Bức chân dung

Vũ Thư Hiên

Cuộc chuyển trại diễn ra đột ngột. Không có lấy một dấu hiệu báo trước, dù nhỏ. Tịnh không. Mà ai chứ tù tinh lắm. Một động thái mơ hồ nhất của Ban Giám thị, chỉ cần khác thường một chút là lập tức được các bình luận gia chính trị cũng như hình sự phân tích, cho ra ngay một kết luận, nói chung và về đại thể, nếu không đúng hẳn thì cũng gần đúng.

Vậy mà không một ai biết trước cuộc chuyển trại. Mọi sự diễn ra hết sức bình thường những ngày trước đó.

Đùng một cái, tai hoạ ập đến. Mọi người nhớn nhác, mặt xám ngoét, nhưng đến lúc ấy thì không còn gì để đối phó nữa rồi, không kịp nữa rồi.

Cuộc sống thường nhật, dù trong trại tù, lâu ngày đã ổn định, đã thành nếp, cho dù tồi tệ đến mấy, bỗng nhiên lộn tùng phèo. Mất mát đủ thứ. Tan đàn xẻ nghé. Trước mặt là một sự tù mù trên hết mọi sự tù mù, tốt ít xấu nhiều.

Những nhà giam được bố trí thành hàng như những cục gạch xám bỗng chốc xôn xao như những tổ ong bò vẽ. Đã tới giờ mở cửa cho tù ra làm vệ sinh cá nhân, ăn sáng rồi đi lao động như thường lệ mà cửa vẫn đóng chặt. Hơn một giờ sau mới thấy một toán quân quan vàng khè xuất hiện ở cổng trại, tiểu liên cầm ngang.

– “Loại ”? – một người trong rất nhiều người chen chúc nhau bám vào song sắt cửa sổ để nhìn ra, nói – Dám lắm.

Đến giữa sân, toán công an tản ra thành từng nhóm nhỏ đi về phía các nhà.

– Có vẻ không phải chuyển trại – một tiếng nói cất lên – Chắc chỉ “loại” thôi…

Một hi vọng thốt thành lời. Nó không được đám đông hưởng ứng.

– Đúng chuyển trại rồi – một người to – Nếu không thì súng ống kè kè làm gì…

– Chuyển trại ắt cánh tự giác phải biết – người khác phản bác – Chuyển trại thì họ đã phải đi dọn tủ, khuân hồ sơ từ mấy hôm trước chứ. Cán bộ có khi nào tự khuân vác…

– Hay là có thanh tra Bộ về chăng?

Gì thì gì, sự bất thường như thế này chắc hẳn lành ít dữ nhiều. Mấy anh tự giác thuộc toán lâm sản hối hả chạy đi thủ tiêu đồ vi phạm nội quy – cẩn tắc vô áy náy. Chỗ thủ tiêu tốt nhất, ai cũng biết, là hố xí cuối phòng. Những viên cai tù trẻ mới vào nghề rất mẫn cán mò mẫm mọi xó xỉnh để tìm cớ trừng phạt bọn tù nhân mất dạy cũng chừa chỗ ấy ra.

Đồ phạm nội quy thì nhiều, kể không xiết. Nó có thể là những ống bương đựng dầu diesel ăn cắp ở tổ máy cày dùng cho việc “sột sệt”, “nhặm xà ”, những bọc trà “tự biên tự diễn” to tú hụ do hái trộm mà có, là quần áo dân sự còn mới để bán cho tù được tha, là bật lửa tàu bò, lưỡi dao cạo râu Tiệp Khắc, những vật dụng đời thường nhờ mua bán đổi chác với dân quanh trại. Có thể kể thêm những dụng cụ sắc nhọn dùng để chế tạo nõ điếu, thìa, hộp đựng thuốc lào, do những tay tổ của nghề chạm trổ làm ra, đẹp còn hơn hàng thủ công mỹ nghệ. Cán bộ thường đặt tù làm những đồ vật cầu kỳ ấy với giá rẻ mạt: vài phong thuốc lào. Những thứ này có thể mang về quê làm quà hoặc bán lại. Được dịp tịch thu vô tội vạ những đồ không đâu có thì ai có thể bỏ qua. Quản giáo và lính thu tất tật mọi vật bằng kim khí, là thứ có thể suy diễn thành dụng cụ cưa chấn song hoặc hung khí cho một cuộc thanh toán giang hồ…

Trong căn phòng tối mờ mịt khói thuốc lào, mấy cái bóng xám vọt vào vọt ra nơi chuồng xí, trong khi ở bên ngoài đã vang lên tiếng khoá mở lạch xạch, tiếng then rít ken két.

– Ê, ra sân tập họp!

– Mang theo đồ đoàn. Không được để lại thứ gì.

Tiếng mấy “ông cán bộ” vang lên nơi cánh cửa vừa được mở rộng. Không khí trong lành của ban mai ùa vào.

Một tiếng ồ ngạc nhiên khe khẽ lan nhanh trong đám tù nhốn nháo. Người ta quýnh quáng:

– “Loại”rồi!

– Chuyển trại là cái chắc.

– Thường, đến trại mới người ta mới “loại” cơ mà.

– Chết cha, con dao mày để đâu? Tao cầm bằng mất toi cái tàu bò.

– Suỵt! Giấu không kịp đâu. Vứt.

– Tao nhét bao “ken tẩy ”ở đây đấy nhá. Tao hô rồi đấy. Thằng nào “bẩm” tao xin tí tiết. Trong cái nhà này tao biết tỏng thằng nào là Gia Ve .

Nhưng cả tự giác, tù thường, lẫn Gia Ve, đều chưng hửng khi ở sân trại họ được lệnh rỡ hết đồ đoàn để ra trước mặt. Giờ thì tất cả đều như nhau trong cuộc tổng lục soát.

Hầu như người tù nào cũng có một cái gì đó vi phạm nội quy trại, hoặc nhẹ nhất thì cũng bị coi là trái với nó, nếu trong nội quy chưa ghi đủ. Một cái áo rách xé ra bện thành bùi nhùi giữ lửa có thể bị tình nghi là thứ dùng để vượt tường rào. Một tờ giấy viết dở cũng bị nghi là sự thông tin với bên ngoài chưa kịp chuyển đi.

Già Lương, ông hàng xóm của tôi, ngồi xếp bằng tròn trên giường, bình chân như vại. Trong lúc thiên hạ bấn loạn, chỉ có mình già là tỉnh khô, nhìn đời bằng con mắt bàng quan. Thật vậy, già thì có quái gì mà phải lo.

Người ta sợ mất thứ này thứ khác, cuống cuồng giấu giấu giếm giếm, chứ tài sản của già chỉ có một cái tay nải. Tôi biết tỏng trong đó có gì: một bộ quần áo tù còn lành không mấy khi mặc đến, một cái áo trấn thủ còn khá tươm để dành cho những ngày đại hàn, một sợi chỉ dài quấn quanh một cọng tre với một cái kim bằng cật tre. Không kể mẩu khăn mặt rách, to hơn bàn tay, đã thâm xỉn vì mồ hôi nhiều năm. Đồ vật đáng giá hơn cả thì già đã khoác trên người rồi, đông cũng như hè. Đó là cái áo bông vải kaki xanh Sĩ Lâm , loại bán cho cán bộ chứ không bán cho dân, nhưng cũng đã rách, với những mụn vá sặc sỡ,

Già Lương là tù “số lẻ”, tức tù chính trị. Tôi nằm cạnh ông hơn một năm trời nhưng tịnh không biết ông phạm vào tội gì trong cái sự chính trị rất chi là tù mù ở nước ta. Đáp lại câu hỏi của tôi: ông có phải Ku Dét không? Ông lắc. Có phải ông là Đờ Vờ không? Ông lắc. Hay ông bị quy địa chủ cường hào gian ác, có nợ máu với nhân dân? Ông cũng lắc. Lại hỏi: có phải ông lỡ lời nói xấu chế độ, hoặc lỡ tay chống người nhà nước để phạm tội chống chính quyền địa phương không? Ông cũng lắc nốt. Tóm lại, tại sao già Lương là tù “số lẻ” là câu hỏi không có lời giải đáp. Chỉ biết ông tội danh của ông là “phản động, chống chế độ”, tức là i xì cái tội danh rất chung chung của hơn hai trăm tù “số lẻ” trong trại. Ấy là thân rồi tôi mới dám hỏi già. Chứ trong tù mà hỏi tội danh của nhau là điều tối kỵ. Người ta chỉ tình cờ biết người nào tội gì vào dịp tổng điểm danh, mỗi năm một lần. Chỉ vào dịp ấy cán bộ trại mới gọi tên từng người, mới công khai xướng lên giữa bàn dân thiên hạ rằng ai phạm tội gì, án phạt bao nhiêu năm.

Cuộc lục soát bắt đầu.

Tù ngồi thành từng toán trên sân điểm danh. Mỗi quản giáo trông hai tự giác lục bới tung toé đồ đoàn của từng người. Giờ thì không ai dám thì thào với ai nữa. Sân trại im phăng phắc.

Những người tù, mặt chảy dài, theo dõi đôi tay sục sạo thoăn thoắt của kẻ khám đồ. Chẳng còn cách nào kịp giấu những thứ cầm bằng bị thu. Ở trong tù cái gì cũng quý, từ mẩu đai thùng được mài sắc làm dao chẻ tăm, cắt móng chân móng tay, kể cả mảnh ni-lông gói đồ.

Thường, trong cuộc tổng “loại” như thế cán bộ chỉ thu đồ vi phạm nội quy chứ không phạt kẻ sở hữu. Phạt không xuể. Số người vi phạm nội quy quá đông, mà trại chỉ có một khu kỷ luật với một tá xà lim. Trừ phi phát hiện ra vũ khí, hoặc đồ vật có thể dùng làm vũ khí, đại loại như dao găm hoặc dùi, búa, cưa sắt, người ta mới tống kẻ vi phạm vào “u tì quốc ”, cùm chặt.

Của thu được dần chất thành đống.

Người trông cuộc tổng “loại” là phó giám thị Tằng, biệt hiệu “Tằng ác ôn”. Lùn một mẩu, cằm bạnh, môi thâm, mắt trắng dã, Tằng nghiện ra oai với tù. Đứng trước mặt y, anh tù nào vô phúc có chiều cao nhỉnh hơn y một tí là phải lập tức khuỵu hai đầu gối xuống, cổ rụt lại, hai tay bỏ thõng tối đa – tthấp đi được chừng nào hay chừng ấy. Già Lương thản nhiên nhìn trời. Mọi sự diễn ra chung quanh chẳng làm già động tâm. Cái lối nhìn trời như thế đã nhiều lần bị các quản giáo bắt tội: này, cái anh già vênh vênh cái mặt kia, anh thách thức ai đấy? Anh láo hả? Cụp cái mặt xuống!

Khốn nạn thân già Lương. Nào già có định thách thức ai đâu, có định thách thức cái gì đâu. Tôi biết cái tật ấy của già lắm. Già mải suy cái nghĩ của già, vậy thôi. Có lần mải suy nghĩ và nhìn trời, già đã ăn mấy báng súng vì tội không thèm trả lời cán bộ. Rồi chứng nào tật nấy, già vẫn cứ thế, cứ vênh vênh, không chừa.

– Tránh voi chẳng xấu mặt nào, bác ơi! – trong những trường hợp như thế chính tôi cũng khuyên già – Mình là thằng tù. Một thằng oắt con đáng tuổi cháu gọi bằng ông cũng có quyền cầm roi vụt mình, bác chớ dại…

– Khốn tính tôi cả nghĩ, ông ạ – già chép miệng – Mà đã nghĩ là cứ lan man, dứt không ra. Thí dụ tôi nhớ chuyện các cụ tôi ngày xưa dạy tôi thế nào, các cụ dữ lắm, đòn luôn luôn, có lần tôi mải nhìn trời nhìn đất gặp ông mõ không chào, thế là bị một trận vì tội khinh người… Ông biết đấy, mõ là thứ cùng đinh trong thiên hạ, bị thiên hạ coi rẻ, cơ mà oan cho tôi, tôi nhãng đi không thấy ông ấy, không phải tôi dám khinh. Chao ôi là dữ, cái trận ấy…

Già bắt đầu kể, rồi im bặt, chìm nghỉm trong hồi tưởng..

Lần này cũng vậy. Trung uý Tằng đến trước mặt già mà già không hay. Mà già cao hơn Tằng hẳn một cái đầu. Phải ngước lên mới nhìn được vào mắt già, Tằng đã khó chịu lắm.

– Anh kia, nhìn nhìn cái gì?

Tôi đứng bên già Lương. Tôi huých già một cái mạnh. Già choàng tỉnh. Cúi xuống nhìn Tằng, già chậm rãi hỏi “ông cán bộ ” chỉ đáng tuổi con út hoặc cháu mình:

– Cán bộ hỏi nhà cháu ạ?

– Còn thằng chó nào vào đây nữa? Anh nhìn nhìn cái gì?

Cặp mắt kéo màng của già mở to hơn một chút, đôi lông mày rậm với những sợi lông dài bạc trắng của già hơi nhướng lên một chút.

– Dạ?

Tằng nạt nộ:

– Dạ cái con khỉ. Tôi hỏi anh phải đứng nghiêm trả lời: anh nhìn cái gì?

Già Lương đến lúc ấy mới vỡ câu hỏi. Theo thói quen, già vuốt râu một cái, rồi mới thủng thẳng đáp:

– À, thưa cán bộ, nhà cháu mải nhìn đám mây ạ.

– Đám mây thì có gì mà nhìn? Anh dở người hử?

– Dạ, không, nhà cháu tỉnh trí ạ…

– Thế sao nhìn mây?

– Dạ, nó giống cái kiệu bát cống ạ.

Tằng gườm gườm nhìn già Lương. Rồi hất hàm gọi tay trật tự trại và tay nhà bếp vừa khám xong một người tù ở gần đấy:

– Lại đây. “Loại” thằng này! Tao bảo đảm: nó có vấn đề.

Già Lương lúc ấy mới thật tỉnh hẳn.

Già tự động ngồi xuống, chậm chạp mở nút buộc tay nải. Những ngón tay khô xác run bần bật. Cái đó lại càng gây ra nghi ngờ. Không có gì vi phạm thì sao lại run? Nhưng cả tay trật tự lẫn tay nhà bếp đều biết tỏng ông già là người thế nào. Ông già hiền lành này chẳng có gì để vi phạm nội quy, có “loại” mấy cũng chẳng ra. Ông có bệnh rung tay. Biết thế, họ chỉ thọc vào cái tay nải rách rưới của ông già, khua khoắng lấy lệ. Khi lôi từ trong đó ra bộ cái áo trấn thủ, mẩu khăn mặt hôi rình và rất nhiều mụn vải, mũi họ chun lại.

– Báo cáo ông, không có gì ạ – anh trật tự đứng lên, lễ phép bẩm.

– Chắc không? – Tằng trề môi – Còn cái áo bông kia?

Y hất hàm ra lệnh cho già Lương cởi áo bông ra.

Đúng vào lúc ấy già Lương phạm một sai lầm không tha thứ được – thay vì lễ phép cởi áo đưa cho anh trật tự thì già lại vứt toẹt nó xuống đất. Thái độ ấy của già làm cho tay trật tự nổi cạu. Chẳng nói chẳng rằng, y hằm hằm nắn bóp cái áo bông.

Bỗng mắt y sáng lên. Y mạnh tay xé rách lớp mền cái roạt rồi lôi ra một khúc nứa tép nhỏ xíu.

– Cái gì đây, anh giế ? – giọng trịch thượng, y hỏi.

– Thì anh cứ xem đi. – thay vì ăn nói lễ phép với trật tự trại, ít nhất thì y cũng là bậc chức sắc trong xã hội tù, già khinh khỉnh đáp.

Tằng nheo mắt nhìn ống nứa tép. “Không biết thằng già giấu cái gì trong đó?”.

Mở cái ống không được, nắp của nó gắn liền với thân bằng một thứ nhựa quỷ quái gì không biết, rất chặt, tay trật tự bèn đặt nó lên đầu gối, bẻ gãy đôi. Tiếng nứa vỡ toác. Bên trong là một tờ giấy cuộn tròn.

– Hừm – Tằng nói – anh “giề” này gớm nhỉ? “Yểm ”cái gì đây?

Sống với tù lâu, Tằng thuộc mọi tiếng lóng của lưu manh.

Già Lương biến sắc.

Tay trật tự mở tờ giấy, giơ ra trước mặt. Đó là một bức tranh vẽ bằng bút chì. Trong tranh là hình một ông già quắc thước, chòm râu thưa phơ phất.

– Gì đây, hử? – Tằng dằn giọng.

Già Lương lí nhí:

– Báo cáo cán bộ: cái này là…

– Cái gì?

– Dạ, báo cáo ông, là cái tranh thờ của nhà cháu ạ….

Tằng ra lệnh:

– Đưa tôi!

Tay trật tự cung kính đưa bức tranh cho phó giám thị bằng hai tay.

– Hừm! – Tằng nghiêng ngó ngắm bức tranh, rồi sẵng giọng – Anh này láo. Láo lắm! Anh có biết anh phạm tội gì không?

Già Lương còn lúng túng hơn nữa.

– Dạ, nhà cháu không biết…

– Lại còn vờ! – Tằng gắt – Không biết? Hay cố tình?

Đến lúc ấy thì già Lương quýnh lên, lắp bắp:

– Dạ, thưa cán bộ, nhà cháu…

– Nói, cái gì?

– Nhà cháu…, thưa ông cán bộ, nhà cháu sợ tranh bị ướt, nhà cháu mới cất cẩn thận…

Tằng nguýt:

– Anh vẫn chưa thấy rằng anh có tội?

Già Lương còn luống cuống hơn nữa:

– Dạ, xin ông cán bộ chỉ bảo…

Tằng nghiêm nghị:

– Để tôi giảng cho anh nghe. Tội của anh là thế này: nhân dân ta ai cũng có lòng thành kính lãnh tụ. Thờ Bác không có tội. Nhưng chỗ thờ phụng Bác phải là nơi tôn nghiêm, chỗ tinh khiết, vậy mà anh dám cả gan giấu ảnh Bác trong cái áo hôi thối của anh. Anh phải biết đây là đâu chứ? Đây là nhà tù, hiểu chửa? Thằng tù không có phép được thờ Bác trong cái chốn nhơ nhuốc này, hiểu chửa?

Già Lương lắp bắp:

– Dạ, nhà cháu hiểu… Nhưng, thưa ông xét cho…

Tằng dằn từng tiếng:

– Im cái mồm. Xét xét cái gì? Đừng có mà nguỵ biện. Không có nhưng nhiếc gì hết. Tôi lại không đi guốc vào bụng các anh ấy à. Mười anh bị bắt vào đây, chín anh rưỡi kêu oan. Có mà oan Thị Mầu! Tội lỗi đầy mình còn ngoạc mồm ra kêu Đảng kêu Bác đèn trời soi xét…

Mặt già Lương thượt ra:

– Dạ, quả thật nhà cháu không dám thế, báo cáo ông …

Tằng quát:

– Anh hay đứa nào ở đây dám vẽ ảnh Bác?

Già Lương còn quýnh hơn nữa, đến nỗi nói lắp:

– Dạ, thưa thưa thưa…ông…

Tằng quát to hơn nữa:

– Im tắp lự. Còn thưa bẩm nỗi gì?

Già Lương cúi mặt:

– Dạ, thưa ông cán bộ, không phải ảnh Cụ đâu ạ…

– Còn cãi. Thằng nào vẽ cho anh? Khai ra.

– Dạ…

– Không thưa bẩm gì hết. Tôi hỏi anh: thằng nào vẽ?

Mấy cán bộ thấy ồn ào chạy lại.

Tình hình coi mòi nghiêm trọng. Không phải chuyện chơi. Mặt già Lương rịn mồ hôi.

Anh trật tự ghé vào tai già:

– Khốn nạn, bố ngu như bò í. Có gì cứ khai thật đi, ông cán bộ thương, ông tha cho.

– Nhưng…

– Còn nhưng nhưng cái gì? – anh ta nhăn mặt – Ngu thế. Cứ thưa thật với ông cán bộ. Muốn chết hử?

Già Lương cuống lên, gắt:

– Thì tôi khai thực mà. Anh đừng lên mặt với tôi. Anh cũng là thằng tù như tôi thôi…

Quay sang Tằng, già chắp hai tay van vỉ:

– Thưa ông, nhà cháu xin khai thật… Cái này không phải ảnh Cụ đâu ạ…

– Thế nó còn là cái gì? Hử?

Già Lương ấp úng thẽ thọt:

– Dạ, nó là… , nó là bức tranh thờ của nhà cháu…

Tằng gắt to:

– Của anh, rõ rồi, không phải của anh thì việc gì anh phải “yểm” kỹ thế? Câu hỏi của tôi anh đừng có lờ: thằng nào vẽ? Anh phải thành khẩn khai ra: thằng nào dám vẽ Bác để cho anh thờ trong tù?

– Dạ, nhà cháu…

– Đừng lấy vải thưa che mắt thánh. Sao? Anh không muốn khai hử? Còn muốn che giấu hử?

Già Lương cúi gằm mặt.

– Thằng nào? Nói mau!

Những người tù đứng gần quên cả việc lục soát, chằm chằm nhìn vào mặt già.

– Thưa ông, nhà cháu khai thật ạ. Không phải ảnh Cụ đâu ạ…

– Vẫn còn chối, hử?

– Thật ạ – giờ thì già Lương không kiềm chế được nữa, già nói một thôi một hồi – Nói có trời đất, nhà cháu không dám nói sai. Nhà cháu năm nay gần tám mươi rồi. Chẳng còn mấy nả nữa… Sắp xuống lỗ rồi…Lúc đi trại, mười lăm năm rồi, không phải ít, nhà cháu đi không một hình tích để lại, con cái cháu chắt ở nhà nhiều đứa chỉ nhớ được cái tên chứ không biết mặt… Vậy nên nhà cháu mới cậy người ta hoạ cho một bức…để khi nào có người nhà lên thăm thì cho mang về…

– Hừm – Tằng nheo mắt, chăm chú nhìn lại bức hình, rồi nhìn người tù trước mặt – Tức là, anh nói hình này là hình anh?

– … Dạ, đúng vậy. Nhà cháu nghĩ: nay mai có chết đi thì, thưa ông, cũng còn tấm hình để lại.

Tôi ở với già Lương cả năm mà không biết già có bức hình ấy. Liếc mắt nhìn tờ giấy trong tay Tằng, tôi thấy Tằng không phải không có lý – người trong bức hình quả có hao hao giống lãnh tụ tối cao, cha già dân tộc. Cũng cặp mắt sâu, cũng đôi lưỡng quyền cao, cũng chòm râu thưa “tu bất phủ hầu”, được thiên hạ coi là quý tướng. Không biết già có bức hình này từ khi nào?

Tằng dịu giọng:

– Chắc là hình anh không?

– Dạ, thưa ông cán bộ, có trời đất chứng giám…

– Không cần anh thề. Thề cá trê chui ống. Anh có thề cả trăm lần tôi cũng không tin. Anh trả lời tôi tắp lự: đứa nào vẽ?

– Thưa ông, anh Ca ạ – như chết đuối vớ phải cọc, già Lương chắc mẩm Tằng đã mềm lòng, ngước nhìn hắn bằng cặp mắt ướt nhèm – Anh ấy được tha năm ngoái. Cái anh xương xương người, Ban vẫn thường gọi lên kẻ bảng với làm vườn hoa ấy ạ.

– Ờ…

– Thưa ông, anh ấy có hoa tay, nét vẽ rất có tinh thần…

– Chuyện này rồi phải cho điều tra đến nơi đến chốn. Cái thằng Ca này xem chừng có vấn đề đây. Có âm mưu gì trong chuyện này đây?

– Dạ, đúng là thế ạ.

– Nói để anh biết: tôi sẽ đích thân xem xétviệc này. Tôi sẽ tư về địa phương cho điều tra lại thằng Ca. Các anh đừng có tưởng bở: khỏi vòng cong đuôi, cầm được trong tay tờ lệnh tha là xong, là hết mọi chuyện. Đừng hòng nhé! Ở đâu cũng là đất đai của Đảng, của Bác. Lưới Đảng lồng lộng, con ruồi chui không lọt.

– Thưa ông, xin ông đừng nghĩ oan cho anh ấy – già Lương thấy mình có trách nhiệm bảo vệ tác giả bức hình, lại lắp bắp một thôi một hồi – Anh Ca có án đàng hoàng đấy ạ, không phải tập trung cải tạo như nhà cháu đâu ạ. Anh ấy cũng không phải phản động, không phải kẻ thù của nhân dân đâu ạ. Ông cán bộ cũng biết, anh ấy còn thuộc diện cải tạo tốt đấy ạ. Nhà cháu thấy anh ấy hoạ được, mới nhờ anh ấy hoạ cho một bức. Nể lắm, thương lắm, anh ấy mới hoạ cho nhà cháu. Ông xem lại bức hình, giống in nhà cháu đấy ạ. Anh ấy không dám báng bổ Cụ Hồ đâu ạ… Ông xét cho, anh ấy người hiền lành tử tế…

– Hừm, anh dám bảo thằng Ca là hiền lành tử tế, hử? Người hiền lành tử tế không ai ở tù. Lại còn bảo bức vẽ của nó giống nhà anh, là có tinh thần.

– Dạ.

Tằng vẫn giữ giọng nghiêm khắc, nhưng không còn gay gắt:

– Vẽ anh mà lại hoá ra giống Bác, bậy, bậy hết sức. Phải có ẩn ý gì nó mới vẽ ra thế chứ?

– Thưa, ông đèn giời soi xét – già Lương nói – người già mà lại gày thời hao hao nhau. Ông chớ nghi anh Ca phải tội…

– Nghi đứa nào, nghi cái gì, là quyền của tôi, Tằng cao giọng – Ngay cái chuyện nó vẽ hình cho anh để thờ cũng đáng trừng phạt rồi. Ai cho phép nó vẽ? Nó có xin phép cán bộ được vẽ không? Lại nữa, anh là thằng nào? Hử? Anh là thằng phản động. Có phải thằng phản động không?

– Dạ, thưa ông cán bộ, phải.

– Không ai thờ thằng phản động hết, rõ chửa? Con cháu cũng vậy, không con cháu nào được thờ ông cha phản động. Đứa nào thờ phản động thì đứa ấy cũng là phản động. Anh muốn cả nhà anh kéo nhau vào đây hay sao?

– Dạ, không ạ.

Giọng Tằng “ác ôn” bỗng dịu xuống:

– Thôi được, là nói thế thôi, chứ tôi tha cho anh lần này. Là tôi thương cái tuổi già của anh…

– Dạ, nhà cháu đội ơn Ban…

– Nhưng cái hình này thì tôi thu.

Già Lương mếu máo:

– Thưa ông …

– Còn thưa bẩm cái gì nữa đây?

Già Lương chắp hai tay, van lơn:

– Xin ông cho lại nhà cháu cái hình. Không phải dễ gì nhà cháu được gặp người như anh Ca để có được bức hình này. Nhà cháu thưa thật tình: trong cả gia tộc không còn cái hình nào của nhà cháu cả… Trâu chết để da, người chết cũng phải để lại cái hình cái bóng…

– Im ngay! Không lằng nhằng!

Tằng quát. Tôi thúc cùi chỏ vào mạng sườn ông bạn già. Cú thúc quá mạnh, ông nhăn mặt. Tằng nhìn tôi, lừ mắt.

– Dạ – giọng già Lương run run – Xin ông rón tay…

Tằng bỗng ghé sát mặt già Lương, đăm đăm nhìn. Thằng khốn nạn, y còn định làm gì ông già khốn khổ nữa đây

– Hừm – Tằng ra chiều suy nghĩ – Hừm.

Trong giây phút kéo dài ấy già Lương vẫn còn phấp phỏng chờ đợi, vẫn còn hi vọng, có vẻ là như thế. Biết đâu đấy, dù sao Tằng cũng là người, y ác đấy, nhưng cũng phải có lúc y không ác chứ, y sẽ nghĩ lại cho già cũng nên. Rất có thể y sẽ trao lại cho già bức chân dung để thờ kia, với một câu quát lấy lệ, không quát không được, nhưng y sẽ trả lại. Tôi đoán phỏng thế. Trong phút đó tôi hình dung ra bức hình của già được đặt trang trọng trên ban thờ, trong khói hương vương vất.

Rời khỏi mặt già Lương, Tằng lắc đầu, giọng thương hại:

– Anh là thằng không có trí khôn. Loại ngu lâu, khó đào tạo. Thằng như anh biết bao giờ mới được đánh giá là cải tạo tốt để được hưởng lượng khoan hồng của Đảng…

– Dạ, thưa ông, nhà cháu biết thế ạ, nhà cháu không dám nghĩ tới ngày về đâu ạ… – già Lương vẫn chưa hết hi vọng – Vì thế nhà cháu mới muốn có bức hình, để đến nỗi vi phạm nội quy…

– Nghĩ thế cũng không đúng. Đã vào đây rồi, an tâm cải tạo là tốt, nhưng phải nghĩ tới ngày được Đảng thương đến, Đảng cho về với vợ con chứ…

– Dạ. Cảm ơn ông cán bộ dạy bảo.

– Hừm.

Đúng là Tằng suy nghĩ. Với loại người như Tằng, những phút suy nghĩ rất hiếm hoi. Tôi cho rằng cơn nóng đã dịu, y sẽ cho ông già được phép giữ bức hình.

Tại sao y không thể làm người, dù chỉ trong một phút?

Nhưng tôi sai. Bằng giọng ôn tồn, y nói với già Lương:

– Nói cho anh biết: anh là thằng tù. Đừng có lúc nào quên điều đó. Nhá? Được tha rồi cũng chớ quên. Hồ sơ anh còn đấy, nó sẽ theo anh mãi mãi. Suốt đời. Phàm là thằng tù thì không được hỗn. Không được phép giống Bác. Giống Bác là hỗn đấy. Tù nào cũng thế, tuốt mo, tù hiếp dâm, tù ăn cướp, tù phản động chống chế độ. Không được là không được. Hiểu chửa?

Già Lương nuốt nước bọt đánh ực.

Tằng gập bức hình làm tư, đút vào túi quần.

Đoạn, y vẫy tay gọi anh văn hoá trại đang lui cui khám một người tù gần đấy:

– Ê, văn hoá!

– Dạ, thưa ông gọi!

– Phải. Bỏ đó đã. Mang tông đơ lại đây!

Thoắt cái, anh ta chạy lên phòng văn hoá, cách đấy khá xa, thoắt cái đã đứng nghiêm trước mặt Tằng “ác ôn”, tay phải lăm lăm cái tông đơ.

– Húi trụi cả râu lẫn ria anh này cho tôi!

Nhìn vào mặt già Lương, Tằng xin xít nói qua hai hàm răng nghiến:

– Vào đây rồi mà còn để râu. Lại còn dám nói: hao hao giống Bác. Láo! Láo đến thế là cùng! Húi!

Anh văn hoá trại kiêm phó cạo đưa tông đơ lên.

Tôi nhìn xuống. Tôi không muốn chứng kiến cảnh tượng ấy. Trong tầm mắt của tôi, tôi nhìn thấy những sợi râu bạc trắng rơi xuống. Tôi nhìn thấy đôi chân gày của già Lương kiễng lên, kiễng lên mãi. Ấy là khi cái tông đơ rúc lên hai lỗ mũi già.

Tằng “ác ôn” lững thững rời khỏi chỗ già Lương đứng, tiếp tục chỉ huy cuộc lục soát.

Trong cuộc chuyển trại diễn ra sau đó, khi cuộc tổng “loại” kết thúc, mọi người trên xe chở tù đều im lặng, lắc lư, không ai nói với ai một câu.

Tôi không nghe già Lương ngồi bên tôi than thở.

Ngay cả một tiếng thở dài cũng không.

1990

Comments are closed.