Chân Nhân (kỳ 3)

Tiểu thuyết của Trần Thanh Cảnh

BA

Nhà thày Bút nguyên ở trong xóm Dâu. Sát cạnh nhà bà Hạnh Thục.

Hai nhà vốn là hàng xóm láng giềng từ lâu đời. Nghe nói là họ đã ở cạnh nhau từ lâu lắm rồi kia. Nhưng mà thật ra chuyện này cũng nghe hơi nồi chõ thế thì lại nói thế, chứ câu chuyện gọi là lâu đời ở cái làng Cùng này, có giỏi thì mọi người cũng chỉ nhớ đến đời ông, đời cụ… Chứ sâu xa hơn nữa là tơ lơ mơ hết.

Nhà thày Bút truyền đời làm thày cúng. Có thể gọi là thày cúng gia truyền. Đời cụ kỵ tổ tông trở về trước không ai nhớ. Ngày xưa thì từng nhà từng họ đều có gia phả, tộc phả chép rõ ràng mọi chuyện, có điều gì cần tra cứu mở ra xem thấy ngay. Thế nhưng có một cái hồi dân làng Cùng, mà không, dân cả nước mình đều thế cả, lại cho những cái đó, những cái văn tự từ thời phong kiến đế quốc còn lại là nọc độc lạc hậu, cần phải đốt bỏ! Thế là bao nhiêu sách của tổ tiên dày công chép đem đốt sạch! Sau này nhiều tay thức giả trong nước mới ngồi than thở về cái nỗi đứt mạch văn hóa. Họ nói hồi thế kỷ mười lăm khi bọn giặc Minh sang chiếm nước ta, chúng đã đốt sách phá bia một đận rồi. Đến thế kỷ hai mươi, nước ta lại bị đận nữa… Nói đến đây, bỗng mấy ông đần mặt ra: có lẽ nào đây chính là âm mưu của bọn ngoại xâm gian trá, làm cho tiệt tiêu văn hóa của dân Việt để nuốt chửng? Hàng ngàn năm trước bọn họ đã giở đủ trò dã man bần tiện khốn nạn để đồng hóa dân ta mà không được đấy thôi. Chung quy lại chỉ là do cái mà ngày xưa cụ Ức Trai viết: “Núi sông bờ cõi đã chia/ Phong tục Bắc Nam cũng khác..”. Điều mà cụ gọi là “phong tục” ấy, bây giờ ta mới định danh là “bản sắc văn hóa” đó! Biên giới núi sông có thể dịch chuyển xóa nhòa, song phong tục, văn hóa thì thật khó mà thay đổi. Dân tộc Việt ta chính là do có cái phong tục – bản sắc văn hóa khác hẳn người phương Bắc cho nên mới không bị hòa tan vào cái khối khổng lồ kia. Nhưng âm mưu xâm chiếm đồng hóa của họ với ta thì hình như có sẵn trong gien. Từ đời nọ sang đời kia vẫn cứ một lòng như vậy. Bọn họ đã truyền đời nhau cái âm mưu đồng hóa ấy. Có thể không hẳn là thế. Thế nhưng rõ ràng mấy kỳ tai họa của nước ta gần đây đều từ phương ấy mà sang cả.

Thực ra những điều trên cũng chỉ là suy đoán của mấy ông trí thức bất đắc chí bên bàn trà mà thôi, không lấy gì làm chắc lắm. Vì nghe nói dân bên đó cũng bị tai họa khốn khổ chả kém dân mình. Cũng xương chất thành núi máu chảy thành sông cả. Nhưng có điều chắc là gia phả văn tự tổ tiên bao đời của rất nhiều các gia đình, dòng họ trong nước ta hình như dịp đó bị đốt hết. Thế nên nhiều nhà nhiều họ cứ ang áng rằng mình là nguồn gốc ở đâu, tổ tiên thế nào… truyền khẩu đại khái thế thôi. Đến như nhà thày cúng gia truyền nổi danh cả vùng hàng trăm, hàng ngàn năm nay cũng còn lơ mơ nữa là dân đen mù chữ. Thì cả làng Cùng ai cũng nói nhà thày Bút làm nghề thày cúng gia truyền hàng trăm đời rồi, từ cái ngày Đại Thánh Nhân khai sông xong cưỡi diều về kinh thành, có truyền lại cho cụ tổ nhà ông ấy một quyển sách quý. Nghe nói trong quyển sách đó Đại Thánh Nhân đã ghi lại đầy đủ những điều răn dạy để làm lẽ sống con người ở đời. Lại ghi rõ cả những phép tắc dạy dỗ con trẻ, thờ phụng tổ tiên. Rồi cùng là cách chọn thế đất làm nhà hay ngày giờ tuổi tác dựng vợ gả chồng sao cho được viên mãn trăm năm. Nhưng cuốn sách đó được chép bằng một thứ văn tự rất lạ, ít người đọc và hiểu được. Đại Thánh Nhân chỉ truyền dạy cho riêng dòng dõi nhà thày cúng gia truyền trong làng để giữ việc hương khói. Trước đó, khi Làng Cùng chưa được Đại Thánh Nhân giáo hóa, mọi việc trong làng do một tay ông Chân Nhân Tiên Sinh lo liệu. Sau này khi Đại Thánh Nhân lập trường dạy chữ, giáo hóa dân chúng sống cho đúng phép tắc, thì ngài mới truyền sách cho ông cụ tổ nhà thày Bút làm việc cúng tế trong làng, để ông ấy thay mình duy trì lễ nghĩa. Rồi ông ấy lại truyền dạy cho con cháu kế mình. Cứ thế đời nọ truyền đời kia. Thế nên mọi người mới nói nhà Thày Bút làm thày cúng gia truyền. Nhưng đã bao nhiêu đời thực ra bây giờ dân làng cũng chỉ lơ mơ. Chỉ biết chắc từ đời ông nội của thày Bút trở về đây. Là mục sở thị.

Ông nội của thày Bút là cụ Tú Sách không những là thày cúng lão luyện mà còn nổi tiếng cả vùng vì văn hay chữ tốt, lại thạo bấm độn tướng số và phong thủy. Gọi là cụ Tú Sách vì hồi đó chưa thi cử theo lối mới, cụ có dự kỳ thi cuối cùng và đỗ cái tú tài. Thế rồi triều đình cùng nhà nước bảo hộ bỏ chữ thánh hiền, học quốc ngữ nên cụ Tú Sách mãi chỉ là tú tài mà thôi. Thấy kể hồi xửa hồi xưa khi cụ Tú Sách còn sống, cả vùng trọng vọng lắm. Các nhà gia thế thay nhau đến rước cụ đi xem phong thủy, xem đất, xem hướng cất nhà, cải cát sang mộ… Năm hết tết đến, làng trên xóm dưới còn nô nức về xin cụ vài chữ chơi xuân mới gọi là thỏa lòng. Đến ngay như dân làng Ngọc mạn trên nổi tiếng nhiều người hay chữ thánh hiền, nhiều người đi làm thày đồ, gõ đầu trẻ ăn cơm khắp thiên hạ mà hồi ấy có sự gì cũng chỉ nhăm nhăm xuống làng Cùng rước cụ Tú Sách lên xem xét mọi sự rồi cho vài ý. Còn như cái việc xem ngày cưới hỏi, cúng bái nhập quan, dâng sao giải hạn, trừ tà đuổi ma, lập xuân vào hạ… thì cụ Tú Sách chỉ làm trong làng Cùng đã mệt chứ chả còn sức đâu mà đi các nơi. Cụ sống đến năm tám mươi mốt tuổi thì chết. Cụ chết đúng hồi cải cách ruộng đất. Sau này có người bịa chuyện nói cụ chết do bị đội xử bắn như địa chủ Sùng xóm La. Không phải vậy. Chỉ là cụ chết già. Có điều khi cụ chết thì âm thầm lắm, chả có ai đến đọc bài cúng nhập quan hay cầu kinh cho linh hồn cụ siêu thoát. Vì lúc đó cả làng Cùng đang hừng hực khí thế thời đại mới, phá bỏ hủ tục. Chỉ có mấy ông già bà cả kín đáo thở dài chép miệng: “Khổ, ông ấy suốt đời đi cầu cúng cho người ta, lúc chết thì lại chả có ai đọc cho một lời kinh pháp”. Bởi lúc đó con trai cụ Tú Sách cũng đang là cán bộ nhà nước. Phải gương mẫu chấp hành chính sách chống mê tín dị đoan.

Thế cho nên đến đời bố thày Bút thì sự nghiệp thày cúng gia truyền có ngưng lại mất một thời gian.

Là vì ông Nghiên, con trai duy nhất của cụ Tú Sách, sinh ra và lớn lên trong thời cách mạng sôi nổi. Ông Nghiên được cụ Tú dạy cho một ít chữ thánh trong quyển sách cúng gia truyền. Học chưa được bao nhiêu thì một tối mấy ông du kích vào vận động ông đi bộ đội đánh Pháp trên Điện Biên Phủ. Đang chán cảnh ê a đọc cái thứ văn dai như chão chữ vuông như hòm. Lại nghe nói trên đó chiến dịch mở ra rất to, tưng bừng, con gái Thái rất xinh, xòe đẹp, nên Nghiên ta bỏ theo tắp lự mấy ông kia. Sau Điện Biên Phủ thì cải cách ruộng đất, rồi hợp tác xã, chiến tranh đánh Mỹ, rồi chống mê tín dị đoan… ông cựu binh mê mải công tác. Đến những năm bảy mươi của thế kỷ trước thì ông phải về nghỉ chế độ mất sức, do bệnh tật. Hoàn toàn tay trắng. Không chức tước bổng lộc. Không cửa nhà đất đai. May mà còn mấy gian nhà ở xóm Dâu trong làng Cùng của ông cha cụ kị để lại cho nên mới còn chỗ đi về. Và cũng thêm một cái may nữa là ngày xưa, trước khi ông bỏ đi theo du kích, cụ Tú Sách đã bắt ông cưới một cô vợ nông dân khỏe mạnh người cùng làng. Thế nên ông cứ đi biền biệt mấy chục năm ròng, thỉnh thoảng mới đá gà đá vịt qua nhà một tí mà bà ấy cũng kịp sinh cho ông bốn gái một trai. Rồi chúng cứ tự lớn thành người. Về làng, tĩnh tại rồi, ông mới có dịp suy ngẫm lại về đời mình. Ông thấy mình thiệt thòi quá. Tham gia hai cuộc kháng chiến, bao lần hút chết, hầu như hy sinh hết cả tình cảm vợ con riêng tư để phấn đấu mà cuối cùng vẫn hoàn tay trắng. Năm lần bảy lượt làm đơn xin vào đảng, ông đều bị từ chối với lý do là con một ông hành nghề mê tín dị đoan! Ông Nghiên buồn lắm. Ông nằm trên cái sập cũ, nhìn trân trân lên nóc nhà. Chợt ông nhìn thấy hàng chữ nho khắc trên thanh nóc xưa tô sơn đen, nay vẫn còn lờ mờ đủ để cho ông nhìn thấy mà nhớ lại khi xưa, cụ Tú Sách đã không biết bao lần chỉ cái roi mây lên trên đó mà đọc: “Kinh sách thông tam giới. Thiên địa đắc nhân tâm. Quỷ thần tòng bang trợ” rồi giảng nghĩa cho con.

Theo cụ thì thiên hạ này lập nên bởi ông Giời – Đức Thượng Thiên. Đức Thượng Thiên khai mở ra mọi thứ. Ngài chế sinh ra cả ba thứ: Thần, người, quỷ. Thần thánh là những bậc siêu đẳng nên được ở trên cõi cao xanh hầu Đức Thượng Thiên. Nhưng ở mãi cái chốn bồng lai tiên cảnh chỉ đàn ca sáo thổi mà hưởng của ngon vật lạ mãi cũng chán, nên nhiều bậc thánh thần lại sinh ra hư đốn phạm quy tiên giới bị đày xuống trần gian làm người. Làm người trên trần thì kẻ nào chịu tu nhân tích đức hết vận số lại được về tiên cảnh. Kẻ nào ác nhân thất đức hết vận số làm người bị đày xuống âm ti địa ngục do Diêm Vương cai quản. Ở dưới đó sẽ phải trải qua mười tám tầng địa ngục, bị bọn quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa hành hạ và phải làm khổ sai đủ bốn kiếp. Kẻ nào vượt qua mười tám tầng địa ngục, ăn năn hối cải thực sự thì sang kiếp thứ năm sẽ được siêu sinh thành người trần thế. Cái vòng độ sinh giữa thần, người, quỷ gọi là kiếp luân hồi. Thoát khỏi kiếp luân hồi, vĩnh viễn ngao du nơi tiên cảnh là mong ước của tất cả chúng sinh. Nhưng chúng sinh không mấy người biết phép tắc của Đức Thượng Thiên mà kêu cầu nên phải có thày, đọc bài văn, dâng lễ vật sao cho thấu tai cửu trùng mà gia ơn cho khổ chủ. Gọi là thày cúng, hay dân làng Cùng còn gọi là ông thống. Ý như là người thống lĩnh mọi việc liên quan đến thánh thần ma quỷ. Cụ Tú Sách nói thêm: “Trên đời này chỉ có ba hạng người được nhân gian tôn là thày: Thày giáo, thày thuốc và thày cúng. Nhà ta nối đời làm nghề thày cúng, vừa được trọng vọng mâm cao cỗ đầy, lại kiếm tiền nuôi vợ con dễ dàng. Mày chỉ cần đọc thông quyển sách này của cha là có thể hành nghề rung chuông gõ mõ kiếm ăn. Giỏi nữa thì đọc thông các pho sách trong rương là có thể bấm độn xem phong thủy, tính ngày giờ, đặt đất cát, lúc ấy thì tha hồ mà vung vinh. Cả vùng trọng vọng đón rước. Nên có khó thì cố con ạ. Khó mà thành mới làm thày thiên hạ, bỗng dưng ai người ta tôn là thày, mời lên chiếu trên?”.

Đang nằm miên man nhìn lên nóc nhà mà nghĩ lại lời cha dạy. Bỗng ông Nghiên vùng dậy, vào trong gian buồng cũ tìm kiếm hồi lâu và lôi ra một cái rương to cũ. Ông mở cái rương của cụ Tú Sách để lại cho con giai duy nhất ra: Rất nhiều sách, toàn sách cổ. Khi ông Nghiên lật dở từng quyển từng trang ra thì thất vọng hoàn toàn, những quyển sách đó không được bọc giữ cẩn thận, lại để dưới gậm giường ẩm mốc lâu năm đã mục mủn nhòe nhoẹt hết cả. Chỉ có duy nhất một cái bọc được vợ ông gói chặt nhiều lần bằng một tấm nylon quân dụng hồi ông gửi về là còn tương đối nguyên vẹn. Trong đó có một bộ quần áo thày cúng bằng vải the đen, một cái khăn đóng lĩnh đen, một cái mõ gỗ còn cả dùi, một cái chuông đồng, và một quyển sách cũ, dày, bìa đóng bằng da không rõ là da con gì, lâu ngày đã đen xỉn lại nhưng còn bền chắc. Trong quyển sách đó là những trang giấy dó được chép toàn một thứ chữ lạ – thứ chữ mà sinh thời cụ Tú Sách vẫn gọi một cách kính cẩn là chữ của Đại Thánh Nhân. Những con chữ đẹp ngay ngắn, rõ ràng sắc nét, mỗi chữ dường như là một bức họa. Ông Nghiên mở quyển sách cúng xưa cha vẫn xem ra. Bỗng rùng mình. Tưởng như cha ông là cụ Tú Sách đang ngồi nghiêm nghị trước mặt, chòm râu bạc rung rinh theo giọng đọc rõ ràng khúc chiết. Trong đầu ông thấy vang vang bài kinh mà cha mình vẫn đọc khi xưa: Đà ni ha ra ta bà la mật bát mê hồng nam mô a di đà phật đà ni…

Hôm sau ông bỏ công lau chùi, sửa sang cái ban thờ giữa nhà vốn gần như bị lãng quên bấy lâu nay kể từ khi cụ Tú Sách khuất núi. Ông sắp xếp lại mọi thứ ngay ngắn. Rồi ông mặc lại bộ quần áo thày cúng, đội cái khăn xếp lên đầu. Thật lạ lùng, mọi thứ vừa như in, cứ như là sắp sẵn để cho ông vậy. Ông thắp hương, rung chuông, gõ mõ. Ngồi khoanh tròn trên chiếc sập cũ trước ban thờ, ông mở quyển sách bìa da, cất giọng…

Dân làng Cùng từ đó lại gọi ông là thống Nghiên – tức là thày cúng Nghiên.

Những năm tám mươi của thế kỷ trước, cả nước mình đói quay đói quắt. Đói thì đầu gối phải bò, cổ nhân đã dạy thế. Trên thành phố, người nào người nấy nhao ra đường đi buôn. Nhà nào nhà nấy thi nhau đục tường mở cửa hàng cửa hiệu. Còn ở nông thôn thì âm thầm khoán sản, chia ruộng chui. Rồi thì dắt nhau đi lên rừng xuống bể kiếm cái ăn. Rồi cũng bung ra đủ nghề bán buôn. Lạy giời, rồi cũng kiếm được miếng cho vào mồm. Rồi cũng dần khá lên.

Nước nổi thì thuyền nổi. Đời sống vật chất khá dần lên. Nhà cửa bắt đầu được sửa sang, làm mới. Mọi người bắt đầu quan tâm đến việc tâm linh nên ông Thống Nghiên ngày càng nhiều việc. Bổng lộc cũng bắt đầu dồi dào. Ông lại được dân làng, dân quanh vùng trọng vọng. Nhưng đêm về, ông vẫn thấy buồn lắm. Là do Bút, con trai duy nhất của ông bỏ đi miền Nam lâu lắm không về. Mà thằng khốn kiếp ấy cũng không thèm thư từ hay nhắn nhe địa chỉ gì hết, cứ thế mà lặn biệt tăm.

Trong cơn bực tức, nhiều khi ông Thống Nghiên đã buột mồm rủa xả thằng con trai bất trị. Nhưng ông cũng vẫn âm thầm mong Bút trở về làng để ông sẽ truyền lại cái nghiệp thày cúng cho nó. Giờ đây, sau mấy chục năm quăng quật với đời, ông mới thấy là cha mình xưa dạy phải.

Mà con bé Chi Mai là con gái duy nhất của cô Hạnh Thục bên hàng xóm, bạn thân của Bút cũng bỏ đi Nam từ lâu. Cũng không thấy về hay thư từ gì cho mẹ.

Khi Chi Mai bỏ đi mấy hôm không thấy về, Bút cứ ngồi bó gối ở hàng hiên nhìn sang nhà cô Hạnh Thục ngóng. Thế rồi nghe phong phanh dân làng nói là thấy Chi Mai lên xe khách đường dài vào Nam. Bút không nói không rằng, cứ thế chạy ra đường quốc lộ bắt xe đi thẳng, chỉ nhắn về cho mẹ mỗi một câu: “Con đi Nam làm ăn, U không phải tìm”.

Nhà cô Hạnh Thục và nhà ông Thống Nghiên ở cạnh nhau và đều trổ cổng ra ngoài con đường chính của xóm. Khoảnh đất thổ cư nhà ông Thống Nghiên khoảng ba sào, còn nhà cô Hạnh Thục hẹp hơn, chỉ non hai sào Bắc Bộ. Thế nhưng đều vuông vức dễ trông. Bên nhà ông Thống thì có một ngôi nhà ngói năm gian làm theo lối đại khoa bằng gỗ lim ở chính giữa thửa đất, vườn cây bao quanh, trước mặt là cái sân nhỏ. Đầu hồi nhà quay ra đường xóm, mặt hướng đông. Hồi mồ ma cụ Tú Sách còn sống, có lần cụ đã giảng cho ông Thống Nghiên là “Đông quý, Tây phú” có nghĩa là làm nhà hướng Đông, gia chủ sẽ được vẻ vang, mọi người kính nể, thiên hạ trân quý…

Nhà ông Thống Nghiên nhìn thẳng sang sân nhà cô Hạnh Thục.

Bên nhà cô Hạnh Thục có ba gian cũng nhà gỗ nhưng chỉ là gỗ xoan, xoay lưng ra đường, hướng Nam. Nguyên căn nhà này là do bố mẹ chú Hạnh để lại cho từ xưa, hai vợ chồng chỉ việc ở. Lệch về phía bên nhà ông Thống Nghiên là cái cổng nhỏ và lối đi men bên cạnh đầu hồi rồi mới quặt vào sân, lên nhà, như thế có vẻ kín đáo. Còn bên nhà ông Thống Nghiên, đường vào nhà cũng đi song song bên cạnh như vậy, nhưng qua khoảng vườn rồi thẳng vào sân luôn chứ không phải vòng vo ngoắt ngoéo. Cuối khoảnh đất hai nhà đều là cái ao. Cả làng Cùng nhà nào cũng có một cái ao, bởi khi cắm đất làm nhà thì đều phải có đất tôn nền lên cao, thế là tiện đấy, đào luôn ao trong đất nhà mình, lấy đất làm nền nhà, thành ao thả cá, thả bèo, rau muống hay sen tùy nhà. Làm luôn nơi rửa ráy thậm chí để cho bọn trẻ con ngụp lặn vầy nước hôm trời nóng nữa. Ở giữa cái lối đi giữa hai nhà là một cái hàng rào kết bằng những cái cành tre già đã róc mấu cắm sâu xuống đất. Những cái cành tre được đan thành hình mắt cáo, khá bền, trồng xen vào đó là hàng cây cúc tần, chả mấy chốc cúc tần bén rễ, mọc xanh thành ra một cái hàng rào chắc chắn. Lâu ngày, những cành tre mục đi thì đám cúc tần đã lên thành một cái hàng rào cây đẹp mắt. Vào mùa Thu Đông tự dưng cái hàng rào ấy có đám dây tơ hồng vàng rực ở đâu bò lên phủ kín. Thằng Bút và con Chi Mai vẫn hay tha thẩn ra chơi với nhau, chúng ngắt những sợi tơ hồng vàng óng xuống hì hụi cùng đan cái gì không biết… Mùa xuân mưa xuống, những cây cúc tần trổ ngọn mềm mại non mỡn một màu xanh nhàn nhạt. Thỉnh thoảng cô Hạnh Thục bên đó hay vợ ông Thống Nghiên bên này đi làm đồng về, tiện tay đang cầm chiếc liềm nhìn thấy mấy ngọn cúc tần mọc quá đà vướng mắt, bèn lia ngang vài đường. Những ngọn cúc tần non rơi lả tả, một mùi thơm hăng hắc bốc lên hòa vào không gian vườn tược cây trái, hòa vào mùi rơm mới, mùi rạ cũ chất đống trong vườn…

Chú Hạnh chồng cô Thục hy sinh năm sáu tám ở Khe Sanh. Năm đó Chi Mai bảy tuổi, còn mẹ nó, cô Thục, lúc đó mới hăm nhăm.

Kể từ khi có giấy báo tử chồng, cô Thục không bao giờ ra tắm ngoài đầm sen bên làng nữa. Hồi trước, chiều chiều đi làm đồng về, cô hay cùng đám thanh nữ trong làng xuống tắm ở đầm sen. Nơi đó nước vừa sạch vừa thơm mát. Họ cùng cởi trần, ngồi trên những cái cầu ao bằng tre, múc nước dội ào ào. Tắm cùng đám gái trẻ chưa chồng, chúng nó hay xúm lại sờ nắn suýt xoa là, sao vú của cô to và đẹp thế? Vú cô Thục to như cái bát ô tô úp ngược trên ngực, trắng hồng căng tròn, hơi trễ xuống một chút khi cô thẳng người. Đầu vú bằng hai hạt sen chín, màu nâu sẫm như màu của phù sa non đồng bãi, nổi bật trên cái màu trắng hồng hào, nom rất thích mắt. Vú của bọn gái trẻ đứa nào to chỉ bằng cái bát con, còn thì hầu hết mới như cái chén tống doi doi trên ngực. Cô Thục bảo chúng, khi nào chúng mày lấy chồng, sinh con thì vú nó khắc to ra để chứa sữa nuôi con, giời sinh ra thế rồi. Nhưng chúng vẫn cứ mong ước, giá mà có cặp vú to như của cô, mặc cái áo cánh bó eo tôn ngực lên đẹp phải biết, bọn con trai thì chỉ có rách mắt…

Cô Thục đi kiếm vài cái vỏ bao đựng phân hóa học của hợp tác xã, đóng mấy cái cọc tre xung quanh, quây lại. Rồi cô xin ít viên gạch, nhặt nhạnh chút xi cát về tự lát cái nền thế là thành cái nhà tắm khá kín đáo trong vườn. Cô tự nhủ, ngày xưa mình là gái có chồng, chiều đến có nô giỡn chút ngoài đầm cũng không sao. Có hở ra một tí cũng chả ai lấy đó làm điều. Bởi ai đó có thích mắt mà ngắm trộm thì… đấy vẫn là của chồng. Nay mất chồng rồi, hở hang ra lại bị làng xóm cho là mồi chài. Thôi thì cứ tránh trước mọi điều tiếng cho nó lành.

Còn chuyện hai đứa trẻ hàng xóm. Bút và Chi Mai. Chúng nó thích nhau rồi yêu nhau lúc nào không biết cũng như một lẽ tự nhiên.

Điều này thì không những hai gia đình biết mà cả xóm Dâu, cả làng Cùng đều nghĩ thế. Bởi hai đứa chơi thân với nhau từ bé, nhà cạnh nhau, đi học lại cùng lớp suốt thời phổ thông. Khi mà hai đứa, đứa trước, đứa sau bỏ đi miền Nam thì dân làng Cùng rất lấy làm lạ. Thậm chí là kinh ngạc. Bởi cả hai nhà ấy đều tịnh không thấy có một lời nào gọi là ngăn cấm lứa đôi, mà ngược lại hình như ai cũng hồ hởi vun vào mong cho tình yêu của chúng kết quả. Thế nên mọi người đều lấy làm bất ngờ. Họ chả tìm thấy lý do gì để đến mức hai đứa phải bỏ làng ra đi.

Nhưng có một người biết rõ, ấy là cô Hạnh Thục. Năm chú Hạnh hy sinh thì cô Thục mới hăm nhăm, đương thì. Thế nhưng cô nén chịu ở vậy nuôi con. Bởi cô yêu chú Hạnh bao nhiêu thì cô yêu Chi Mai bấy nhiêu. Chi Mai là hình ảnh phóng chiếu của người chồng yêu quý đã không bao giờ về nữa. Cô thương yêu xót xa Chi Mai gấp đôi những người mẹ bình thường, nó có cả tình thương của cha trong đó. Nên cô cắn răng lại. Cơ mà cắn một hôm, hai hôm, một tháng, hai tháng … còn có thể chịu nổi. Cắn triền miên từ năm này qua năm khác thì thật là cực hình, nhất là với một người đàn bà vốn được giời cho dòng máu nữ tính tràn trề như cô.

Cô Thục cũng người làng Cùng, bên xóm Tân. Hồi chưa chồng cô đã nổi tiếng là xinh đẹp. Chú Hạnh là trai xóm Dâu sang đánh bóng chuyền giao hữu thanh niên với bên đó, xong, nóng quá ra nhảy ùm luôn xuống đầm sen xóm Tân tắm cho mát. Chú ngụm lặn chán chê rồi bơi vào bờ thì gặp ngay cô Thục đang ngồi dội nước trên cầu ao gần đó. Gái xóm Tân cũng như gái cả làng Cùng hồi đó chiều ra tắm trần ở các đầm sen là chuyện bình thường. Cơ mà cô Thục, cô ấy nở nang lắm cơ. Nở nang phổng phao ngay từ lúc mới lớn. Lại còn trắng hồng lên nữa chứ. Chú Hạnh nhìn thấy, chết đứng như trời trồng, ngay tối hôm ấy về bắt bà mẹ xách cái đèn dầu sang xóm Tân hỏi bằng được cô Thục về làm vợ. Cô Thục cũng đã nhìn thấy chú Hạnh nên bằng lòng ngay. Họ thành một đôi đẹp nhất làng. Và họ cũng yêu nhau quấn quýt lắm. Sinh ngay gái đầu lòng là Chi Mai. Tình đang nồng thì chiến tranh nổ ra, chú Hạnh phải đi bộ đội, vào mãi chiến trường rồi hy sinh. Mà cô Thục vẫn cứ trẻ, xinh đẹp tràn trề.

Mãi gần đây khoa học thường thức người ta mới nói ra rả trên báo đài là, cái thứ nội tiết tố làm nên nữ tính, làm cho mắt ướt, môi hồng, vú to, mông tròn, eo thon… gọi là Estrogen. Phụ nữ ai mà được giời cho nhiều Estrogen trong máu thì xinh hơn, nữ tính hơn. Ai mà ít thì cố gắng mà bổ sung thêm vào. Và các hãng dược phẩm lập tức… èn en en… Sau đây là chương trình quảng cáo, sản phẩm bổ sung Estrogen thiên nhiên giữ mãi vẻ thanh xuân cho bạn…

Nhưng hồi ấy dân làng Cùng chưa biết về Estrogen, họ chỉ gọi những bà hơi lẳng tí, có nhu cầu cao hơn người thường là, có máu Võ Tắc Thiên! Nghe nói bà Hoàng đế Võ Tắc Thiên này năm bảy mươi tuổi, mỗi tối vẫn phải có một đội nam cung nhân là những chàng trai trẻ đẹp hầu hạ thì mới ngủ được. Cái đận mà chú Hạnh đi bộ đội chiến trường rồi hy sinh thì cô Thục ngày vẫn đi làm hợp tác xã, tối về ôm con gái Chi Mai ngủ. Xung quanh cũng có tiếng ong ve lượn lờ, cô bỏ ngoài tai tất. Chả phải cô không thèm muốn khát khao. Nhưng có điều là lúc đó trong làng, đàn ông con trai khỏe mạnh phải ra chiến trường hết, còn lại toàn những tay đui què mẻ sứt, hoặc quá tuổi già nua, nom phát chán. Mà chú Hạnh, chồng cô Thục, dân làng vẫn nói là chú ấy đẹp trai như Tây. Cao to, da trắng tóc hoe, mũi lõ. Thì chú ấy là Tây lai thật. Dân làng đồn rằng chú Hạnh là con rơi của tay Ju – Tây đoan trên Phủ với bà mẹ chú ấy hồi xưa khi bà ấy chạy chợ quanh vùng. Họ còn bảo có khi chú Hạnh vào chiến trường, không cẩn thận bị bộ đội ta tưởng là Mỹ, bắn nhầm… Thế nên cô Hạnh Thục thấy chả ai vừa xứng với mình. Cô đinh ninh rằng thà cứ để vậy còn hơn là rơi vào cái cảnh, phẩm tiên chuốc phải tay phàm cũng dơ. Nhưng đêm đêm khi con gái ngủ say, trong màn đêm tĩnh mịch lặng tờ, nhưng từ sâu thẳm người cô như có một cơn sóng cứ dồn lên ngực, lên cổ khiến cho thân thể nóng ran, khó thở. Khẽ hức lên một tiếng, cô quay mặt ra ngoài thở ngắn thở dài. Thở mãi vẫn không ngủ được, cô dậy đổ thóc vào cối xay. Nhưng cũng chả lấy đâu ra thóc mà xay mãi. Cô tẽ ngô. Rồi ngô cũng hết. Cô cố tìm việc ra làm cho mệt mỏi mà thiếp đi. Thế nhưng rồi cũng chả còn việc gì để làm. Cô đành đi tắm. Cô múc nước từ cái giếng khơi cạnh sân bếp đổ vào cái lu to trong nhà tắm giữa vườn. Cô khỏa thân, ngồi một mình trong đêm khuya thanh vắng, nhẩn nha kỳ cọ dội nước vào thân thể đàn bà đẹp đẽ đang thì căng mọng nóng hổi của mình. Cô nghĩ dòng nước mát sẽ làm nguội đi cái ngọn lửa tai quái cứ đợi đêm về là lại rừng rực bốc lên. Ngọn lửa đó khi mà chồng cô còn thì nó chỉ âm ỉ như một cái đống dấm mùa đông. Âm thầm ngún. Âm thầm cháy. Âm thầm chờ đợi một ngọn gió thổi nhẹ từ miệng ông chủ là sẽ bùng thành lửa. Là thành bếp thành cơm. Là thành những nồng ấm của gia đình hạnh phúc…

Thế nhưng chú Hạnh mãi mãi không về nữa. Ngọn lửa trong lòng cô Thục không còn gì kìm giữ, không có gì trông ngóng, bị những ngọn gió lang thang, vô tình và hữu ý thổi quanh trêu ghẹo. Cô cố che đậy và chống đỡ. Nhưng đêm về, lúc cơ thể được thả lỏng sau một ngày làm việc lo toan, thì lúc đó hình như màn đêm lại như một ngọn gió vô hình còn tai quái hơn ngọn gió nhân gian, ra sức khơi gợi cô. Đêm càng tĩnh lặng yên ắng thì những kỷ niệm về người chồng đẹp đẽ trẻ trung càng hiện về rõ ràng hơn hết. Những mùi hương đôi lứa nồng nàn tưởng như vẫn còn vương vất đâu đây. Tưởng như những ái ân cháy bỏng chỉ vừa mới diễn ra đâu đó. Cô nóng nực, nồng nã và nôn nao. Cô dội nước lạnh và kỳ cọ vào những chỗ đàn bà của mình thật mạnh mẽ. Cô nghĩ thế sẽ làm dịu đi những cái đang khát khao cựa quậy rấm rách nơi thẳm sâu của mình. Nhưng thật lạ kỳ, càng mạnh tay thì trong người cô càng như có một ngọn lửa đang từ từ được khơi lên. Ngọn lửa đó từ sâu thẳm đâu đó, rất sâu xa, như một dòng nham thạch nóng bỏng dồn về nơi những bộ phận nữ tính của cô. Nóng ấm và râm ran. Cô bỗng cảm thấy một cảm giác đê mê và giải tỏa như là những lúc gần chồng khi tiếp tục tự mình vuốt ve sờ nắn mạnh bạo. Đến một lúc, cả người cô thốt nhiên nổ bùng trong vô thức của cái cảm giác hạnh phúc ân ái tạo hóa ban cho loài người. Cô chợt nhận ra rằng, tự khám phá bản thân cũng đem lại một niềm vui khôn xiết.

Cô Thục vô tình đã tìm thấy sự giải tỏa cho mọi bức bối của bản thân. Đêm nào cô cũng tắm hàng tiếng đồng hồ. Những đêm nóng nực cô đều đặn ra vườn tắm. Cứ đêm đêm là tiếng dội nước bên vườn nhà cô Thục lại rí rách như tiếng chảy của một con suối nguồn bất tận. Những hôm ẩm ướt rét mướt, cô vào bếp đun một nồi nước. Cô nằm ra cái ổ rơm bên cạnh cái bếp đang đỏ lửa. Cô tự giải phóng bản năng của mình rồi sẽ sàng lau người bằng nồi nước ấm ngay trong bếp…

Tám năm liền, đêm nào cô Thục cũng vậy.

Cái nhà tắm giữa vườn cây của cô đã được thay mấy lần cọc tre và những mảnh vỏ bao vốn đựng phân hóa học của hợp tác xã. Thật may, ngôi nhà cô làm quay lưng ra đường nên khá kín đáo. Nhất là cái vườn của nhà cô cũng như muôn ngàn cái vườn trong mọi nhà trong làng Cùng khi ấy, có rất nhiều cây to rậm rạp. Một cây mít, vài cây bưởi. Một rặng tre bên bờ ao, vài khóm chuối, mấy cây xoan xuân về hoa tím nở rụng tơi tả bên đầu hồi nhà. Lại có cả một cây ổi quả thơm ngọt khá to. Cây ổi này mọc ngay bên cạnh hàng rào cúc tần phân chia ranh giới hai nhà. Thế nhưng dường như cây ổi không biết đến điều đó, rất nhiều cành mọc la sang bên nhà hàng xóm là ông Thống Nghiên. Và đương nhiên, những quả ổi chín trắng thơm nức ở những cành chìa sang bên ấy bị thằng Bút vặt chén ngay tức thì. Có một thời con bé Chi Mai hay chậm chọe với thằng Bút về cái tội ổi nhà tao, ổi nhà mày. Thế rồi một thời gian sau, tự nhiên không thấy chúng nó chấm chóe cãi nhau nữa. Chúng còn hay í ới gọi rủ nhau đi học.

Cô Thục thì vẫn vậy, hàng đêm xong mọi việc, con gái lên giường, cô gài chặt cổng ngõ và cắp quần áo ra vườn. Cô vào trong cái nhà tắm đơn sơ và sống với thế giới riêng tư mộng mị của mình. Ở đó, dưới màn đêm đồng lõa, cô thoải mái khám phá bản thân. Có những lúc trong đêm khuya thanh vắng tĩnh lặng đến phát sợ của làng quê, cô nghe rõ cả tiếng hơi thở dồn của mình náo động không gian. Cô phải tự cắn chặt răng bằng một chiếc khăn mặt bông. Cô muốn tận hưởng và giải tỏa bản thân. Cô hoàn toàn yên tâm không có một kẻ nào nhòm ngó vào được nơi thầm kín riêng tư của mình…

Một đêm cuối tháng tư năm 1976.

Trời tháng tư rất nóng. Oi bức như muốn ngạt thở. Về đêm rồi nhưng không khí vẫn hầm hập như trong cái lò của hợp tác xã lúc chiều cô đi gánh gạch mới nung xong. Cô Thục lại vào nhà tắm dội nước như mọi khi. Cô kỳ cọ vuốt ve thân thể đàn bà đang thì nở nang của mình. Trăng hạ tuần chênh chếch chiếu qua tán cây lấp lóa trên thân thể cô. Những hình ảnh đồi núi suối khe mập mờ nô giỡn cùng bàn tay và bóng lá dưới ánh trăng đung đưa, tưởng như có ai đó đang vuốt ve nâng niu những ngọc ngà…. Một lúc sau, như thường lệ, cô ngả người nằm xuống cái nền nhà tắm quen thuộc. Hai bàn tay cô lần mò xuống phần thân dưới thực hành những động tác quen thuộc để truy tìm cảm xúc và giải phóng bản năng đàn bà. Cô nhắm nghiền mắt lại rên rỉ khe khẽ trong cuống họng. Một lúc sau, cơ thể cô căng lên như dây đàn và dường như có một đợt sóng sắp bung phá tan tành. Cô cong người lên uốn éo như hứng tình, bàn tay tự vò nắn điên dại đôi bầu vú căng nhức… Đúng lúc đó, có một cái gì vừa quen thuộc vừa lạ lẫm đổ ập lên người cô. Cả phần người phía trên bỗng bị xiết chặt. Phần dưới có một cái gì nóng hổi xọc thẳng vào thân thể cô. Chỉ trong tích tắc, khi trí não cô chưa kịp hiểu là mình bị chiếm đoạt thì phần bản năng đàn bà của cô đã nổ bùng. Nổ tưng bừng như có một màn pháo hoa rạng rỡ sáng bừng cả trời đêm. Đã bao đêm nay chưa bao giờ cô thấy mình bay lên bồng bềnh trong cái màn pháo hoa rực rỡ thế. Lý trí của cô hoàn toàn bị tê liệt. Trong vô thức cô quờ quạng ghì siết trở lại: một thân thể đàn ông đang nằm trên bụng cô. Cô không biết là mơ hay thực. Nhưng bản năng đàn bà bùng nổ dữ dội quá khiến cô cứ riết chặt lấy mãi cái thân hình không biết mơ hay thực kia. Và cái thân hình ấy cũng quấn riết lấy cô mà hòa theo cái bản năng giống loài muôn thủa…

Khi cô Thục nhận ra thực tế là mình bị chiếm đoạt và người đó là Bút thì mọi chuyện đã xong. Ván đã đóng thuyền. Cậu trai trẻ đang choáng váng trong cơn say tình vẫn dấn sâu mãi vào trong thân thể ướt át nóng bỏng của người đàn bà. Cô Thục, như mọi người đàn bà dạn dĩ và khao khát cháy bỏng, bỗng dưng được thỏa mãn liền âu yếm véo nhẹ vào mông người tình trên trời rơi xuống: “Khiếp quá nỡm ạ! Làm người ta hết cả hồn”. Chỉ một câu nói và hành động như vậy, cô Thục đã giải phóng cho mọi ẩn ức còn sót lại trong Bút. Họ lại bắt đầu âu yếm vần vò nhau như một cặp tình nhân thực thụ.

Sau này Bút khai thật với cô Thục là nó đã rình xem cô tắm suốt từ năm nó mười ba tuổi, mới dậy thì. Cứ đêm đêm nghe tiếng cô dội nước là nó lẳng lặng ra vườn. Đến chỗ cây ổi nhún mình đu lên cành rồi chuyền sang thân cây bên vườn nhà cô tụt xuống. Nó lướt trong vườn nhẹ như con mèo hoang, luồn lách qua những thân cây bụi chuối, đến bên cạnh cái nhà tắm đơn sơ quây bằng vỏ bao tải, khẽ khàng vạch một lỗ nhỏ ghé mắt nhìn vào. Trong bóng tối nhập nhòa nhưng thân thể đàn bà của cô Thục trắng lóa rực rỡ như được chiếu sáng vậy. Khi cô ngả người nằm ngửa trên nền gạch, cái phần mờ đen huyền bí dưới rốn cô vồng lên cao như mời mọc. Lúc cô Thục tự mình vuốt ve rồi bùng nổ trong vô thức, bản năng đàn ông của thằng bé mười ba tuổi thức dậy mãnh liệt. Như có ai đó thầm mách bảo, thằng bé mười ba cho tay vào trong quần đùi tự vuốt ve con chim đang thẳng căng nóng rực. Nó xóc nhẹ vài cái, một cảm giác đê mê khó tả từ đó lan nhanh khắp trong người, tinh trùng bắn ra tung tóe ướt đẫm quần. Bút vừa thích thú, vừa sợ hãi, vội lủi về bên vườn nhà, xuống ao ngâm nước. Nó cảm thấy xấu hổ khi mình dám đi nhòm trộm bướm người đàn bà đáng tuổi mẹ mình. Nó tự xỉ vả và hẹn mình không làm cái trò kinh khủng ấy nữa.

Thế nhưng cái bản năng tổ tông truyền lại đã thức giấc. Thằng đàn ông bản thể đã hình thành đầy đủ ngay lập tức trong cái đêm đầu tiên đi nhòm trộm ấy. Bút không thể cưỡng lại sự thôi thúc ma mị từ bên trong mình. Đêm hôm sau khi ngồi bên bàn học, nghe tiếng dội nước từ vườn bên kia, nó lại lần mò sang. Vẫn chỉ dám âm thầm đứng bên ngoài hé mắt vào nhòm trộm trong đêm. Đêm nào cũng là một bữa tiệc thị giác no nê và đỉnh cao là màn bắn pháo hoa sặc sỡ. Lâu dần nó như một kẻ nghiện, chỉ đợi tiếng dội nước đêm vọng sang là lẻn ra vườn. Cả hai nhà không ai hay biết điều này. Cô Thục vẫn vô tình. Và hai năm trôi qua, Bút đã lớn nhanh thành một cậu thiếu niên khỏe mạnh. Cho đến đêm trăng thượng tuần tháng tư vừa rồi, khi cậu trai mười lăm tuổi nhìn thân thể người đàn bà rờ rỡ dưới trăng cong lên phô phang tất cả vẻ nồng nàn. Như là mời mọc. Bút không thể chịu nổi nữa, tuột quần lót, vạch nhà tắm lao vào với tất cả dục vọng đang bùng lên ngút trời của một tên trai mới lớn mà không kịp nghĩ ngợi thiệt hơn gì…

Nghe Bút kể vậy, cô Thục mỉm cười. Trong thâm tâm cô có chút áy náy vì nghĩ Bút còn quá trẻ. Thế nhưng nghĩ đến những thiệt thòi mà cuộc sống của cô phải chịu đựng, cô không muốn nghĩ tiếp gì nữa. Cô chỉ nghĩ cách làm sao che kín cuộc tình này – nếu có thể gọi vậy, trước con mắt thế gian để mà hưởng thụ lâu dài. Cô âm thầm tới bệnh viện nhờ người quen đặt vòng cho. Bởi ngay sau khi bị tên trai trẻ cưỡng dâm trong đêm thì hình như trong con người cô có một con thú hoang dã xổng ra. Nó lập tức ăn sống nuốt tươi cái phần lý trí đàn bà đoan chính còn sót lại. Nó hừng hực suốt ngày đêm gào réo đòi thỏa mãn. Cũng thật may mắn cho cô, phần thân thể và bản lĩnh đàn ông của Bút cũng hoành tráng không kém gì của người chồng đã khuất. Cô cảm thấy thỏa mãn. Và cô chỉ mong cho màn đêm mau buông xuống để gặp người tình của mình.

Nhưng có một điều Bút không kể với cô Thục, cái đêm đầu tiên của tuổi dậy thì, năm mười ba tuổi, bị bản năng dẫn dắt trong vô thức, nó đu cành ổi sang vườn nhà cô nhòm trộm, là thực ra nó định nhòm cái Chi Mai, con gái cô, bạn học của Bút. Cơ mà Chi Mai không tắm đêm. Nên thay vì nhan sắc đẹp đẽ mong manh như nụ chúm chím của trinh nữ thì Bút lại được chiêm ngưỡng hết những cái nồng nàn nở nang bừng bừng của người đàn bà thuần thục đương thì. Ngay đêm ấy, cậu trai mười ba tuổi đã biết được thế nào là cảm xúc của đàn ông trước đàn bà. Để sau hai năm ròng mò mẫm rình rập nhìn trộm cô Thục tự thỏa mãn trong nhà tắm, còn mình cũng tự thỏa mãn bên ngoài. Bút đã không còn chịu nổi nữa. Cái đầu non nớt nhưng cũng không thiếu chất liều lĩnh của mọi con đực bản năng, âm thầm tính toán những kịch bản thời điểm để chiếm đoạt người đàn bà đang nứng tình. Và nó đã chọn đúng lúc khi cô Thục đang trong vô thức, tê liệt mọi ý thức để xông vào. Nhưng khi Bút vượt qua bức vách ngăn nhà tắm mong manh bằng những cái bao tải kia, thì hình như cũng là lúc Bút chính thức rẽ ngoặt cuộc đời mình vào một cái ngõ định mệnh đợi sẵn. Mà đã là định mệnh thì liệu có ai trên đời này cưỡng nổi?

T.T.C.

Comments are closed.