên lành tới được chợ Hàng Bè, Hàng Da, chợ Âm Phủ, chợ Hôm và bao nhiêu chợ cóc mới thành. Họ giờ cũng tuổi bốn mươi rồi, không biết đã thôi lam lũ, không biết có ra được mặt phố làm bà chủ nhỏ hay hết ruộng rồi vẫn phải lần hồi kiếm ăn quanh nuôi chồng con?

Giữa rừng người bịt mặt phóng xe máy nháo nhào kiếm sống, giữa cánh đồng còn chưa bị những dự án quy hoạch ma thôn tính toàn phần từng lúc lại hiện ra một khoảng xanh mênh mang cây lá, một biệt thự như được khuân  thẳng từ một góc phố châu Âu nào đặt giữa một vườn hoa cũng hệt ở châu Âu, con đường vào uốn lượn có rất nhiều cổ thụ bứng nguyên cây từ trên rừng về trồng lại trên đất ruộng nghiêng mình trầm tư. Đấy là trang trại, là nhà của các đại gia. Không thể hình dung nổi mức độ giàu có của lớp người mới này, nhưng có thể tận mắt thấy cực kia của đời sống. Thế mà một đại gia bạn tôi còn chép miệng bọn mình mới chỉ coi là trung nông.Phú nông địa chủ thật ra là viên chức nhà nước. Có điều họ chưa xây nhà, chưa ăn chưa chơi như bọn mình khi chưa đến thời hạ cánh.

Bạn tôi không có lí do gì để đùa cợt trên sự thiếu hiểu biết của tôi. Chỉ mới hôm kia thôi, trên đường sang làng gốm Bát Tràng, dừng chân thăm một nghệ sĩ về sống ở Văn Giang, nơi có công trình Bắc Hưng Hải nức danh  miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa khi xưa, tôi đã thấy đằng sau nhà của chủ nhân một khu đất mênh mông đã giải toả xong xuôi. Năm trăm héc ta – ông chủ khàn giọng kể – người ta đền bù cho dân 19 triệu một héc ta, và bây giờ rao bán 6 triệu một mét trên ti vi, nhưng thực phải trả 15 triệu một mét. Không biết chúng nó chạy cửa nào để đuổi được dân đi như thế này. Bao nhiêu nước mắt. Cả máu…

Và đất nước từng ngày thay đổi theo hướng đô thị hoá, hay nói đúng hơn là tỉnh hóa. Và khoảng cách sướng khổ giữa con người từng ngày giãn dần ra. Chúng ta hay nói về khoảng cách giàu và nghèo, tôi nghĩ ở đâu chẳng vậy. Hãy nói về khoảng cách sướng khổ. Tương quan tinh thần này có gốc rễ từ tương quan vật chất, đã đành, nhưng nó soi rọi cho người ta thấy rất nhiều điều khác.

Và khi đó, sẽ không thể yên lòng khi nhìn mông thôn nữ mẩy căng sau lớp quần Jean thường là hàng Trung Quốc, vai trần thôn nữ phơi qua cổ áo cắt theo kiểu Hàn Quốc, chân thôn nữ ngả nghiêng trên đôi giày cao gót rất đỗi Hà Nội phố. Cũng không phải là bằng chứng của sự đồng đẳng về chất lượng sống, khi thanh niên làng hát karaoke, bà lão mặc quần hoa ra ngõ hóng gió, và các cô các chị trong làng giờ bữa cơm chiều sai con vác bát đi mua dưa cà tương mắm như ở một góc đường phố nào giữa Hà Nội, Sài Gòn.

Sẽ, bất an, khi từ nghĩa trang Yên Kì xuôi về Hà Nội chỉ một quãng đường đã thấy một cái cổng cao vòi vọi trên có tấm biển rất hoành “Công viên Vĩnh Hằng”. Thoáng nhìn, tôi tưởng đó là một công trình văn hóa nào của địa phương và bật cười vì chuyện nghĩa trang dành cho người chết kề bên công viên chơi nhởi dành cho người sống. Chứ sao, chẳng phải là một ý tưởng tuyệt vời ư, khi để sinh kề bên tử.

Nhưng không phải, công viên Vĩnh Hằng là một nghĩa trang tư bên nghĩa trang công. Ở đó, các đại gia mua đất xây mộ phần cho người thân, cũng là chuẩn bị sẵn sinh từ kiểu mới cho mình. Nghe nói kiến trúc của các ngôi mộ ở trong đó đẹp lắm, chí ít vì có không gian. Có ngôi mộ ngự hẳn trên diện tích 400 mét vuông. Bao nhiêu tiền của nhỉ? Khi viết Đất đá ong chan ngàn ngấn lệ, Quang Dũng làm sao hình dung được quê mình có những địa danh mới tinh như thế này.

Những người dân thường chắc chắn không thể nào hình dung nổi công sá cả tháng trời vất vả của họ chỉ bằng tiền một bữa ăn sáng bình thường của một số không ít người giàu mới nổi, và nhiều lần công sá như thế cũng không thể nào mua lại được một mảnh đất tương tự để cả gia đình nằm khi sống. Cậu cháu tuần trước đưa tôi về Hưng Yên khẳng định điều tôi từng nghe qua mấy ông bạn nhà báo, rằng tiền cắt xén từ các dự án lên tới 70 %. Mà đó là tiền nhà nước đi vay. Ai đó ngồi lo thế hệ sau còng lưng trả nợ, chứ cậu ta thì không: Nước nào chẳng phải đóng thuế, khổ cũng chẳng đến lượt bọn nhóc như thằng cu nhà cháu, ngay cả khi cháu không hạ cánh an toàn. Chỉ khổ mấy ông cắn vào tay thôi.

Ai? Mấy ông cắn vào tay là nông dân tay làm hàm nhai, ráo mồ hôi là nước bọt cũng phải ráo.

18.

Có của ăn của để nên có cửa cho đời sống tâm linh phát triển chăng? Tôi luôn nghi ngờ điều đó. Cái nhu cầu được qùy xuống, hướng lên một nơi chốn cao xa và thiêng liêng chỉ nảy sinh khi cái thường sống không đủ sức làm cho con người cảm thấy bình an.

Tuy nhiên, việc ở đâu cũng trùng hưng, xây mới những đền chùa phế phủ rõ ràng cũng phải bắt đầu từ sự có. Chính điều này làm cho người chỉ thích lai vãng chốn thiền đường thiên đường như tôi ngần ngại. Tôi không thích tới một cảnh chùa rỡ ràng, cái gì cũng mới tinh tươm, rằm mồng một xe lớn xe bé người béo người gầy chen vai trước chính điện miệng thoăn thoắt khấn khứa thề nguyền. Chắc thiêng người ta mới rủ nhau tìm tới nhiều như vậy. Nhưng mà tôi thì, chẳng biết vì đâu, chỉ ưa chốn vắng. Chùa chiền với tôi phải có hồn sương nắng, trên mái tam quan, dưới nền đất nện, với ngói nâu già rêu ẩm, với hoa sói hoa ngâu, vại nước, cong tương…

Nên, khỏi phải nói cảm xúc của tôi khi cậu lái xe cho dừng chân trước chùa Mía. Đến cái thằng con mới lần đầu biết thế nào là Việt Nam quê hương mình cũng trầm trồ chùa này đẹp quá. Nằm giữa làng Đường Lâm nổi tiếng vì còn lưu giữ được nhiều nhà cổ, chùa Mía, giống như làng, cũng đón rất nhiều du khách tới tham quan.

Khác ở phủ Tây Hồ, xe vào chùa Mía chỉ phải mua vé một lần, tuy nhiên đỗ xe trước cửa chùa mới dăm ba phút đã lại có người ra bán vé. Dù sao cũng tiến bộ hơn ở phủ Tây Hồ, ai đời vừa mua vé vào phủ, xe đi chưa đầy hai mươi mét lại có một cánh tay đàn ông lực lưỡng chắn ngang đường bán vé mới cho đoạn đường kế tiếp, và lái xe mới chỉ định quay đầu xe trước cửa phủ đã lại có người ra hạch “lắm tiền nhỉ, mua vé đỗ xe chưa”. Suốt con đường vào phủ là vô thiên lủng hàng ăn uống, tuyệt không có lấy một hàng ăn chay. Hai mươi năm trước tôi đến đây, đường vào phủ còn là bờ ruộng, những hàng bún ốc Tây hồ còn ngự trên những sạp nứa lao ra mặt nước ven đường. Bây giờ, tất cả đã là mặt … đất, ngốt mắt vì biệt thự đời mới. Chắp tay lạy thánh nhân… Cứ nhìn cảnh này là tôi lại muốn bắt chước ca sĩ Lê Dung vặn vẹo đôi tay lạy thánh, nhân thể kêu trời. Chùa Mía, may sao, không có những dịch vụ khủng bố tâm linh vòng ngoài như thế.

Và, nếu như Đường Lâm nói là cổ nhưng có vẻ phần kim đã lấn, với đường làng đã bê tông hóa, đến nỗi cây đa cổ thụ đầu làng năm ngoái tí nữa là tắc tử vì không còn đất cho rễ thở, với vô số nhà hai ba tầng, và những gia đình còn đang làm chủ các ngôi nhà cổ thì thở dài vì không có tiền bảo tồn di sản cha ông để lại, không biết ngày nào phải phá nhà cổ xây nhà kim tránh cảnh dột nát, chùa Mía khác hẳn, vẫn nguyên vẹn vẻ thâm trầm của một nơi chốn cho con người tìm về, thanh lọc lại bản nguyên.

Ban trưa, mái chùa như thấp xuống trong tiếng ve ran, những bức tượng Phật mang gương mặt người thản nhiên trước thế sự nhìn ra nắng. Sân chùa nắng rọi qua giàn mướp, từng chỗ, sắc nâu bền bỉ chịu đựng của gạch nung già lại lung linh màu gió. Một dãy chậu cảnh be bé xinh xinh đặt rải dọc lối đi vào chính điện. Mươi chum tương màu sành sáng hiền hậu phả ra mùi đậu tương lên mốc, ai không quen thì phải nhìn trước nhìn sau hỏi nhau mùi gì. Còn tôi… Những ban trưa như thế này đây, màu nắng sáng lên nhờ vòm lá, mùi sân đất ẩm, cơn gió mệt mỏi nhoài qua… Vườn chùa xanh um, chỉ còn thiếu một bầu trời xanh và cao, một tiếng gà dáo dác, một mái hầm chữ A luôn phả ra mùi đất ẩm, và tiếng máy bay Mỹ tăng tốc làm tim đập thình thình… là đủ để trở lại một tuổi thơ nặng nhọc. Ám ảnh thời thơ nhỏ hay vẫn là ám ảnh của một cuộc chiến tranh trên mỗi số phận người Việt Nam mình?

Rời chùa ra với đầm sen bên kia đường, tấm tắc với nhau ít làng quê Việt Nam nào sạch và đẹp đến vậy, văn minh đến vậy, vì có cả ghế đá đặt trên đường làng bên cạnh đầm sen mời dừng chân ngơi nghỉ, mà không hiểu sao lòng vẫn tiếc. Giá thay vì con đường làng đổ bê tông vô duyên dù sạch tinh  này là con đường trải đá xanh như đường làng Đông Ngạc, giá đằng sau những bức tường kia là một mái ngói thâm nâu, là cửa bức bàn, cột gỗ lim, sân gạch, chứ không phải nhà ba bốn tầng rỉ rả tiếng nhạc não tình rão cả trưa hè, giá hàng bánh tẻ rất Sơn Tây kia có thêm dăm ba mái quán thay vì hàng ăn kiểu thị xã, và giá bớt đi dăm ba biểu ngữ cái gì làng văn hóa gia đình văn hóa chăng ngang đường… Giá ni cô trong chùa không hỏi tôi có cần biên lai ghi nhận đã đóng bao nhiêu tiền công đức…

Giá… Xin Phật độ trì cho lòng tham đỡ làm khổ con hơn.

19.

Tham gì cũng khổ. Kể cả tham cái vô thưởng vô phạt nhất là tham biết. Nhưng ngẫm kĩ, thấy chính cái lòng tham riêng tư kia làm nên ý nghĩa đời sống của từng người.

Thế cho nên tôi khoái vô cùng khi biết được một phần nội hàm của khái niệm làng văn hóa. Lắm thằng nghiện chết thì thành làng văn hóa chứ sao nữa. Nghe rồi nghĩ một hồi mới thấm nốt phần sau của lời chỉ bảo từ một ông cán bộ phường. Cứ tưởng con nghiện chết nhiều thì làng trong sạch lại nhờ thống kê mới, mà không. Lắm người nghiện chết thì xã phường phải vẽ mặt, chạy cho được cái tiêu chuẩn làng văn hóa, đơn vị dân cư văn hóa và vân vân…, chứ cóc cần làng nằm trên địa bàn văn hóa lịch sử gì hay có di tích lịch sử văn hóa gì.

Tường minh rồi lại đâm ngờ vực. Khi đi về đâu cũng thấy biển báo chào mừng làng văn hóa, đơn vị văn hóa. Phòng văn hóa phường nơi tôi về ở tạm trong kì nghỉ cũng được trao tặng danh hiệu đơn vị văn hóa. Thế nên… thôi! Cứ để mắt và tai no nê với những tên đất tên người đã quen lắm bao nhiêu ngày tháng cũ trên từng trang sách. Thế mới gọi là chơi.

À mà tôi chưa kể là tôi đi Cửa Lò đây.

Mất tới hai tiếng mới ra khỏi Hà Nội nghẹt cứng người và xe. Vừa tới được cái chỗ thênh thang năm xưa Quang Trung đánh trận Ngọc Hồi thì quả chuối vàng – là cảnh sát giao thông với phục trang mới – xuất hiện cứ y như mọc thẳng trên đường. Nhìn qua chỗ lố nhố xe đạp bán hàng rong, mới phát hiện ra có cái ô vàng đặc hiệu của cảnh sát cắm bên cạnh một cái xe van mà mới đây tôi biết là để chở hàng hóa hay xe cộ bị tịch thu.Với tuổi tôi thì màu quần sắc áo vàng vàng này thật ra cực kì quen thuộc, từ hồi còn bé tí, nhưng nó đã bị thay thế từ lâu lắm rồi, bây giờ mới được phục hồi. Nhìn thấy cảnh sát chặn đường, mặt chú lái trẻ tái dại. Lại mất thêm gần một tiếng dừng xe chú mới lầm lầm trở lại, ngủng ngẳng quăng ra mấy câu than thở về nỗi vừa bị phạt vì tội đi sai làn. Tội quá thật, xe mười hai chỗ ngồi, đường có độc hai làn, không đi sang làn trái thì chẳng lẽ cứ chạy sau ngửi khói cái xe buýt hồng hộc bò phía trước. Mà tội nhất là quy định giao thông mới về làn đường này chú lái xe không hề biết. Hỏi tại sao? Thì có ai phổ biến đâu ạ. Cứ bị phạt thì biết thế thôi. Xe mình không may. Cháu hỏi mãi nên mới phải làm biên bản lâu. Chứ cái xe buýt chạy trước kia kìa, cô thấy không, tuýt còi một cái là được đi ngay. Nó là xe chuyên tuyến, chuyện làm luật là dĩ nhiên, dừng xe đưa tiền là phắn tiếp.

Hiểu rồi. Vào được ngành công an đã khó, mà ra đứng đường còn khó hơn. Trước cứ nghĩ công an khổ nhất là cái anh đứng đường, mặt mũi lúc nào cũng đen sạm, khó đăm đăm. Nhưng hóa ra đó là cái chỗ dễ ăn nhất, để được ăn phải tốn vô khối tiền. Về Việt Nam, nghe chuyện đút lót, thấy ai cũng toàn tư duy trên đô la euro cả, mà toàn từ vài ba chục ngàn. Trong khi đồng lương chính thức thì chỉ một hai trăm đô la một tháng cho công chức già đầu. Và, trong khi dân thường ở vùng sâu vùng xa thì tiền triệu Việt hàng năm cũng khó để dành ra nổi. Cái phi lí này, mấy thi nhân triết gia nổi tiếng thế giới có sống lại mò qua Việt Nam cũng không hòng cắt nghĩa nổi để bảo rằng cây đời mãi mãi xanh tươi.

Xe đi qua các thị trấn, thành phố, qua những đất và người. Phủ Lí… Hoa Lư… Bích Động… Đâu đâu quê hương chúng ta cũng hệt như một công trường lớn và tôi tự hỏi giá như điều này diễn ra ngay sau chiến tranh… Thì có lẽ đất nước không phải nói mãi về thời hậu chiến!

Song song với dự án đường mòn Hồ Chí Minh, đường quốc lộ số 1 được mở rộng. Tôi chưa đi con đường mới, nhưng con đường cũ giờ rộng thêm rất nhiều vẫn cứ thường xuyên ùn tắc. Mặt đường mở tới đâu là hai bên lập tức mọc lên phố mới. Trông xa cũng sầm uất. Nhìn gần thì tiếc. Vì không có một chút bản sắc. Hay nếu coi phô phang và a dua cũng là một thuộc tính của sự vật thì đó chính là bản sắc của các thành phố, thị xã trên đất nước mình.“Cả nước đứng lên hướng về Hà Nội… “ Ngày bé tí đi sơ tán tôi cùng bọn trẻ nhà quê vỗ tay đồng ca. Bây giờ, câu hát lại trở về trong trí nhớ xuống cấp của tôi, khi từ cửa xe nhìn ra, thấy tất cả vẫn hệt như một khoảng phố vừa rời buổi sáng. Một đôi chân phồn thịnh song song thò ra qua mép váy ngắn. Một mái tóc suông đỏ đỏ nâu nâu. Những chiếc khẩu trang vừa chống bụi vừa chống dịch cúm lợn to như cái tã trẻ con che kín mặt người đi. Đôi quang gánh nhẫn nại giành giật từng mẩu đường với dòng xe máy đang trôi. Khắp nơi, khẩu hiệu chào mừng quyết tâm, đã hẳn. Nhưng biển báo quảng cáo cũng giống hệt nhau, lộn xộn về kích cỡ, màu sắc, đáng ngờ về nội dung. Một chiếc xe buýt hung hãn tìm cách vượt lên, chìa ra cái đít đỏ chói dòng chữ: Xe chất lượng cao loại 1. Đã chất lượng lại còn chất lượng cao, lại còn chất lượng cao loại 1. Ơ hơ! Thằng bé con con gọi tôi bằng bà trẻ nhìn theo cái đít xe đỏ đỏ đang phì khói đen dịch cho ông chú họ cùng tuổi lần đầu quy cố hương: CLC là chất lượng cao, chết là chắc, chắc là chết đấy chú ạ.

20.

Ở Việt Nam đi đâu cũng thấy đủ thứ CLC. Sữa cho trẻ em thì có thứ phát triển trí thông minh. Chậu để giặt hay ngâm gì đó, nghe trong quảng cáo từ radio cũng chất lượng cao (không phải cái anh mua lần trước đâu em), trường học cũng có trường chất lượng cao, thằng cháu tôi đang ở Úc cũng từng học qua đại học trong nước ở cái lớp gì có tên là cử nhân tài năng chất lượng cao. Ngôn ngữ Việt đời mới có nhiều sắc thái bổ sung khó phân tích nổi. Lạy Trời lạy Phật thôi nhân thể lạy cả bác, biết tin vào đâu bây giờ.

Thằng con chết khiếp vì chuyến đi ra biển. Đường quốc lộ chỗ nào cũng nghẹt cứng người xe. Hai làn đường, nhưng không ít lần xe tôi đấu đầu với những hai ô tô và rất nhiều xe máy xe đạp. May mà chạy tốc độ cực thấp. Và cũng nhờ thế mà tha hồ ngắm cảnh. Phố Cà. Gia Viễn. Sông Trà Lý. Cầu Gián Khẩu. Tam Điệp. La Vân. Đền Sòng. Sông Hạc. Đò Lèn. La Man. Cầu Bố. Sông Mã… Những cái tên thân quá. Nhưng quá nửa đời người, về đâu cũng thấy mình lạ hoắc lạ huơ. Đâu cũng như quê. Đâu cũng như thành phố. Biệt thự xây giữa hai thửa ruộng nước là nét mới của rất nhiều thị xã. Những mái ngói chờ đảo lại nhô lên tủn hoẳn sau bức tường vây bằng gạch vỡ một thời vốn rất quen mắt khi xe ra khỏi Hà Nội, nay đã là của hiếm không qúy. Nhà làm trước đường mở sau. Quán chữa xe máy xe đạp khép nép bên tiệm ăn tiệm chơi, đây Dê Núi, kia Cơm Cháy, Gà Cắp Nách. Có chỗ chủ còn tự phong cho cái quán nhỏ của mình là Nhà Hàng Năm Sao. Vùng nào cũng có chỗ mời nhau ăn thân mật. Còn tắm thân mật thì sẵn những nhà tắm thuốc bắc, tiệm mát gần mát xa. Nhìn qua kính xe, thấy nhô nhốp người đang hì hục đẩy nhau qua những cung đường khó vượt. Chàng trai với chiếc xe máy chất ngất lốp ô tô hỏng. Cô gái kềnh càng hai sọt hàng không biết hàng gì. Bầy trẻ áo trắng quần xanh đồng phục đua xe đạp trên đường, tay còn khua cái chổi. Không biết bây giờ chúng nó có phải lo sơn bảng trước ngày khai giảng không nhỉ? Và có biết sơn bảng bằng lá khoai nước như thời chúng tôi đi sơ tán hay không? Có biết những trò ma mãnh của học trò thời chúng tôi không? Tức thầy cô nào thì mùa này đây, khi thị đã vàng, thơm ngọt, rứt dăm ba túm lá thị xát dưới ghế thầy cô ngồi, đảm bảo thầy nào cô nào cũng phải đứng lên ra khỏi chỗ và giờ đó học trò tha hồ phá. Thằng con thấy mẹ tủm tỉm cứ ra sức kéo tay đòi công bố ý nghĩ trong đầu. Giá nó biết mẹ nó thời đi học sức thì yếu nhưng đến lớp buổi nào là nghịch khoẻ bọn con trai phải nể, e tôi không còn hi vọng làm tấm gương sáng để con soi và e thằng ranh thêm đồng cảm với ông bố trót dại dột thời tuổi trẻ mà cưới mẹ.

Lại quán xá, lại nhà đang xây đường đang mở, quảng cáo chềnh ềnh giữa trời, và khẩu hiệu. Việt Nam vốn nhiều khẩu hiệu, biểu ngữ. Ấn tượng nhất với tôi phải kể tới hai biểu ngữ này: Rèn luyện sức khoẻ theo gương Bác Hồ vĩ đạiĐảng bộ nhân dân quê hương bác Tôn quyết tâm đi theo con đường bác Hồ đã chọn. Khẩu hiệu đầu chính mắt tôi nhìn thấy, khẩu hiệu sau thì chính tai nghe. Cái bình thường này ở đất nước mình đến bao giờ thành được cái bất bình thường trong mắt dân mình nhỉ?

May mà còn có thiên nhiên.

Ngoài kia, Bích Động, Hoa Lư, núi chồm dậy giữa cánh đồng, giữa lòng phố huyện, núi chen với nhà, tưởng giơ tay ra là sờ được chân núi. Anh hùng xưa nhớ hồi là hồi niên thiếu, dấy binh lấy lau làm cờ… Có vẻ như không có vùng đất phát tích của ông vua Việt nào hữu tình như đất phát của nhà Đinh. Bái Tử Long trên cạn của Việt Nam đây. Là mơ ước được tới được thấy của học sinh Hà Nội mấy mươi năm trước, cũng là nỗi kinh hoàng của tôi thời đi dạy. Bởi vì ngày ấy đi lại nhọc nhằn, bởi vì tôi ốm và tôi nhát. Ốm phải nằm nhà nhưng học trò lên cơn mê đi cũng đành khuân mình theo, không dám nhờ ai quản. Chỉ sợ nhỡ ra… Thà mình cùng chết. Thành ra, phải tới bây giờ, thành nhà giáo mất dạy rồi tôi mới cảm được hết cái hữu tình này.

Ngoài kia, Cầu Ghép, Đò Lèn, Cầu Bố… Núi thấp, trập trùng xanh, thân gần. Hoa phượng nơi này vẫn đỏ, dẫu sang thu rồi. Con chó vàng nhà ai lừ đừ ra khỏi giọt hiên, nằm xuống sát đường tàu hỉnh mũi ngửi nắng. Cầu Hàm Rồng xa xa, cũ kĩ theo năm tháng, nhưng nguyên vẹn vẻ hào hùng và cả u uất nữa trong trí những người đã đi qua bão giông một thời nửa nước nơi này. Rải rác biên cương mồ viễn xứ – Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh – Áo bào thay chiếu anh về đất – Sông Mã gầm lên khúc độc hành của Quang Dũng thì người nơi ấy nơi này biết cả. Nhưng Hò hố lên… Cho thuyền về…Ơi, câu hò sông Mã… qua giọng hát cao và căng của Trung Kiên thời chống Mỹ, tôi tin mãi mãi chỉ đi về được trong tâm cảm thế hệ chúng tôi trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa mà thôi. Đất nước mình nó vậy. Có chung nhau chăng chỉ mãi mãi là những nỗi đau không dễ hiểu cho nhau.

21.

Tới đất Nghệ An thì trừ cậu lái và tôi, tất cả đã y như đại biểu quốc hội khi biểu quyết. Gật. Nên không ai thấy con đường ra Cửa Lò đẹp như thế nào. Nó làm tôi ngạc nhiên. Hai bên đường vẫn là ruộng lúa. Chưa thấy nhà cửa chòi ra tựa gần như bất cứ một khúc đường nào mới mở. Một nhà thờ đang xây dở theo kiến trúc nhà thờ cổ ở châu Âu, nhìn giàn dáo từ xa đã thấy cực lớn nằm bên phải đường cũng cho tôi một ngạc nhiên thú vị. Gió mang vị muối thổi lại từ phía biển át hơi nước trên đồng.

Cửa Lò làm tôi kinh ngạc từ đường vào. Tới sát lại càng kinh ngạc. Con đường chạy sát bãi được đặt tên Bình Minh, không phải là tên một đồng chí cán bộ lãnh đạo đảng nhà nước nào đã đang sống chuyển sang từ trần. Mà đất Nghệ An thường thôi quê Bác này nhiều cán bộ Cách mạng nổi lên từ thời bóng tối lắm đấy nhé.

Con đường tên thì thơ, nhưng thật ra lại làm cho bãi biển hẹp lại. Phí. Càng phí mất cái bao la khi thị xã cho xây cả một quảng trường có cái cổng chào hình vòng cung chắn ngay tầm mắt nhìn ra biển. Họa chăng có dân bản địa lấy đó làm mừng. Thì đấy, ra đó mà đấu thầu mở quán. Đủ thứ quán, ăn, uống, bán hàng lưu niệm, karaoke. Ngày hai buổi, đài truyền thanh thị xã bắt du khách nghe toàn trông cây lại nhớ tới Người, giữa Mạc Tư Khoa nghe câu hò ví dặm với giận thì giận mà thương thì thương. Còn từ chập tối thì các quán karaoke ngoài bãi lại bắt cả thị xã và du khách nghe tiếp, vẫn ôi câu hò ví dặm, cạnh tranh với thành phố buồn. Thằng bé nhà tôi sau bữa cơm chiều ngồi tính toán chi tiêu, so sánh tỉ giá tiền Việt với Euro, rồi bắt cả nhà nghe thống kê, tổng kết: “Đi xa vất vả, nhưng nếu ở đây lâu thì chuyến đi cực rẻ. Bố mẹ sẽ được ăn toàn đặc sản. Khi nào lớn con sẽ rủ bạn về Việt Nam du lịch, đi biển luôn cả tháng. Chắc chắn các bạn sẽ thích đồ ăn Việt. Nhưng người ta phải học cách làm du lịch. Con là người Việt con cũng không nghe nổi nhạc như thế này ngày ngày. Bắt khách du lịch nghe nhạc Việt thế này là người ta bỏ đi đấy.”

Nhưng hình như ở Việt Nam người ta không để ý, hay để ý cũng mặc kệ cho sự này diễn ra. Không thế làm sao ăn chia được khi cho dân đấu thầu mở quán. Tôi nhớ hồi ra Cát Bà. Biển. Đảo. Long lanh. Nhưng tàu cập bến thì ngớ người. Ai đời người ta cho xây toàn khách sạn che kín núi. Từ tàu nhìn lên chỉ thấy đôi ba ngọn núi tội nghiệp cố chen vượt lên mái nhà năm bảy tầng. Vào khách sạn mới hay chân núi thành nơi cho người ta nấu bếp và rửa bát. Chán, đi tắm thì phục vụ viên chạy vào gọi giật xin cô vào phòng tắm đừng đóng cửa! Vì sao? Tại vì cô mà khóa thì sẽ không mở được cửa để ra đâu ạ.

Người phục vụ khách sạn mà chúng tôi nghỉ không nhiệt tình đến thế. Dáng đi thất thểu, lúc nào cũng như đang giận dỗi điều gì. Cũng dễ hiểu nếu nhìn vào bữa ăn của họ trong tương quan với bữa ăn dành cho du khách. Song những anh xích lô chờ khách trước cửa khách sạn thì cởi mở, vồn vã. Các anh nói giọng Nghệ đã nhẹ rất nhiều. Hỏi, tất cả cười xòa, trở lại giọng địa phương cực nặng: “Phải đi tập huấn tiếng Bắc ở bên du lịch cả tháng mới được chạy xích lô mùa nghỉ mát đấy”. Chở tôi đi chợ cá đêm và chợ cá sáng, anh xích lô giảng giải mua nước mắm thì phải chọn hàng ruồi nhiều. Tại sao? Nước mắm không ruồi thì không phải là nước mắm, nhà làm nước mắm mà sạch sẽ thì đó là nhà dùng hóa chất. Nước mắm làm ra để bán cho người không biết, chứ người làm mắm chê. Aha! Phát kiến mới cho những người nhớ mắm.

Chưa tới 15 triệu tiền Việt cho bảy nhân mạng ăn chơi trong gần tuần lễ, quả là cực rẻ. Nhưng, cô giáo trường thị xã chủ cái quán ăn đối diện khách sạn tôi ở cho biết cả vụ nghỉ mát vợ chồng và hai thằng con trai lăn lưng làm từ mờ sáng tới đêm khuya kiếm được chừng 50 triệu. Nhưng, anh nông dân kiêm đạp xích lô chở tôi đi chợ sáng mua cá thu tươi đem nướng mang ra Hà Nội làm quà tần ngần xin cái đầu cá mang về cho vợ nấu canh bữa trưa. Ừ phải, nhặt nhạnh từng đồng thế này làm sao mua nổi con cá đắt bằng công sá cả tháng làm ăn. Nhưng, ngay bên bàn tôi đây, có chú bé đêm qua nắm tay bạn chạy vòng quanh đống lửa đốt sát chân sóng hát tiến lên đoàn viên em ước ao bao ngày xứng cháu Bác Hồ dựng xây nước non này vừa gọi bát mì ăn liền với cá mực. Đã hẳn là một cách ăn của dân xứ biển, có điều chắc chắn là của dân nghèo. Chú bé mồ hôi mồ kê vã đầy mặt, thỏa mãn húp chút nước còn sót lại và cẩn thận đếm tiền trả cô chủ quán. Mười lăm ngàn. Trong khi bữa ăn vừa xong của chúng tôi gần triệu bạc. Bất lực và xót xa khi nghĩ tới chiều nay thôi, sau kì cắm trại, chú bé trở về với nhịp sống thường ngày và bát mì ăn liền rẻ tiền kia có khi thành hồi nhớ cho suốt tuổi thơ.

Lại nhớ một buổi chiều tuần trước, các bác bên đài truyền hình Hà Nội thấy thằng bé nhà tôi nói tiếng Việt lau láu, nổi hứng phỏng vấn cháu. Trước ống kính camera và trước câu hỏi nghĩ gì về Hà Nội, về con người tại Việt Nam, thằng cu nghiêm trang: Cháu thấy nhiều hơn mẹ kể. Hà Nội không đẹp như mẹ nói. Đông quá. Ồn quá. Bụi quá. Còn người Việt thì phải làm nhiều quá mà nghèo quá, chẳng được gì. Các bạn nên sang Mỹ hay Đức mà ở. Ôi trời là cười. Ai cũng bảo khó được nghe nói thật thế này, về phải cho cả đài xem.

Nhưng sẽ không phát được đâu. Buổi tối, thằng con thì thầm với mẹ. Con bảo các bạn đi khỏi Việt Nam là sai. Vì đi khó lắm. Mà người bỏ đi thì Việt Nam mình Trung Quốc giải quyết nhanh lắm.

22.

Con tôi chưa biết rằng đất nước này chưa bao giờ mất bởi nhân dân. Song, khi mặt trời nhảy lên từ chân sóng, nó đã thấy, ngay chỗ nó đang nhào theo con nước thủy triều rút dần, mấy người đàn ông dầm mình dưới nước đẩy te và những mẻ lưới buồn cất lên, óng ánh trong nắng sớm, trống rỗng. Nó đã thấy trên bãi cát những chiếc thúng úp sấp, những người đàn ông đàn bà đêm xuống lại lầm lụi xách theo cái đèn chai, lên thúng ra biển câu mực. Nó đã biết, con mực nhảy buổi sáng sớm nhà hàng hấp cho nó ăn là công sức cả đêm của những người dân nơi này. Một trăm năm chục ngàn, cô chú ấy kiếm được một trăm năm chục ngàn một đêm mẹ ạ. Nhưng còn những ngày mưa bão, với lại mùa nghỉ hè ở biển coi như cũng qua rồi. Nơi này nơi kia, nó đã thấy và đã biết làm người Việt nhọc nhằn thế nào. Với tôi, đó là thành công lớn nhất của lần quy cố hương này.

Thằng con tôi tủm tỉm khi chúng tôi tính ghé thăm quê cụ Hồ. Phải giải thích cho thằng bé vốn dị ứng nặng với những trò tuyên truyền của chế độ phát xít mà nó cực kì am hiểu rằng, và rằng…

Đường sang Nam Đàn Hưng Nguyên vẫn là một kiểu đường tỉnh hóa. Khác chăng, huyện mà có cả quảng trường (Hồ Chí Minh) và biểu ngữ thì to và nhiều như biểu ngữ ở thành phố. Pano mời dân nước vễ LỄ HỘI LÀNG SEN cao như một bức tường dựng sát đường bên cạnh pano quảng cáo ẨM THỰC DINH DƯỠNG cao không kém. Tiến bộ hơn nhiều nơi, ở đây, lần đầu tôi thấy một khẩu hiệu xem được: “Tiền thuế để phát triển giáo dục”. Xe lao qua con đường ràn rạt hàng quán nếu không phải tiệm ăn thì xanh xanh đỏ đỏ toàn đồ Tàu. Ngất ngưởng giữa đường, trên cao, công nhân dựng biểu ngữ nhân ngày 2- 9 sắp tới. Biệt thự xây cách nhau cả thửa ruộng nước, rất đẹp và tôi chợt nghĩ rằng đất này nhiều khả năng đẹp hơn Hà Nội nếu quy hoạch đô thị được tôn trọng. Cậu lái xe bảo chủ các biệt thự này thường cũng là chủ nhiều ngôi nhà khác ở Hà Nội hay Sài Gòn. Còn ông anh rể tôi, dân thường thôi quê Bác chính hiệu thì cười cười: “toàn nhà rỗng. Được tiền đền bù giải tỏa bỏ hết vào xây cái biệt thự , rồi chạy ăn từng bữa toát mồ hôi ấy mà cô.”

Định vào làng Sen thì xe phải dừng vì đường cấm. Chỉ ra chứ không được vào. Bà chủ phản thịt gần đó kiêu hãnh khoát tay, tuôn một tràng Nghệ ngữ: “Chưa vào quê Bác bao giờ à? Thế thì vào cả quê ngoại lẫn quê nội”. Mãi vẫn chưa hiểu tại sao bị bắt làm cả tua như thế. Vì lí do du lịch hay vì lí do lịch sử? Chịu.

Người là Cha là Bác là Anh… Con nghe Bác tưởng nghe lời non nước – Tiếng ngày xưa và cả tiếng mai sau… Tố Hữu đấy. Tụng niệm đủ điều, lần đầu tôi tới đất này. Chắc chắn không có một làng thôn nào ở Việt Nam sạch đẹp như quê cụ Hồ. Đường làng đổ bê tông, lắp đèn cao áp, uốn giữa đầm sen, ruộng lúa. Nhưng xe dừng trước khu di tích, mở cửa cứ thấy thoảng trong nắng trưa miền Trung mùi nhà vệ sinh công cộng thiếu nước.

Nhớ cách đây mấy năm, nhà văn P. T. H tiên đoán rằng tới đúng năm 2009 này đây, đất nước mình sẽ đổi và tôi đắc chí cười thầm tinh thần lạc quan của bà chị. Phải tới đây, tận mắt nhìn du khách. Đừng để ý làm gì mấy ông quan chức tay khư khư bó hoa bán sẵn, tất ta tất tưởi xua cán bộ trong đoàn vào làm lễ dâng hương. Cô nhân viên khu di tích vừa cầm phấn viết lên bảng theo dõi các đoàn đăng kí những con số đáng nể: Bộ tư lệnh quân khu 4: 100 người; Tổng công ti dầu khí Việt Nam: 1200 người. Nhưng mà kinh nghiệm làm giáo học cũ của tôi cho biết rằng toàn là tranh thủ kết hợp Cửa Lò với quê Bác, lấy thành tích gì đó cho công đoàn đấy thôi. Phải nhìn những phụ nữ mặc bộ bà ba đồng màu, đội mũ đan bằng sợi nilon dáng mũ tai bèo trông y như vừa từ trên R về, hay đoàn phụ nữ dân tộc Chăm từ Thuận Hóa ra, dáng phấn chấn, bồi hồi như đang sống qua sự kiện lớn nhất đời, mới hiểu hoài nghi thực tế là điều cần thiết lắm.

Quầy hàng lưu niệm ở khu di tích không khác bất cứ một cửa hàng tạp hóa nào và điều đó làm tôi sững sờ. Tự hỏi ngày xưa ở đây người ta bán gì? Và nếu hôm nay còn là nhà giáo có dịp đưa học trò tới nơi này, mình sẽ nói gì? Lơ thơ dăm ba bức ảnh chụp cụ Hồ tay chống nạnh trong chiến dịch Biên giới, cụ Hồ cúi cổ cho trẻ con quàng khăn đỏ. (Bà trẻ con này là đồng nghiệp cũ của tôi, vừa mới về hưu và cái vụ gặp Bác này là niềm kiêu hãnh suốt đời làm trò làm thầy của chị.) Thêm dăm ba tấm chụp hàng cau trước nhà bác, cả thế kỉ qua rồi mà vẫn cứ mới tinh tươm. Và dăm ba bức tượng. Chắc bày cho có chứ không đắt khách. Ngoài ra: quần áo trẻ con, đồ chơi Trung Quốc, súng liên thanh, kẹo Cu Đơ, tương Nam Đàn. Đáng kể nhất là mấy đôi dép đen đen lấy mẫu đôi dép lốp cụ Hồ, nhưng cầm lên mới biết là bằng nhựa.

Thằng bé nhà tôi lao ra khỏi nhà di tích, thông báo đề nghị của đấng sinh thành: “Bố đang phim ở trong đó. Bố bảo người ta bán tượng Hồ Chí Minh bằng thạch cao sơn xanh lá cây. Bố bảo nhìn kinh lắm. Bố hỏi mẹ có mua không?”

23.

Mua chứ! Tôi mua cho con một chú hải cẩu đội quả bóng trên đầu bằng nhựa, nhét cục pin vào là nó gật, quay, lộn nhào. Ra Hà Nội, được học trò lớp cũ mời, lại bị các mẹ trẻ cười ầm ĩ: Cô Hà vào nhà Bác mua đồ chơi Trung Quốc. Cũng dỗ được thằng bé con mấy tiếng đồng hồ chứ bộ. Cho mẹ nó đi loăng quăng quanh khu tưởng niệm cụ Hồ.

Thật tôi may mắn. Mấy ai vào thăm nhà bác mà lại không có nhà bác để nhìn ngó như chúng tôi thế này. Đã nghe cánh nhà báo đưa tin mồm nhà bác bị đốt, vào, tận mắt thấy cái khung nhà đang dựng lại, che bằng tấm bạt trắng nhưng không kín, và trước cổng rào dâm bụt có tấm biển cho biết đó là công trường theo dự án văn hóa. Mấy người đàn bà ôm trong tay mớ sách, tự hào khoe mình là người nhà bác và cào khan cào vã chúng tôi mua gia thế cụ Hồ, kèm gương sen tươi, bưởi và ngô luộc. Nói đùa tôi dạy văn, tiểu sử thơ văn cụ thuộc nằm lòng, các bà các chị thôi mời mua sách, thái độ cực kì hoan hỉ, trân trọng. Nhưng khi hỏi về cái nhà đang dựng trong vườn, ai cũng dè dặt một lời rất khó tin, rằng năm nào bảo tàng cũng phá đi xây lại. Hỏi chuyện ăn làm, thái độ bà con mới vồn vã lại. Hóa ra được buổi nông nhàn, mọi người mới ra đây kiếm chút tiền tươi. Sao không thuê kios ở khu bán hàng lưu niệm ngoài kia? Bà lão lưng còng khệ nệ quả bưởi to chưa từng thấy hậm hực cho biết không ai chen được với vợ con cán bộ bảo tàng. Làm vui lòng bà, chúng tôi khuân theo quả bưởi không ăn được vì chua loét, không dám bình loạn tại chỗ đúng là bác chăm lo “không gợn chút riêng tư” (nhạc và lời cái bài có câu này hình như là Thuận Yến bố ca sĩ Thanh Lam đây).

Trong một nghĩa nào đó, và nếu sử liệu về quê quán cụ Hồ là chính xác thì làng Sen chính là đất phát tích của một triều đại đặc biệt nhất trong lịch sử Việt và hiếm vùng đất phát tích nào được chăm chút tu bổ thế. Nhà cửa ở trong khu di tích tưởng niệm không có một dấu vết của sự xuống cấp, ngay cả vì lí do thời tiết nóng ẩm mà các công trình xây dựng khó tránh. Khắp nơi, tiếng loa vang vang, loa của thuyết minh viên vẽo vọt bài viết sẵn, loa thông báo đoàn nọ đoàn kia vào dâng hương hoa, loa phát đi các bài hát ngợi ca. “Cả cuộc đời Bác hi sinh cho dân tộc Việt Nam… …Bác đem ánh mặt trời xua màn đêm giá lạnh… Bác đem mùa xuân về…” Ở một góc nhà tưởng niệm thiết kế kiểu một ngôi đình làng rất đẹp, tôi vấp phải một bà lão ngồi dựa cột. Bà lão say sưa nghe cô thuyết minh đọc thuộc lòng bài ngợi ca bác chăm lo cho dân không gợn chút riêng tư, đến nỗi ông anh cả hấp hối cũng không về thăm được. Quần đen, áo nâu mới, riêng cái khăn mặt vắt trên đầu thì đã ngả màu cháo lòng. Vừa kéo cái khăn tàu tàu chấm nước mắt, bà lão vừa cho tôi biết bà thuộc đoàn phụ lão Thanh Hóa. Ngắm bà lão sau khi chứng kiến cảnh một ông bố chắc trẻ hơn tôi thành kính thắp hương giục vợ con vào qùy gối khấn khứa trước bàn thờ cụ Hồ, bất giác tôi nổi gai ốc. Với khả năng dễ tin này, đất nước sẽ về đâu?

Đất nước sẽ về đâu, cả với khả năng hoài nghi tuốt tuột của những người trẻ tuổi? Gặp lại học trò cũ nay đang kháng cự tuổi bốn mươi, tôi mừng, vì học trò khôn hơn mình, không để bị vướng vào vòng văn chương dấm dớ, nhưng lại lo lo, chắc cũng là theo quán tính của nghề giáo dở dang thôi. Có học, giỏi nghề, giàu, nhưng có cảm giác họ không tin vào cái gì ngoài may mắn. Cô bí thư lớp cũ của tôi, nay là phó tổng biên tập một tờ báo nhiều thế lực nhưng chẳng ai xem nhất định mang “người đàn ông hi vọng là cuối cùng của đời em đến gặp cô”, kể dự định sẽ cho hai đứa con với người chồng vừa li dị sang Mỹ học. Cô lớp trưởng, nửa đời lận đận, vừa gá nghĩa với cựu tùy viên quân sự sứ quán Mỹ tại Việt Nam và tôi biết hạnh phúc mới của cô sẽ song hành cùng nỗi cô đơn khi theo chồng luân chuyển từ đất nước này sang những đất nước khác. Một cô khác, cao như người mẫu và xinh hơn, vừa cập tuổi ba nhăm, đến thăm tôi ngay trước ngày tôi đi, kể chuyện mới trở lại với chồng, “nhưng em không yêu cô ạ… công việc là mối quan tâm lớn nhất của em sau hai đứa con”. Cô là luật sư, chuyên sâu về buôn bán bất động sản và tham gia vào rất nhiều dự án của chính phủ. Cô cho biết dự án nào thì 50% giá trị cũng phải chia cho quan chức và cũng vì thế mà rất nhiều quan ông quan bà phải nhờ tới cô. “Em sẽ cho con em ra nước ngoài, nhưng cho đi sớm thì xót quá.” Nếu nói đủ đầy là hạnh phúc thì họ đang hạnh phúc. Nhưng, “hạnh phúc đôi khi rất buồn phải không cô?” (trích từ e- mail tôi mới nhận được của một trong số họ.

Đủ đầy thì thỏa mãn, nhưng buồn. Thiếu đói thì buồn tựu hết vào chữ khổ. Bao nhiêu phần trăm dân Việt Nam còn đang là người khổ? Sẽ không thể thấu hết những cảnh đời nhọc nhằn nếu chỉ nhìn và thú vị trước cảnh, giả dụ, chú bé chăn bò trên bãi tha ma bìa làng rút điện thoại di động gọi cho mẹ đang trên từng cây số bán hàng rong, hay cô bán chuối đầu ngõ chợ nhà tôi hai tay hai điện thoại vừa chửi nhau tưng bừng với ai đó vừa ngọt ngào dặn chồng đi làm về gọi dịch vụ mang cho bình ga mới.

Đấy là cuộc sống tôi không còn sống, và cũng không muốn sống. Nhưng mãi mãi thiết thân. Quặn lòng một nỗi xót xa, không biết cho ai nữa, hay cho chính mình, khi bay trên bầu trời Tổ Quốc. Không phải vì ra đi, mà vì những gì để lại, vì sự bất lực của mình, của chữ, của những điều hằng đeo đuổi, cưu mang. Chồng tôi đọc ra vị của vợ, mỉm cười. Thằng bé lớn nhìn mẹ, bình luận “mặt mẹ buồn như nông dân vào bệnh viện”, rồi tự đắc hỏi thân sinh “con nói thế có đúng là người Việt Nam không?”

Comments are closed.