Đêm giữa ban ngày (kỳ 17)

25

Tiếp theo là những đêm không ngủ. Cái loa công cộng, cách chúng tôi khá xa, mắc trong trại lính gác Hỏa Lò, theo gió đưa tới tai chúng tôi những tin tức đứt quãng, bập bõm, lúc được lúc mất, chen lẫn những khúc quân hành hùng tráng. Qua những con số không rõ, những địa danh lào phào, nhưng còn có thể đoán được, chúng tôi hiểu rằng ở miền Nam đang xảy ra những trận đánh lớn.

– Choảng nhau to ở miền Nam rồi! – Thành nói.

– Chắc thế.

– Đang còn ngừng bắn mà?

– Điệu này mình vi phạm thỏa thuận ngừng bắn. – tôi nhận xét – Không phải Mỹ. Nếu là Mỹ, người ta chửi nhiều, chứ không hát nhiều.

– Miền Nam thế là mất đứt cái Tết.

– Còn phải nói! Miền Bắc cũng mất một nửa. Cho mít-tinh chào mừng.

Nằm cuộn tròn trong chăn, tôi vẫn thấy rét run. Để có chỗ ngủ ấm, người tù xà lim phải lấy nhiệt thân mình sưởi cho cái phản xi-măng trước đã. Phải sưởi khá lâu nó mới ấm lên được, mà cũng chỉ ấm đúng bên dưới thân người thôi, hai bên sườn vẫn lạnh như băng.

Không ngủ được, Thành ngồi dậy hút thuốc lào. Khói thuốc tạo ra ảo giác nhờ nó hơi ấm không bay đi, hoặc nó ngăn được không khí lạnh từ ngoài vào.

Hỏa Lò không tham gia chiến tranh. Nó đứng sang một bên, duy trì sinh hoạt đều đặn của nó, dửng dưng như một kẻ vô can. Quản giáo đóng cửa mở cửa, lấy phạm đi cung. Chấp pháp tới giờ làm việc la hét, cật vấn như những viên chức được trả lương chỉ để quát nạt. Tôi nằm dài trên phản, nghĩ vẩn vơ. Chiến tranh đi bên ngoài những bức tường đá như người qua đường. Những hồi còi báo động báo yên là những tin tức duy nhất về một cuộc chiến đang xảy ra ở một nơi nào đó rất xa.

Những ý nghĩa lan man dẫn tôi tôi nhớ tới cuốn Nhật Ký Tây Ban Nha, một tác phẩm rất hay của nhà viết phóng sự Mikhail Koltsov[1]. Tác giả của nó, nguyên tổng biên tập báo Sự Thật (Pravda), một người cộng sản chính cống và hiển nhiên, vào một ngày đẹp trời bỗng trở thành “kẻ thù của nhân dân xô-viết”. Một chiếc xe bịt bùng đến mang ông đi vào ban đêm, và thế là con người tuyệt vời nọ biến mất. Chỉ còn lại cuốn sách, đứa con tinh thần côi cút, nhân chứng của thời đại, kỷ niệm về người tạo ra nó.

Nhớ tới Nhật Ký Tây Ban Nha, tôi chợt phát hiện một điều thú vị. Thì ra trong cái sự cứng đầu của mình đối với bọn độc tài có cả ảnh hưởng của tiếng thét bất khuất "No passaran"[2] vang vọng từ Madrid xa xăm.

– Không biết năm nay vợ con mình ở nhà ăn Tết ra sao? – Thành tự hỏi – Hay là có tí tiêu chuẩn nào lại gửi vào cho mình hết?

Tôi nhớ hai đứa con tôi. Chúng ăn Tết ở nhà với bà nội bà ngoại chứ không ở nơi sơ tán. Vợ tôi thể nào cũng đưa các con về. Không biết cái sự giã nhau trong lúc tết nhất này có ảnh hưởng đến mấy ngày vui chơi của chúng không?

– Đã thỏa thuận nghỉ Tết thì ăn Tết cái đã, Tết xong tiếp tục đánh nhau cũng được. Cho nó đàng hoàng. – tôi lầu bầu – Trong chiến tranh Tây Ban Nha[3], anh biết không, quân Cộng hòa và quân Phát-xít đánh nhau thậm chí còn có giờ giấc nữa kìa.

Thành gãi sồn sột. Mấy hôm nay ngày nào anh cũng truy lùng một con rệp tình nghi từ một xà lim nào bò qua mà không tìm ra.

– Đánh nhau có giờ giấc là thế nào?

– Là thế này: từ sáng sớm hai bên nã đạn vào nhau chí tử, nhưng đến đúng giữa trưa là hai bên ngừng bắn, lính bên này bên kia bò ra khỏi chiến hào, phủi bụi, rồi đi đến một cái quán ăn nằm giữa tuyến lửa, ăn trưa và uống cà phê với nhau…

– Lại còn thế nữa?! Phịa!

– Thật mà. Có điều họ ngồi quay lưng lại với nhau, không bên nào thèm nói chuyện với bên nào…

Tôi kể cho Thành nghe những đoạn thú vị trong Nhật ký Tây Ban Nha.

Anh nghe tôi kể chuyện với vẻ mặt nửa tin nửa ngờ. Đối với anh, nhà văn là thứ người chúa bịa chuyện, hay thì hay đấy, mà không tin được. Với tôi, anh gọi nửa đùa nửa thật: "Này, cậu nhà văn nói láo, nhà báo nói thêm ơi!"

– Tôi có hỏi một ông người mình hồi ấy chiến đấu ở bên phe Cộng hòa, ông ấy bảo chuyện có thật[4] đấy, đúng như thế.

– Sao? Cậu bảo có cả người mình tham gia chiến tranh Tây Ban Nha kia à?

Thành trợn tròn mắt.

Tôi kể cho Thành nghe về ông Thọ Tây Ban Nha, về những Binh đoàn quốc tế. Thành khoái lắm.

– Ông ấy còn sống chứ?

– Ông ấy còn khỏe. Có dịp, tôi sẽ giới thiệu anh.

– Nếu chúng mình không chết trước khi ra khỏi đây.

Từ xa vọng vào tiếng một đoàn xe nặng nề – xe tăng hoặc xe bọc thép. Có thể cảm thấy cái phản xi-măng rung lên nhè nhẹ. Gần đây, phía đường Bạch Mai, luôn vẳng đến tiếng ầm ì của xe hạng nặng chạy về phương Nam.

Ông Thọ Tây Ban Nha sau cách mạng chẳng làm chức gì to. Cha tôi khuyên ông: “Mày đừng nghe chúng nó xui dại mà nhận chức này chức nọ. Nước độc lập rồi, thế là chúng mình hả dạ, mày biết nấu cơm tây, làm nghề ấy là hay nhất, không phải lo nghĩ”.

Cha tôi hồi ấy đang làm vụ trưởng Vụ Lễ tân. Ông giới thiệu ông Thọ đi làm bếp cho sứ quán Cuba.

Ông Thọ Tây Ban Nha thường đến thăm cha tôi. Tôi nhớ có hôm ông đang ngồi uống trà với cha tôi thì ông Lê Thanh Nghị[5] đến chơi. Ông Thọ Tây Ban Nha nhấp nhổm định về. Cha tôi giữ lại: "Nó làm quan to kệ nó, mày với nó đồng chí, việc gì mà ngại". Như mọi khách khác, ông phó thủ tướng Lê Thanh Nghị vào nhà tôi chỉ được vào một mình, cán bộ bảo vệ phải ngồi đợi ngoài xe. Bước vào phòng cha tôi, ông cũng phải tụt giày, đi chân đất. Căn phòng có sàn gạch men, cha tôi thường lau sạch sẽ để khi trời nóng quá thì lăn ra cho mát. Ông phó thủ tướng ôm chầm lấy ông bếp, cả ba chuyện trò vui vẻ, cười vang nhà. Ông Thọ Tây Ban Nha hứng lên tự tay nấu món ra-gu cho cả ba cùng ăn.

Ông Thọ Tây Ban Nha có cho tôi biết một chi tiết thú vị mà những nhà nghiên cứu đời hoạt động của ông Hồ Chí Minh chắc cũng muốn biết: trong ông Hồ Chí Minh con người quốc tế và con người quốc gia con người nào mạnh hơn? Hồi phe xã hội chủ nghĩa cường thịnh, người ta ra sức chứng minh ông Hồ theo chủ nghĩa quốc tế. Sau này người ta lại ra sức chứng minh ông Hồ là người quốc gia. Cho nên lời chứng của ông Thọ Tây Ban Nha có ý nghĩa, đáng được quan tâm. Theo ông Thọ kể lại thì khi biết có người Việt Nam chiến đấu trong Binh đoàn quốc tế, ông Hồ nói:"Rõ việc nhà thì nhác việc chú bác thì siêng".

Năm 1964, hoặc 1965, tôi không nhớ rõ, ông Thọ Tây Ban Nha đã thôi nấu bếp cho các sứ quán, đang làm gác kho cho Liên hợp dệt Nam Định thì được tổng thống Nam Tư Yosif Broz Tito[6] mời đích danh sang Belgrad dự cuộc họp mặt các cựu chiến binh của Binh đoàn quốc tế chống phát-xít.

Nhận được giấy triệu tập có đóng triện của Ban tổ chức Trung ương, ông Thọ dặn vợ: "Đã nhiều năm Trung ương không nhắc gì tới tôi, nay lại có giấy gọi, lành thì ít dữ thì nhiều, nếu tôi không về thì bà ráng nuôi con, đừng nghe người ta nói này nói nọ mà hiểu lầm. Tôi không chống cách mạng, không phải tờ-rốt-kít, không phải AB[7] gì ráo. Tôi sống trong sạch, chết cũng trong sạch". Hai vợ chồng mếu máo chia tay.

Lê Đức Thọ tiếp ông, nghiêm nghị căn dặn: "Sang bên ấy cấm anh không được phát biểu chính trị gì hết. Câm như hến, nghe chưa? Ăn nói lăng nhăng thì coi chừng!".

Ông trở về, tôi hỏi ông chuyện Nam Tư, ông cười hiền lành: "Có chuyện quái gì mà kể! Tao sang bên ấy làm đúng như Lê Đức Thọ ra lệnh, ai nói gì tao cũng chỉ nhe răng ra cười. Mới lại, có ai nói chính trị chính em gì đâu. Bạn bè lâu ngày gặp lại, ca hát ầm ầm, uống rượu lu bù, say khướt. Vui lắm!"

– Thế ông nhà báo Liên Xô về sau bị giết à?- Thành hỏi.

– Người ta không nói rõ. Ông ta bị bắt mang đi rồi chết. Chết trong thời gian ở tù, không rõ là bị mang bắn, hay chết đói, chết bệnh. Tôi đoán là bị bắn. Mà không phải chỉ có ông ta. Nhiều nhà văn nhà thơ bị giết trong thời kỳ đó lắm[8].

– Tội nghiệp!

Thành nghe chuyện, ngồi như tượng, tư lự đặt tay lên cái cùm, vuốt ve nó một lát, rồi quay mặt vào tường làm thêm một điếu thuốc lào ngoài kế hoạch.

Tôi đã kể về cái cùm trong xà lim. Của đáng tội, cái cùm ở chỗ chúng tôi chỉ hiện diện như một vật trang trí nội thất. Ít khi nó được dùng đến, trừ ra trong các xà lim tử hình.

Tù tử hình chỉ được tháo cùm vài lần trong một ngày – một lần làm vệ sinh thân thể buổi sáng, hai lần khác cho ra lấy cơm, trả bát rếch. Có người không được tháo, nhà bếp phải mang cơm vào tận nơi. Khi bị cùm người tù chỉ có một tư thế nằm, hai chân bị kẹp chặt. Tiểu tiện, đại tiện đều ở trong tư thế đó.

Thành có bị cùm lần nào không tôi không rõ, anh không kể. Thành nói những người to béo vào tù khổ hơn những người gày còm nhiều. Trước hết là đói, người béo bị cái đói hành hạ nhiều hơn người gày. Thứ hai, cùm chỉ có một cỡ, chân to quá thường bị nghẽn máu, sinh hoại thư, dễ bị cưa. Tôi đồ rằng anh đã được nếm thử.

Trong hồi ký của những người bị xử trí oan thời Stalin không thấy nói tới thứ này. Xiềng thì có. Mình mà bị cùm thì không biết sẽ giải quyết vấn đề đại tiểu tiện ra sao đây, tôi vẩn vơ nghĩ? Sau này, bị cùm rồi, có kinh nghiệm rồi, tôi mới thấy Thành nói tới cái chân là đúng. Cổ chân mà to thì khốn nạn lắm, chứ chuyện đại tiểu tiện khó khăn là cái không đáng kể.

Mãi tới mồng bốn Tết, tôi mới được Huỳnh Ngự gọi đi cung.

– Mấy bữa rầy anh có biết có chuyện gì đang xảy ra không? – Huỳnh Ngự vui vẻ đón tôi bằng câu hỏi.

– Không. Trong xà lim kín như bưng làm sao biết được việc ở bên ngoài.

Huỳnh Ngự nghi ngờ nhìn tôi:

– Tưởng các anh ở trỏng có nghe loa đấy chớ?

Tôi nói trong xà lim tôi có nghe thấy tiếng loa nhưng không rõ nó nói cái gì. Tôi không dối y: trừ những bài hát mình đã quen nghe điệu thì biết, chứ tiếng phát thanh viên qua loa nghe ồm ồm, lại bị những tiếng vang nhại lại như có mấy người nói một lúc, làm sao nghe nổi.

Y quẳng lên bàn cho tôi mấy tờ Nhân dân, trang nhất nào cũng đỏ lòe những hàng tít lớn. Những tờ báo nhàu nát, chứng tỏ chúng đã qua tay nhiều người. Tôi vồ lấy, đọc ngấu nghiến.

Mọi chuyện xảy ra ở miền Nam đúng như tôi và Thành hình dung. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, mà một đứa bé thò lò mũi xanh cũng biết là do miền Bắc dựng nên, vu cho đối phương vi phạm thỏa thuận ngưng bắn nhân dịp Tết Nguyên đán để làm một vi phạm lớn hơn – mở một cuộc tổng tiến công trên toàn cõi. Những mỹ từ bóng lộn, tỏa sáng, ồn ào, tràn ngập từ bài xã luận kêu gọi thừa thắng xông lên cho tới những hàng tin giờ chót.

– Anh nghĩ răng, Đảng ta lãnh đạo tuyệt vời chớ? – Huỳnh Ngự nheo mắt nhìn tôi, mặt ngời ngời phấn khích – Nói để anh hay, cứ đà này chỉ trong vài ngày nữa là ta nuốt tất, nuốt tất. Miền Nam sẽ được hoàn toàn giải phóng.

– Tôi rất vui mừng… – tôi nói.

– Anh vui là đúng. – Huỳnh Ngự nói – Chẳng lẽ anh lại buồn? Nhưng tui muốn hỏi nhận định của anh kìa?

Tôi nhún vai.

Huỳnh Ngự ghét tôi nhún vai lắm, y đã lưu ý tôi vài lần, nhưng tôi bỏ ngoài tai. Tôi đã ở tuổi không cần đến vú em. Huỳnh Ngự coi nhún vai chỉ có một ý khinh bỉ.

– Những chuyện lớn thế này nhận định của tôi phỏng có nghĩa gì? – tôi thờ ơ nói – Chẳng có ý nghĩa gì hết.

– Nhưng chừ anh tin ở tài lãnh đạo của Đảng rồi chớ?

– Tại sao lại cứ phải hỏi đi hỏi lại tôi chuyện đó? Tôi tin hay không tin có gì quan trọng? Tin hay không tin là chuyện khác, không phải chuyện nhận định một hiện tượng hay một sự kiện cụ thể.

Huỳnh Ngự cười khục khục.

– Vậy mà thằng Hoàng Minh Chính lại không tin đó. Tui vừa làm việc với hắn ta xong, điên cả ruột. Vì vậy tôi mới hỏi anh coi anh nghĩ có giống hắn không.

– Anh Chính tin cái gì hay không tin cái gì là chuyện riêng của anh ấy, tôi cũng không quan tâm.

Huỳnh Ngự mời tôi uống trà. Đó gói trà Tết của Ban Tổ chức Trung Ương cho tôi mà y giữ lại.

– Nói để anh hay: đợt tiến công và nổi dậy lần này, đối với miền Nam về thực chất là tổng khởi nghĩa, còn nhìn chung đối với cuộc chiến tranh chống Mỹ là tổng phản công[9]. Anh đọc lại thơ chúc Tết của Bác đi. Đó! Bác thiệt vĩ đại! Bác tính trước tất cả, thấy trước tất cả. “Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua…” Đúng vậy không nào? Đúng quá đi chớ. "Tiến lên, toàn thắng ắt về ta!" Bác đã lệnh thì toàn quân, toàn dân cứ việc thi hành. Bác đúng là thánh, thánh sống. Mấy thằng tổng thống Mỹ chỉ đáng mút cu cho Bác[10] thôi. Anh có thấy thằng Chính hắn dốt không? Thắng đến như vậy mà hắn còn nói là đánh sớm, đánh bây chừ khi chuẩn bị chưa tốt, chưa hội đủ các điều kiện để giành toàn thắng, là manh động, là mất hết cơ sở gây dựng bao nhiêu lâu mới có trong địch hậu… Thúi, thúi lắm!

Thì ra là thế!

Tôi cũng nghĩ như Hoàng Minh Chính. Các điều kiện bên trong và bên ngoài đều chưa đủ chín muồi, theo chỗ chúng tôi biết. Mà chúng tôi biết không đến nỗi tồi. Quan tâm tới diễn biến của cuộc chiến, chúng tôi tiếp xúc với khá nhiều nguồn tài liệu, với nhiều người có trách nhiệm ở miền Bắc cũng như những người từ trong Nam ra.

Không rõ chủ tịch Hồ Chí Minh có bao nhiêu phần quyết định trong cuộc chiến được Huỳnh Ngự gọi là tổng phản công?

Ai cũng biết vai trò quyết định trong ván bài này là sự nôn nóng của cá nhân Lê Duẩn muốn giải phóng thật nhanh vùng đất mà trước 1954 Lê Duẩn lãnh đạo, giải phóng bằng bất cứ giá nào, dù có phải đốt sạch rặng Trường Sơn, như chính ông ta tuyên bố. Nhưng nói với Huỳnh Ngự làm gì? Nói với y, như các cụ ví, vạch đầu gối ra mà nói còn hơn!

Nhưng Huỳnh Ngự không dễ dàng buông tha. Trong sự hỏi cung y rất dai hoi. Y mà đã đặt ra câu hỏi thì y đòi bằng được câu trả lời.

– Tôi nghĩ khác. – đành trả lời cho qua chuyện – Tôi nghĩ đúng như cách dùng từ của Trung Ương trong các bài báo vừa đọc. Đó là một đợt tổng tiến công và nổi dậy, không hơn, cũng không kém.

– Nghĩa là làm sao?

– Nghĩa là nếu đúng là tổng khởi nghĩa và tổng phản công thì Đảng đã nói tổng khởi nghĩa, tổng phản công, hà tất phải nói tổng tiến công và nổi dậy.

Huỳnh Ngự nóng mặt:

– Tui nói rồi: thực chất đó là tổng phản công! Lũ các anh đúng là một giuộc với nhau hết trọi. Đảng nói vậy phải tin vậy chớ. Không phải vậy Đảng nói vậy mần chi?

– Tôi đang ở đây. Bác thông cảm. Ở chốn này tôi không có nguồn tin nào khác. Tôi cũng không được trực tiếp nghe tuyên bố chính thức của Đảng. Còn về chuyện phổ biến miệng thì, xin lỗi, tôi đã có chút ít kinh nghiệm. Trước hết, cần phải coi lại xem cấp phổ biến cho mình là ai cái đã? Đảng ủy? Đảng đoàn bộ? Đảng đoàn các cơ quan Trung Ương? Hay là Tuyên giáo Trung Ương? Hay đại diện của Ban Bí thư? Của Bộ Chính trị? Tôi biết có những vụ người này người khác nhân danh Trung Ương nói việc này việc nọ, rồi sau Trung Ương lại phải cải chính hết hơi, nói không phải quan điểm của Đảng như thế đâu, quan điểm của Đảng là thế này, thế này. Thành thử tốt nhất là cứ tin báo Nhân dân. Nó mới là cơ quan ngôn luận chính thức của Đảng.

Câu nói ám chỉ y chả là cái gì làm Huỳnh Ngự tức giận:

– Anh cho rằng tui phổ biến cho anh sai?

– Không phải thế. Tôi chỉ muốn nói ta nên tin báo Nhân dân thì hơn thôi. Còn người nào không tin báo Nhân dân là tùy.

– Tui không nói không nên tin báo Đảng.

– Tôi cũng không nói bác có ý ấy.

– Hừ, khi các anh không tin thì các anh đủ miệng lưỡi ngụy biện để che đậy sự thiếu lòng tin. Tại sao anh không dám nói huỵch toẹt ra như thằng Chính, có phải hơn không?

– Thì tôi nói huỵch toẹt ra đấy thôi, tôi có quanh co đâu. Đây này, trước mặt tôi là quan điểm của Đảng được in ra rành rành bằng giấy trắng mực đen, bác khuyên tôi tin quan điểm này (tổng tiến công và nổi dậy) hơn hay tin tôi quan điểm được phổ biến bằng miệng (tổng khởi nghĩa và tổng phản công) hơn? Xin lỗi, không phải tôi không tin bác. Nhưng bác cũng chỉ được nghe phổ biến thôi, cấp nào phổ biến cho bác tôi không rõ.

– Có nghĩa anh không tin những điều tui nói là quan điểm của Đảng?

Tôi thở dài.

– Tôi nhắc lại: tôi không nói như vậy. Ta giả thử thế này: Đảng khôn, chứ Đảng không dại, trên báo chí chính thức Đảng chỉ nói tổng tiến công và nổi dậy thôi, còn cái gì khác thì cho người đi phổ biến miệng. Rồi ra, nếu toàn thắng Đảng sẽ bảo: đó là tổng khởi nghĩa, tổng phản công, Đảng đã nói rồi. Còn nếu không thắng được như ý muốn thì…

– Thì sao?

– … thì Đảng sẽ bảo: đó chỉ là một đợt tổng tiến công và nổi dậy thôi – đấy, báo Đảng đã viết rõ rành rành đấy nhá. Đã gọi là một đợt tổng tiến công và nổi dậy có nghĩa là sau đợt này còn có đợt khác nữa…

Huỳnh Ngự nín lặng. Mặt y đần ra. Y chợt thấy trong câu nói của tôi có cái lý mà y chưa nghĩ tới. Hẳn y nghĩ cái lý đó có thể đúng, cho nên y không gầm thét với tôi như thường lệ, mà chỉ hầm hừ:

– Giỏi, anh giỏi. Chúng ta còn có dịp quay trở lại vấn đề này. Rồi anh sẽ thấy sự việc diễn biến ra sao, các anh đúng hay là tôi đúng?

Diễn biến của sự việc chứng tỏ Huỳnh Ngự sai.

Tôi không nói Đảng sai, bởi vì tôi không rõ những nhà lãnh đạo hồi ấy tính toán thế nào? Người ta chỉ sai so với dự tính, chứ không thể sai chung chung. Nếu họ tính làm một cuộc tổng diễn tập thì sao? Họ dự định trả giá nào cho nó. Hay là trả cho nó bằng bất cứ giá nào.

Những người bạn tôi chiến đấu trong Nam kể: thời kỳ Mậu Thân thương vong nhiều lắm, cơ sở hậu địch vỡ từng mảng lớn, có nơi vỡ hết, sau này phải mất rất nhiều thời gian và công sức mới xây dựng lại được. Nhưng họ cũng không thể biết đích xác sự thiệt hại trong cuộc phiêu lưu này là bao nhiêu. Đây là đề tài cấm kỵ, các nhà nghiên cứu quân sự cũng không được biết, nói gì đến báo chí.

Vả lại, cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân kéo dài tới giữa năm, tổn thất nhiều thật, nhưng cái đạt được cũng rất lớn – đó là thắng lợi vang dội trên mặt ngoại giao và sự hủy hoại về căn bản ý chí chiến đấu của đối phương. Nước Mỹ bị phân hóa. Dân Mỹ ầm ầm phản đối cuộc chiến tranh đã kéo quá dài, lại chẳng phải là cuộc chiến tranh nhất thiết phải tiến hành vì quyền lợi nước Mỹ.

Vấn đề vẫn là so sánh cái được với cái mất. Và sự so sánh ấy tùy thuộc ở cách suy tính của mỗi người. Với tôi, người dân thường, tôi không vui với cái chiến thắng đổi bằng quá nhiều xương máu, lại là xương máu của người Việt.

– Anh được nghỉ Tết mấy bữa nữa. Sau đó ta lại tiếp tục làm việc.

Huỳnh Ngự nói như thể chúng tôi đang ở trong một công sở chứ không phải trong Hỏa Lò.

Mấy ngày Tết trời rét ngọt. Tôi lo lắng cho cha tôi. Những năm gần đây ông không chịu được lạnh như trước. Những ngày trở trời cha tôi thường lên cơn đau gan.

Huỳnh Ngự thông báo: sức khỏe của cha tôi bình thường, bệnh gan của ông đỡ nhiều. Trong ni, y nhắc lại, cha tôi vẫn được hưởng chế độ săn sóc y tế như khi ở ngoải, tôi có thể yên tâm.

Tôi thừa biết, nếu cha tôi có lên cơn bệnh nặng thì ông cũng chẳng được đưa đi bệnh viện đâu. Người ta sẽ giao ông cho tên y sĩ đặc trách chúng tôi. Đó là một con người vạm vỡ, thấp, dáng đi nặng nề, với cặp mắt vô hồn dưới vầng trán ngắn. Y không thích hợp với bất cứ bộ quần áo nào. Mọi thứ trên người y đều giống đồ đi mượn. Y không tốt cũng chẳng xấu, không ác cũng chẳng hiền, câm lặng một nô lệ bẩm sinh, ra đời để chịu sự sai khiến của ai đó, bất kể là ai, miễn người đó trả công y, nuôi y. Thỉnh thoảng y xuất hiện, kiêm luôn công việc quản giáo, đưa tôi đi cung, thay cho Hách hoặc Sứ giả hòa bình. Thuốc của y vẻn vẹn chỉ có át-bi-lin (aspirine), hoặc ga-li-đăng (ganidan), theo cách gọi của y, để chữa độc có hai bệnh mà nền y học xã hội chủ nghĩa cho y biết: nhức đầu và đau bụng.

Thỉnh thoảng tôi cũng xin y thuốc ngủ. Y cho luôn, không cần hỏi han dài dòng:

– Này, mê-bô-ba-mát (méprobamate) đây! Tối một viên. Khó ngủ quá thì hai.

Thấy y dễ, tôi xin cả thuốc đau bụng, thuốc nhức đầu. Tôi phải viện trợ cho mấy xà lim bên cạnh. Tù xà lim ốm, xin thuốc rất khó. Quản giáo khe khắt đã đành, nhưng có lẽ còn có cả nguyên nhân thiếu thuốc nữa. Thành khuyên tôi phải xin để có một ít thuốc dự trữ, nhân lúc còn xin được. Ở Việt Nam chẳng bao giờ có cái gì ổn định, chẳng có gì lâu dài. Cuộc sống của người tù còn không ổn định hơn, nay anh ở trại này mai đã ở trại khác. Biết đâu chẳng gặp một tên y sĩ khó chịu hơn.

Ý nghĩ tự sát thỉnh thoảng vẫn trở lại. Tôi quyết không chịu để cho bọn độc tài muốn hành tôi thế nào thì hành. Cái chết bằng thuốc ngủ là cái chết dễ chịu. Nhờ trong y bạ của tôi trước đây y sĩ vẫn thường cho thuốc ngủ, nên viên y sĩ nhà tù cũng không tỏ ra khe khắt khi tôi đề nghị. Gói thuốc ngủ tích cóp được để ở đầu giường, thỉnh thoảng tôi lại giở ra đếm lại. Thành nhìn thấy, không nói gì.

Từ ngày vào Hỏa Lò tôi ngủ dễ và ngủ nhiều lắm. Tôi cho rằng đó là giấc ngủ bù cho thời gian làm việc căng thẳng trước đó. Một hôm Hoàng bảo tôi:

– Này anh Hiên, đây là nơi đấu tranh tư tưởng chứ không phải nơi để ngủ đâu nhé!

Thì ra trong xà lim mọi động thái nhỏ nhất của tôi đều được quản giáo báo cáo cho chấp pháp.

– Trong lòng thanh thản thì ngủ dễ. – tôi nói – Tôi chẳng có điều gì phải suy nghĩ. Cũng chẳng làm điều gì để đến nỗi phải xấu hổ, để bị lương tâm cắn rứt.

Phấn khởi trước thắng lợi vang dội ở miền Nam, cường độ làm việc của các chấp pháp tăng vọt. Huỳnh Ngự thoáng hiện, thoáng mất, bỏ mặc tôi cho lũ đàn em – chắc hẳn y bận làm việc ở nhiều phòng hỏi cung cùng một lúc. Hoàng cũng biến đâu mất. Làm việc với tôi là một tay non choẹt, đang thời kỳ tập sự. Y tự giới thiệu tên là Phiêu. Môi dưới trễ ra trên gương mặt ngây ngô mỗi khi y ngủ gật. Phiêu không hỏi tôi, chỉ đọc các câu hỏi của Huỳnh Ngự ra cho tôi. Có thể nói là y hiền lành cũng được. Một cậu học trò trường làng, con một ông công an nào đó, hoặc được một ông bạn của bố giới thiệu cho đi học nghiệp vụ. Những đứa trẻ hiền lành này chẳng bao lâu sau sẽ thạo việc, khi cần chúng sẽ biết bóp cò, nhả đạn không một chút do dự vào các loại “kẻ thù của nhân dân” theo ngón tay trỏ của các lãnh tụ và của cấp trên.

Tôi cặm cụi viết. Y ngồi bên canh chừng, như phỗng.

Thành chăm chú nghe tôi kể về những câu hỏi quái dị của bọn chấp pháp chẳng hiểu từ đâu mà có, do ai khai ra cho tôi, rồi cười hì hì:

– Trò trẻ con ấy mà! Bài bản của họ chỉ có tưng nấy thôi: bắt nọn là một, hù dọa là hai. Mình cứng thì họ hết vở. Thế mà lắm lúc cũng đau đầu ra phết đấy. Gặp phải anh non gan, tưởng mọi người khai cả, phun phè phè, mình chống đỡ cũng mệt. Họ chỉ cần tóm được lời khai của một hoặc hai anh, dùng nó moi tiếp hết người nọ tới người kia, cho tới khi tất cả không chịu nổi nữa, nhận tội hết, là xong… Hiểu ra thì đã muộn.

Nụ cười của anh trông cay đắng lắm. Nó dính chặt vào mặt anh, không có cách gỡ ra. Thà đừng cười còn hơn.

– Mình lấy làm lạ: lý thuyết cách mạng nói cuộc chiến đấu hôm nay là nhằm xây dựng một xã hội tương lai, trong đó người với người là anh em, thế mà trên thực tế chỉ thấy Đảng chăm dạy oán thù, căm ghét. đấu tranh, chứ không thấy dạy yêu thương, là làm sao? – Thành đặt câu hỏi, như cho chính anh – Cứ nhìn một cái Hỏa Lò này đủ thấy. Thằng công dân bị bắt, chưa biết ất giáp ra sao, cán bộ đã khăng khăng bắt nó nhận tội cái đã. Nhỡ oan người ta thì sao? Cái sai, cái tồi tệ từ đó mà ra. Làm cho lòng dạ con người thành ra cằn cỗi, hận thù như thế là lỗi ở ai? Bác đâu có dạy cán bộ như vậy!

Năm 1946, khi đến thăm lớp cán bộ bình dân học vụ đầu tiên do nhóm ông Nguyễn Hữu Đang tổ chức, ông Hồ chỉ trích những người viết sách vỡ lòng trong đó có câu mẫu "Nó ở tù" để dạy ghép vần có nguyên âm u: "Các vị không còn thí dụ nào hay hơn sao mà dùng cái thí dụ ác thế? Làm hại đầu óc trẻ con. Xin tìm câu khác". Mẹ tôi đi dự lớp huấn luyện này. Bà thường kể câu chuyện trên cho mọi người nghe như một thí dụ về lòng nhân ái cách mạng. Trong kháng chiến chống Pháp, ông Hồ gặp một tù binh co ro trong cái rét cắt da của rừng Việt Bắc. Ông cởi tấm áo trấn thủ của ông cho anh ta, và câu chuyện lan truyền trong tù binh như một huyền thoại.

Nhưng tôi còn biết một Bác Hồ khác.

Mùa hè năm 1950, đang ở Thái Nguyên, tôi nhận được thư cha tôi gọi tôi tới ATK[11]. Tôi tới đúng lúc được dự lễ mừng lục tuần đại khánh của Bác.

Trong bộ quần áo ta bằng lụa nâu, ông Hồ Chí Minh ngồi sau cái bàn tre ghép, trên có mấy tờ báo tiếng Pháp. Trong ngôi nhà vách nứa lợp cọ ở Thác Dẫng, tổng hành dinh các lực lượng kháng chiến, ông gợi hình dung về một lão nho tiên phong đạo cốt, một nhà thơ, một bậc hiền triết phương Đông hơn là một thủ lĩnh nghĩa quân, vị thống soái của cách mạng. Tôi bước vào, đứng nghiêm, đưa tay chấm vành mũ lá. Ông hiền từ ra hiệu cho tôi ngồi xuống bên cạnh:

– Chà, thằng nhỏ vận bảnh hả? Bộ đội giờ quần áo đẹp đấy chớ! – ông nói với cha tôi – Mới được phát, hả?

Giọng ông âm vang, ấm áp, một giọng nói pha trộn âm sắc Nghệ An với nhiều vùng khác của đất nước, của riêng ông, rất đặc biệt, không giống giọng nào khác. Có điều hơi thở của ông rất hôi. Tôi nghĩ tới bệnh lao phổi mà ông mắc từ khi về nước. Bệnh có vẻ không đỡ. Tôi xót ông, lòng tôi tràn ngập niềm kính trọng đức hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của ông.

Tôi lễ phép thưa với ông rằng bộ đội bây giờ thường được phát mỗi năm hai bộ, nhưng quần áo không đồng nhất: bộ đội khu 3 mặc vải viscose, khác bộ đội Việt Bắc may bằng diềm bâu dày, bộ đội khu 4 được trang bị quân phục bằng vải ta dệt thủ công. Bền nhất là quần áo của bộ đội khu 5, được may bằng vải xi-ta dày dặn, nhưng nhuộm màu xám tro chứ không phải màu kaki.

– Thế này tốt rồi. Nước ta còn thiếu thốn, cháu ạ, chưa có quần áo cùng một kiểu cho các cháu…

– Thưa Bác, chúng cháu cũng không kêu ca. Được thế này đã tốt quá!

Ông đưa bàn tay gày guộc mân mê chất vải trên bộ quần áo tôi mặc, vẻ hài lòng. Đó là quân phục mới của bộ đội Liên khu 3.

Không bao lâu sau ông ra lệnh xử tử Trần Dụ Châu, đại tá Cục trưởng Cục Quân nhu, người cung cấp chúng tôi thứ quần áo từng làm ông thích thú, vì tội nhận hối lộ. Chất lượng thứ quân phục chúng tôi được cấp đúng là không ra gì – làm bằng sợi viscose, còn gọi là tơ dứa, mặc vào vải cứ chảy ra, lõng thõng, lụng thụng. Nhưng dù sao mặc lòng nhờ những cố gắng của Cục Quân nhu chúng tôi cũng không còn ăn vận lung tung, mỗi đơn vị một kiểu quần áo như hồi đầu kháng chiến.

Cha tôi can, nhưng ông không nghe. Cha tôi nói ông Hồ không chịu giảm nhẹ hình phạt cho Trần Dụ Châu còn vì tội ăn chơi xa xỉ. Người ta báo cáo Trần Dụ Châu chụp "cả một va-li ảnh" với người tình là ca sĩ Thương Huyền. Cha tôi có hỏi lại, thì không phải thế. Trần Dụ Châu có chụp nhiều ảnh với Thương Huyền thật, nhưng nói "cả một va-li" là ngoa ngôn. Tội hối lộ cũng không rõ ràng. Có việc nhận biếu xén của mấy nhà thầu làm việc cho Cục Quân nhu thật, nhưng không thể coi mấy cái quà biếu ấy là hối lộ. Người biếu và người nhận có quan hệ bè bạn, vả lại quà biếu cũng không đáng giá. Chính cái "va-li ảnh" đã làm cho ông Hồ nổi giận, cha tôi kể lại. Ông Lê Giản, giám đốc Công an, cũng không tán thành án xử tử Trần Dụ Châu. Nhưng một khi ông Hồ đã muốn trừng phạt để làm gương thì không ai có thể làm ông đổi ý.

Cũng chính ông Hồ đã duyệt án tử hình một trung đoàn trưởng trong chiến dịch biên giới (1950) vì tội anh này tự động nhận lời mời của viên quan năm thầy thuốc Pháp[12] đáp máy bay về thăm gia đình anh ở Hà Nội nhân cuộc trao trả tù binh. Anh nhận lời mời với điều kiện anh sẽ mặc quân phục Việt Nam đi với viên quan năm, chứ không mặc hường phục. Phía Pháp hồn nhiên nói cái đó không là vấn đề. Và họ giữ lời. Trước khi lên máy bay anh còn vui vẻ nói với các bạn rằng hôm nay đồng bào ta ở thủ đô sẽ được thấy người của quân đội Việt Nam đi hiên ngang trên đường phố của thủ đô bị chiếm đóng. Anh muốn bằng cách đó tuyên truyền cho chiến thắng Cao-Bắc-Lạng.

Từ sân bay Gia Lâm, anh ngồi trên xe Jeep về thẳng Bờ Hồ và đi bách bộ ở đó rất lâu trước con mắt trầm trồ của dân chúng. Đúng là anh đã được diện quân phục Việt Nam đi trên đường phố Hà Nội. Cũng với bộ quân phục ấy anh đi ra trường bắn. Những người lính thuộc quyền chỉ huy của anh buộc phải bắn cấp trên của mình. Bắn xong, họ vứt súng, lăn lộn gào khóc.

Trong kháng chiến chống Pháp, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của ông Hồ Chí Minh, chí ít cũng cho tới năm 1950, khi biên giới Việt-Trung được nối liền, những vụ oan khuất xảy ra có thể tính trên đầu ngón tay. Trừ vụ H122 do Hoàng Quốc Việt chỉ đạo làm chết nhiều cán bộ quân đội, phần lớn ở cấp đại đội và tiểu đoàn. Cha tôi nhận xét trong vụ này tội của Hoàng Quốc Việt đương nhiên lớn, nhưng Trường Chinh phải chịu trách nhiệm chính. Tuy nhiên, mặc dầu lên án Trường Chinh trong vụ này, và trong Cải cách ruộng đất nữa, cha tôi vẫn không coi Trường Chinh là một người hiếu sát. Theo ông, con người cách mạng Trường Chinh được hiến dâng trọn vẹn cho những giáo điều cằn cỗi, còn con người trần thế Trường Chinh thì hoàn toàn hài lòng với một nửa ngai vàng. Trong những người gần gụi Trường Chinh – từ anh giám mã, chị cấp dưỡng cho tới các nhân viên văn phòng, các bí thư, không người nào yêu mến Trường Chinh. Trong khi đó những người được ở gần ông Hồ không những chỉ kính trọng ông mà còn yêu mến ông thực sự.

Mẹ tôi có những kỷ niệm tốt về Trường Chinh. Bà kể khi biết ông Trần Huy Liệu quá đắm đuối trong mối tình với nữ sĩ Thu Tâm ở Huế, ông Trường Chinh giận lắm, mới đưa việc này ra thường vụ Trung ương. Sau đó ông đại diện cho thường vụ họp với các bà: bà Liệu, mẹ tôi và bà Trần Đình Long. Trong cuộc họp này ông Trường Chinh ra quyết định: cho ông Liệu được đi chơi với cô Thu Tâm thêm một tháng nữa, sau đó phải về với vợ con, trái lệnh Đảng sẽ thi hành kỷ luật. Một Trung ương Đảng giải quyết chuyện tình của cán bộ Đảng như vậy tuyệt quá đi chứ. Vừa thấu tình vừa đạt lý. Trường Chinh, chứ không phải ai khác, đã đứng đầu một Trung ương như thế!

Nhưng đó là chuyện quá khứ, chuyện người ta không thể tắm hai lần trong cùng một dòng sông.

(Còn tiếp)


[1] Koltsov M. E., (1898-1940), nhà văn và nhà báo, đảng viên Đảng cộng sản Liên Xô từ năm 1918. Cuốn Nhật ký Tây Ban Nha (Ispansky Dnevnik – Spain diary) được xuất bản năm 1938. Cũng năm ấy ông bị bắt giam trong một vụ gọi là đại phản do Stalin dựng nên để thanh trừng những người cộng sản có học nhưng không chịu cúi đầu trước lãnh tụ độc tài. Ông bị bắn vào năm 1940 hoặc 1942, theo các nguồn tin không biết cái nào chính xác hơn cái nào. Năm 1958 cuốn Nhật ký Tây Ban Nha được tái bản. Trong thể loại bút ký – phóng sự, đây là một cuốn sách rất hay.

[2] “Chúng bay không thể đi qua!” (tiếng Tây Ban Nha). Câu nói nổi tiếng của nhà lãnh đạo quân Cộng hoà trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha (7. 1936 – 1,1939), bà La Pasionara tức Dolores Ibarruri (1895–1989), nhà chính trị Basque, nhà báo và nhà hùng biện.

[3] Năm 1936, quân đội của tướng Francisco Franco (1892-1975) nổi dậy chống nền Cộng hòa do liên minh cánh tả (cộng sản và xã hội) nắm quyền. Cuộc nội chiến đẫm máu kéo dài cho tới năm 1939 thì kết thúc với chiến thắng của Franco. Quân Cộng hòa, được Liên Xô. Mexico, và các binh đoàn Quốc tế (gồm các chiến sĩ tình nguyện từ châu Âu và Mỹ) giúp đỡ, nhưng ô hợp, thiếu kỷ luật, đã thua quân Franco, được phát-xít Đức-Ý yểm trợ mạnh mẽ về quân sự.

[4] Một trong hai người Việt Nam tham gia trong những Binh đoàn Quốc tế là ông Nguyễn Văn Thọ, biệt hiệu "Thọ Tây Ban Nha". Người thứ hai tôi không nhớ tên. Trong các Binh đoàn quốc tế hồi đó có cả Yosif Broz Tito, Ernest Hemingway, Georges Orwell, Robert Capa, Mikhail Koltsov, Roman Carmen…

[5] Lê Thanh Nghị, tên thật Nguyễn Khắc Xướng (1911-1989), tham gia cách mạng trước 1930, năm 1930 bị thực dân Pháp đày ra Côn Đảo. Phó thủ tướng chính phủ trong những năm xảy ra vụ "nhóm xét lại chống Đảng".

[6] Yosif Broz Tito (1892-1980), tổng thống Nam Tư (cũ), người Croatia, sau này là một nhà lãnh đạo các quốc gia không liên kết. Đáng ngạc nhiên là ông vẫn nhớ đến những đồng chí Việt Nam trong các chiến sĩ tình nguyện quốc tế để mời.

[7] Anti-bolchevique (nói tắt, từ tiếng Pháp), với nghĩa phần tử chống cộng sản.

[8] Hãy kể một số tên tuổi được nhiều người biết đến như Babel, Vesely, Voronsky, Kataev, Kluev, Koltsov, Mandenstam, Pinniak, Pribludny, Sviatopolsk-Myasky, Florensky, Chaianov vv…

[9] Theo lý thuyết của Trường Chinh trong cuốn Trường Kỳ Kháng Chiến Nhất Định Thắng Lợi, tác phẩm đạo vănTrì Cửu Chiến Luận của Mao Trạch Đông thì đó là giai đoạn thứ ba củacuộc kháng chiến.

[10] Có lẽ Huỳnh Ngự học đòi theo nhà thơ Bút Tre trong một bài thơ với những câu: "Trên trời con khỉ đánh đu. Thằng Ngô Đình Diệm mút cu cụ Hồ… ". Tôi xin lỗi bạn đọc vì những lời trích thiếu văn hóa. Cho tới nay một số lý thuyết gia văn học ở Hà Nội vẫn đề cao Bút Tre, coi ông như một nhà thơ lớn và độc đáo. Âu cũng là một nét chấm phá hi hữu cho bức tranh xã hội.

[11] Phủ Chủ tịch hồi ấy đặt bí mật bên thác Dẫng, thuộc địa phận xã Lập Binh, nằm trong ATK (An toàn khu) thuộc huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.

[12] Hình như viên đại tá quân y này tên là Huart, nếu tôi nhớ không nhầm.

Comments are closed.