33
Có vẻ như cái sự im ắng tại Bất Bạt chứng tỏ giai đoạn giam cứu đã kết thúc.
Tôi sống trong tâm trạng chờ đợi: để xem Đảng xử sự ra sao. Nhưng, giống như những con đom đóm, những tia hi vọng nhỏ nhoi lập lòe một thoáng rồi chìm nghỉm trong bóng đêm dày đặc. Những cuộc hỏi cung muộn mằn, càng về sau càng thưa, diễn ra uể oải, như thể cả người hỏi cung lẫn người bị hỏi cung đều quá mệt mỏi. Với vẻ mặt ngán ngẩm đời cạo giấy, Huỳnh Ngự máy móc đặt những câu hỏi vô duyên. Chẳng hạn, chợt nhớ ra, y bắt tôi khai về cuộc gặp gỡ vào ngày ấy tháng ấy giữa tôi với Rashid, bí thư sứ quán Liên Xô, tại câu lạc bộ Quốc tế. Những sự kiện vớ vẩn như vậy chỉ có Trời nhớ được nó có hay không và nó đã diễn ra thế nào. Tôi từ chối không trả lời, nói tôi không nhớ, tù lâu quá trí nhớ tôi ngày một kém. Không nhớ thì thôi, y cũng không thúc bách, không bắt buộc tôi phải nhớ. Tôi hiểu: y hỏi để mà hỏi, không cần câu trả lời.
Đáp lại câu hỏi của tôi liệu cứ dằng dai thế này mãi thì biết đến bao giờ vụ án mới kết thúc được thì, thay vì hét ầm lên để át giọng như trong những ngày đầu, Huỳnh Ngự tránh nhìn vào mắt tôi, ấp úng:
– Cán bộ cỡ tui sao biết được! – y nhỏ nhẹ – Việc của Bộ Chính trị, của Trung ương chớ có phải của cấp vụ cục đâu… Ngay cả cấp Bộ cũng không có thẩm quyền xử lý vụ các anh nữa là. Thôi thì anh hãy yên tâm chờ đợi. Cứ phải tin tưởng tuyệt đối ở Đảng. Đảng là cha mẹ. Đảng trước sau cũng sẽ giải quyết thỏa đáng cho các anh.
Khi nói câu đó nét mặt y hiền hẳn đi, nụ cười miễn cưỡng làm hằn sâu hai đường pháp lệnh, trông tội nghiệp lắm. Mới có ba năm mà tôi thấy Huỳnh Ngự già đi nhanh quá. Y đã gày còn gày thêm. Mùa đông da mặt xám xịt, nhăn nhúm. Bộ dạ đen Tôn Trung-sơn bất ly thân chảy ra, bạc màu, mất tuyết, đã sờn nhiều chỗ. Có hôm tôi ngồi viết báo cáo nghe loáng thoáng bên tai Huỳnh Ngự và anh hương sư-chấp pháp bàn chuyện thời sự – bìa nào, ô số mấy bán gì, ô thịt giờ bán đậu phụ, ô nước mắm thay bằng ma-gi, nhà nào có mấy bìa C, mấy bìa D.. Tôi nghe mà thương vợ! Bức thư chót vợ tôi báo tin bị chuyển công tác vào Hà Đông, tới một công trường xây dựng, hàng ngày đạp đi đạp về nuôi con, đi chợ xếp hàng với tấm bìa có những ô tí xíu…
Một hôm, bỗng Huỳnh Ngự vào tận xà lim, hiền lành ngồi xuống bên cạnh tôi.
Tôi ngạc nhiên – chẳng bao giờ tôi bắt gặp y xử thế như vậy. Thân thiện quá, tử tế quá! Trước đây, trong bất kỳ trường hợp nào y cũng không quên nhấn mạnh sự khác biệt giữa người tù là tôi và y – người hỏi cung.
Y ngồi im một lát rồi mếu máo:
– Tui tới để… báo cho anh… một tin buồn…. – giọng y nghẹn ngào – Bác của chúng ta… Bác đã… đã… Bác… mất rồi!
Thế là ông Hồ Chí Minh không còn nữa!
Ý nghĩ đầu tiên đến với tôi là cùng với cái chết của ông Hồ bọn chuyên quyền càng rảnh tay hoành hành. Nói gì thì nói, ông Hồ còn sống vẫn cứ là một vật cản. Bởi vì ông đã hô hào đoàn kết, ông có đạo đức giả khi nói thế thì cũng vẫn còn hơn ông không nói, ông không đoàn kết thực thì ông cũng không cho phép cấp dưới bóc nốt cái vỏ cuối cùng của câu nói. Không còn quyền nhưng ông còn cái uy, cái thế buộc chúng phải nể. Có làm gì chúng vẫn phải ngó ông một cái, xem ông phản ứng ra sao.
– Bác mất hôm nào? – tôi hỏi khẽ.
– Cách đây ba ngày – Huỳnh Ngự đáp, một giọt nước mắt lăn trên má.
Tôi nhẩm tính: bốn ngày trước là mồng 2 tháng 9, Tết Độc lập, trại được ăn một bữa tươi, thức ăn có thêm thịt rang mặn. Như vậy, ông Hồ qua đời vào ngày mồng 3[1].
Tin ông Hồ Chí Minh qua đời không làm tôi xúc động. Tôi không vui mà cũng chẳng buồn. Bây giờ đối với tôi ông là người dưng. Ông đã bị xóa sổ hoàn toàn trong trí nhớ của tôi. Ông đã đi khỏi cuộc đời tôi. Vĩnh viễn.
Tôi cũng chẳng căm thù người đứng đầu cái nhà nước đang hành hạ tôi. Tôi biết, ông không phải là thủ phạm. Nói theo cách của công an, ông không phải đầu vụ. Cũng không phải tôi muốn bào chữa cho ông Hồ. Sự thật là như vậy. Sáng kiến trong việc khởi lên cuộc chiến tưởng tượng để dẹp tan kẻ thù không có thật thuộc về Duẩn-Thọ, không thuộc về ông. Và rộng hơn, nó thuộc về bản chất của hệ thống cai trị. Không có Duẩn-Thọ này thì sẽ có Duẩn-Thọ khác.
Nhưng ông Hồ cũng chẳng phải vô can. Một khi ông đã kề đùi kề vế với Duẩn, với Thọ, thì mọi việc làm của họ ông đều có dự phần, vinh cũng như nhục. Cha tôi nhận xét: ông Hồ bản tính không ác. Tôi tin cha tôi. Nhưng chẳng bao giờ tôi hết ngờ vực: nếu ông Hồ không phải là người ác thì tại sao ông lại để xảy ra những tội ác hàng loạt trong cải cách ruộng đất? Và bây giờ, ông đã làm ngơ để xảy ra vụ án khốn nạn này? Người không có bản tính ác, nhưng làm ngơ trước điều ác trong khi mình có khả năng ngăn cản còn tệ hơn người ác nữa – đó là kẻ vô nhân tính.
Để tôn trọng nỗi đau khổ của Huỳnh Ngự, tôi vờ buồn bã, quay đi. Huỳnh Ngự thì lại nghĩ rằng tôi đau đớn lắm, tưởng tôi muốn giấu những giọt nước mắt yếu đuối, y ra sức an ủi tôi. Rằng y biết rất rõ quan hệ thân thiết của gia đình tôi với ông Hồ. Rằng y đã báo tin cho cha tôi, ông già lặng đi, không nói được lời nào. Rằng Bác mất đi là nỗi đau đớn khôn nguôi trong lòng mọi người, là tổn thất vô cùng to lớn cho cách mạng Việt Nam, cho cả chúng tôi, những cán bộ đi theo cách mạng lâu năm nay chẳng may mắc tội với Đảng. Nhưng phải biết biến đau thương thành sức mạnh. Với chúng tôi, niềm thương tiếc Bác phải biểu lộ trong sự thành tâm hối lỗi, ra sức cải tạo tốt để mau chóng trở về với hàng ngũ cách mạng, trở về trong lòng Đảng.
Giá vào lúc khác chắc chắn câu nói lăng nhăng của y về cải tạo sẽ làm bùng lên một cuộc đấu khẩu. Nhưng lần này tôi im lặng. Tôi biết Huỳnh Ngự không đóng kịch, y đau khổ thực sự trước cái chết của lãnh tụ vĩ đại. Không phải mình y, tôi nghĩ, trong những ngày này có bao nhiêu người đang thương khóc ông Hồ.
Y lặng lẽ chia tay với tôi, ý tứ khóa cửa, cố không gây ra một tiếng động mạnh, như thể không phải y khóa cửa xà lim mà khép cửa phòng bệnh.
Thời gian chậm chạp trôi, với những ngày, những tháng giống hệt nhau…
Khi vừa bị chuyển tới trại quân pháp, tôi còn tiếp tục đánh dấu ngày tháng như khi còn ở Hỏa Lò với Thành, lâu dần rồi ngày đánh dấu ngày không, đâm ra lẫn lộn lung tung. Tôi chỉ chỉnh lại sự đo đếm thời gian bằng những ngày lễ tết, tù được ăn tươi, và mỗi lần gặp gia đình, nửa năm một lần. Mọi người trong gia đình tôi nghĩ rằng trong óc tôi bắt đầu có sự trục trặc. Tôi không cải chính – như thế mà tốt hơn. Thấy tôi dở điên dở dại bọn chấp pháp càng đỡ làm phiền.
– Trời! – vợ tôi kêu lên – Anh không nhớ được bây giờ là tháng mấy nữa hay sao?
Tôi nhìn thấy trong mắt vợ tôi nỗi tuyệt vọng vô bờ.
Để cho tôi khỏi quên thời gian vợ tôi mang cho tôi những cuốn lịch túi, nhưng chỉ cần lãng đi một ngày là tôi lại bắt đầu lẫn. Sau tôi không thèm đánh dấu ngày nữa mà chỉ nhớ áng chừng bây giờ là tháng nào thấy cũng đủ.
Cái sự đơn điệu của đời tù xà lim thật ghê gớm. Một cuộc cãi nhau với chấp pháp cũng là một cơ hội giải tỏa tinh thần. Nhưng không phải lúc nào cũng cãi nhau được. Nếu đám chấp pháp không chọc tôi bằng những lời lẽ xúc phạm thì tôi cũng chẳng cãi nhau với họ làm gì. Mà chúng cũng tránh, không muốn cãi nhau với tôi.
Sau cuộc chia tay với anh bạn bác sĩ không quen biết và Trần Minh Việt, tôi không được ở dưới một mái nhà với người nào trong vụ chúng tôi nữa. Những phạm binh đến rồi đi, không ai nói chuyện với ai. Nếu ở bên cạnh có người cùng vụ thì tôi biết ngay. Quản giáo bộ đội phụ trách người trong vụ chúng tôi mở cửa cho nhận cơm, cho ra tắm bao giờ cũng mở lần lượt hết phòng này tới phòng khác trong một ngôi nhà rồi mới sang nhà khác. Nếu anh ta mở cho tôi rồi đi ngay có nghĩa là tôi ở một mình. Quản giáo phụ trách phạm binh không có nhiệm vụ mở cửa cho chúng tôi. Anh ta đi riêng, mở cửa cho những người tù mà anh ta quản lý.
Anh quản giáo bộ đội khoảng ba mươi tuổi, mặt mũi hiền lành, quần áo chững chạc, nhưng lại quá ít lời, chẳng bao giờ nói một câu. Không thể nào dò hỏi anh ta được điều gì. Có hỏi xin thuốc chữa đau bụng nhức đầu thì anh ta cũng chỉ ừ hữ rồi lặng lẽ khóa cửa lại. Trông cung cách thì thấy anh ta đoán được chúng tôi là ai, do đó mà trong cách đối xử thấy có phần nể nang.
Tôi có Arlequin ở chung là trong thời kỳ này.
Một hôm quản giáo mở xà lim cho tôi ra tắm, tôi đang giội nước ùm ùm bên cạnh cái bể chứa sát tường nhà giam thì bỗng thấy một sinh vật bé xíu, đen xì cuống quít nhảy loi choi dưới chân mình. Nhìn kỹ, thì ra một con cóc vừa mới đứt đuôi nòng nọc.
Tôi nhìn anh chàng quản giáo. Anh ta vẫn chắp tay sau lưng nghênh trời nghênh đất. Tôi tắm vội tắm vàng, vừa kỳ cọ vừa dùng chân lùa con cóc về phía cửa xà lim. Nó nhảy tránh chân tôi, lao bạt mạng về hướng tôi muốn. Lối vào xà lim tối om, hẳn con cóc nghĩ đó là chỗ lẩn tránh tốt. Tôi kết thúc buổi tắm sớm hơn thường lệ, cứ để đầu ướt đẫm chạy thẳng vào phòng, tự mình khép cửa lại. Anh chàng quản giáo trợn mắt, không hiểu vì sao hôm nay tôi lại có thái độ lạ lùng như vậy.
Để cho con cóc nhỏ bé không thể chui ra ngoài qua khe cửa, tôi lấy cái áo rách chèn kín cái khe đó. Những ngày đầu tôi rất lo nó chết đói: tôi không biết nuôi cóc bằng cái gì. Nhưng trong xà lim con cóc vẫn sống nhăn và lớn lên rất nhanh. Để ý quan sát thì ra nó ăn kiến. Đàn kiến trú ngụ trong xà lim vợi hẳn.
Sự bận rộn với con cóc làm cho cảnh sống của tôi dễ chịu hơn. Bây giờ hàng ngày tôi có được cái thú ngồi im lặng trên phản mà quan sát nó nhảy nhót qua lại trên khoảng đất trống giữa cái phản và cánh cửa.
Con cóc xấu xí nhưng chăm chỉ chẳng mấy khi ngồi yên một chỗ. Suốt ngày nó tha thẩn nhảy tới nhảy lui, thỉnh thoảng lại đớp lia lịa những con kiến vô hình trong bóng tối.
Tôi buộc phải đặt chân rất thận trọng mỗi khi bước xuống đất kẻo dẫm chết nó. Mà tôi phải xuống đất nhiều lần trong một ngày để tập thể dục, đi bách bộ mươi, mười lăm phút giữa giờ làm việc.
Nhà cầm quyền cuối cùng đã cho phép tôi được nhận mấy cuốn sách: một cuốn từ điển giải nghĩa tiếng Nga và hai cuốn tiểu thuyết Liên Xô bằng tiếng Pháp. Từ điển là để tra cứu, nhưng với tôi nó là cuốn sách để đọc, để nghiền ngẫm. Tiếng Pháp của tôi vốn tồi, gặp từ nào không hiểu thì bỏ qua, gặp lại nó vài lần thì dựa vào văn cảnh mà đoán nghĩa. Tôi mải mê đọc đến nỗi nhiều khi quản giáo mở cửa mới giật mình biết rằng đã tới giờ ăn sáng hoặc ăn chiều. Đến khi có hai cái ruột bút bi thì tôi còn bận hơn nữa với việc viết cuốn Miền Thơ Ấu để cho các con. Tôi phải chia công việc ra, lúc viết lúc đọc, thay đổi công việc cho óc khỏi mệt. Không thể viết nhanh được vì phải tiết kiệm giấy: tôi chỉ có trong tay một số vỏ thuốc lá và vỏ giấy từ những cái kẹo gia đình gửi cho.
Con cóc cũng chẳng buồn để ý tới tôi. Nó còn bận kiếm ăn. Được cái giống kiến kém trí khôn. Chúng không hề để ý tới hiểm họa đang rình rập bên cạnh. Thậm chí chúng thản nhiên giăng hàng đi ngay trước mặt con cóc, thỉnh thoảng bị mất vài con nhanh như chớp mà không biết.
Kể ra kiếm được con chuột nhắt con để nuôi thì vui hơn. Hồi còn nhỏ ở nhà quê tôi nuôi đủ thứ: chim sẻ, chim gi, sáo sậu, sáo đen, sáo đá… Chưa bao giờ tôi nghĩ mình sẽ nuôi một con chuột làm bạn, đừng nói gì một con cóc. Với chim sẻ, chim gi thì dễ bắt lắm – chỉ cần theo dõi những con chim bố mẹ tha rác làm tổ dưới mái nhà, chịu khó chờ ít lâu là chắc chắn bắt được chim con vừa vỡ bọng cứt. Với giống sáo thì nhiêu khê hơn. Phải lấy cót cuộn lại thành một cái ống dài ở cuối phình ra với một cái giỏ thủng, cho vào trong đó ít rơm, bọc kín lại bằng chiếu rách, rồi buộc vào một cành ngang, chọn sao cho tránh hướng mặt trời chiếu vào tổ là thể nào cũng có đôi sáo bố sáo mẹ chọn làm tổ.
Trong các giống chim gần người tôi thích chim gi hơn cả. Con chim bé bỏng với bộ lông màu gụ và cái mỏ sừng mập mạp nếu được nuôi từ lúc bé tí thì luyến chủ vô cùng. Nó không rời tôi nửa bước. Khi lớn hơn, đã có thể tự kiếm ăn, thì nó cũng bay xa, nhưng chỉ cần gọi "tơri, tơri. i. i… " là nó đã tự đâu xà xuống trước mặt. So với sẻ và các loại sáo, chim gi thông minh hơn. Ấy là tôi nghĩ thế, chứ giữa loài chim với nhau tiêu chuẩn thông minh chắc phải khác. Một con chim bỏ loài để theo người hẳn bị chúng chim coi là xuẩn ngốc.
Chao ôi, giá mấy thằng cha độc tài ở nước tôi có được cái đức độ của Sa hoàng thì may biết mấy! Chúng tôi sẽ được phát vãng như những nhà cách mạng Nga lên một vùng rừng núi nào đó, kiểu Sibir[2] hoang vu, chứ không phải nằm mốc ra ở trong cái xà lim này. Ở chốn lưu đầy Lênin còn có cả một tủ sách để đọc, còn được tự do viết. Trong cuộc sống phát vãng đáng mơ ước đó tôi sẽ buộc tổ sáo trên những cành xoan, hoặc của bất cứ cây gì. Tôi sẽ nuôi những con sáo con mép vàng hoe bằng cào cào châu chấu và cơm nguội cho tới khi chúng khôn lớn. Trong tuổi thơ của tôi, rất tiếc, tôi chưa một lần bóc lưỡi cho sáo để chúng nói được tiếng người.
Đành nuôi con cóc xấu xí kia vậy. Những ngày đầu nó còn lẩn tránh tôi, mỗi khi tôi tới gần là nó vội vã nhảy đi. Lâu dần rồi cu cậu cũng quen, không đến nỗi xa lánh tôi như trước. Thậm chí thỉnh thoảng tôi có vuốt ve nó, nó vẫn ngồi im. Người ta nói khi đụng vào cóc, da nó sẽ tiết ra một loại mủ độc, chạm vào thì bị lở loét. Con cóc của tôi chẳng tiết ra chất gì hết. Chắc nó không muốn hại tôi. Quen thêm chút nữa, tôi đặt nó vào lòng bàn tay rồi đưa lên tận mắt ngắm nghía. Nó cũng mặc. Chỉ tiếc nó không biết nói, tôi có nói gì nó cũng không thèm đáp, chỉ giương đôi mắt thao láo ra nhìn lại.
Cuộc sống trong khu xà lim lặng lẽ trôi. Gió vẫn thổi. Mây vẫn bay. Tôi vẫn ngồi đó, Trong khu biệt giam bên cạnh chiều chiều vẳng tới tiếng ngâm thơ khe khẽ, không rõ là của ai. Từ cửa sổ phòng tôi có thể nhìn thấy một chút xíu phần trên cửa sổ, từ đó vẳng ra tiếng ngâm thơ, nhưng người ở trong cũng không thể ngó thấy tôi. Nhặt được một mẩu gương vỡ tôi bắt ánh mặt trời buổi sáng chiếu hắt sang cửa sổ đó, hi vọng một chút ánh sáng sẽ lọt được vào trong phòng. Quả nhiên người ở trong bắt được tín hiệu của tôi, anh ta gõ vào chấn song mấy hồi liền để trả lời. Lính gác chạy xồng xộc đến nhưng không bắt được quả tang chúng tôi liên lạc với nhau, đứng ngơ ngẩn một lát rồi bỏ đi.
Một hôm, cả khu xà lim náo động hẳn lên vì những tiếng gào thét ầm ĩ, những lời chửi rủa tục tằn. Một lát sau qua lỗ thủng ở cửa tôi nhìn thấy một người tù bị nhét giẻ vào miệng, mặt đỏ gay vì khó thở hoặc vì tức giận. Anh ta xoạc cả hai chân ra để chống lại, không chịu đi, nhưng hai tay lính gác trẻ hơn và khỏe hơn vẫn lôi xềnh xệch anh ta đi được, chắc hẳn để tống vào một thứ xà lim kỷ luật kiểu như ca-sô[3] Hỏa Lò. Anh tù còn trẻ, mặc quần áo bộ đội.
Lợi dụng những người lính gác đã đi ra ngoài khu xà lim, người ở ngôi nhà trên đã bắt được tín hiệu của tôi kêu lên:
– Ai đó? Kỳ Vân đây!
– Chào anh! Hiên đây! – tôi đáp lại.
– Vững vàng nhá!
– Nhất định rồi. Anh khỏe chứ?
– Khỏe lắm! Đừng tin lũ bịp! Chúng nó dựng vụ đấy!
Kỳ Vân nói dối. Anh yếu hơn chúng tôi nhiều. Nghe giọng anh thì biết. Với tiêu chuẩn ăn uống ở trại không ai có thể khỏe được. Anh lại không được tiếp tế nhiều như cha con tôi. Gia đình tôi dù sao cũng còn khá hơn gia đình anh. Khá hơn là nhờ sự giúp đỡ của các anh thương binh. Không chắc gì gia đình anh gặp được những người bạn tốt bụng như thế. Chị Kỳ Vân lại không còn nữa khi anh ở tù. Các con anh sống được là may, nói gì đến tiếp tế cho bố. Tất nhiên, tôi tin những gia đình cùng chung cảnh ngộ cũng không quên chăm sóc các con anh đâu, nhưng nếu họ xin tiếp tế cho anh thì không được – không đời nào Lê Đức Thọ cho phép. Các con anh còn nhỏ quá, lại đang đi học, không thể đi thăm và tiếp tế cho anh.
Đó là lần cuối cùng tôi gặp Kỳ Vân.
Nếu bọn Duẩn-Thọ cho chúng tôi ở cùng nhau để trông nom nhau, săn sóc nhau thì chắc gì Phạm Viết, Kỳ Vân đã chết thảm trong tù.
Con cóc lớn nhanh như thổi. Mới hôm nào còn là một con cóc bé xíu, bé đến nỗi tôi không cảm thấy trọng lượng của nó khi đặt nó lên tay, thế mà mới hai ba tháng sau nó đã chầm chẫm, trở thành một con cóc thanh niên lực lưỡng.
Đến giai đoạn này cu cậu bắt đầu thay da: màu đen mất dần, xuất hiện những mảng loang lổ màu nâu đất xen lẫn màu vàng thẫm. Lũ kiến vợi đi trông thấy. Để nuôi con cóc tôi phải nhịn một ít đường cát tiêu chuẩn để nhử thêm kiến vào phòng. Giống kiến xem ra không có óc suy xét, thấy đâu có ăn là kéo đến liền. Theo vệt nước ngọt được tôi vẽ từ cửa sổ hạ xuống tận nền nhà chúng rùng rùng kéo đàn kéo lũ từ bên ngoài tràn vào, bổ xung nguồn lương thực cho chàng cóc. Món ăn cu cậu thích hơn cả là kiến đen, nhưng thỉnh thoảng đổi món cu cậu cũng xơi kiến lửa. Cóc không thích kiến hôi, có thể vì chúng bé quá, mà cũng có thể vì chúng hôi quá.
Vì những mụn vá rất nghệ thuật theo phong cách siêu thực trên tấm áo mới của con cóc tôi đặt cho nó cái tên Arlequin, nhân vật nổi tiếng của sân khấu hài kịch Italia. Tôi nhìn dáng đi nghiêng ngả chông chênh tức cười của con cóc mà hình dung ra những chàng Arlequin vui tính nhảy nhót trên sân khấu Moskva, Leningrad, hình ảnh gắn liền với một thời đã mất.
Tôi nhớ trong một cuốn sách khoa học thường thức người ta viết rằng cóc không nghe được tiếng người mà chỉ bắt được âm thanh thuộc âm vực hoặc rất thấp hoặc rất cao. Thế mà Arlequin nghe được tiếng tôi gọi. Mỗi khi tôi vỗ tay, khẽ kêu lên "Arlequin!" là nó quay đầu lại nhìn tôi, cặp mắt mở to, chớp chớp.
Ngẫm ra con người ta không phải chỉ có các bản năng được gọi là cơ bản như bản năng sinh tồn, bản năng tự vệ, bản năng truyền giống… mà còn có một bản năng ít được chú ý là bản năng cầu bầu. Không hiểu sao tôi lại thích cái từ đã chết này. Các cố đạo Bồ-đào-nha, Y-pha-nho ghi nhận từ cầu bầu trong tiếng Việt thế kỷ thứ 19 và đưa nó vào những cuốn kinh bổn sớm nhất bằng tiếng Việt với nghĩa che chở, chăm nom, săn sóc, giống như từ patronage trong tiếng Pháp. Khi anh gặp một người yếu đuối đang cần sự che chở, trong lòng anh nảy ra ý muốn giúp đỡ kẻ đó, ấy là trong anh bản năng cầu bầu lên tiếng đấy. Năm 1956 tôi được xem một cuốn phim Pháp nhan đề Cửa ô Hoa Lilas (Porte des Lilas), với Pierre Brasseur thủ vai Juju, một anh chàng lộc ngộc kém trí khôn. Một tên gangster chạy trốn cảnh sát lạc vào khu phố nghèo, nơi nhân vật của chúng ta đánh bạn với một anh chàng vô chính phủ thất cơ lỡ vận có biệt hiệu Nghệ Sĩ. Tên găngxtơ hành hai người đến nơi đến chốn: ngồi yên tại nơi ẩn nấp y bắt họ dội nước cho y tắm, dọn bữa cho y ăn, đi mua radio transistor cho y tập thể dục sáng,… Đã thế y còn quyến rũ cô gái bán bar thơ ngây mà anh chàng lộc ngộc của chúng ta thầm yêu trộm nhớ.
Cho tới một hôm, Nghệ Sĩ hộc tốc chạy tới lay tỉnh anh ta, mặt mày rạng rỡ:
– Dậy, dậy đi, mày!
Juju phẩy tay, ọ ẹ:
– Đừng có phá! Để tao ngủ.
– Dậy, dậy! Nó đi rồi!
– Đứa nào đi rồi? – mắt nhắm mắt mở Juyjuy hỏi lại.
– Còn đứa nào vào đấy nữa! Nó đi rồi!
Juju ngẩn người ra một lát. Rồi hiểu ra nó là ai, anh ta thở dài:
– Thôi, thế là từ nay chẳng còn ai cần đến tao nữa!
Bản năng cầu bầu chính là cái đó.
Không phải chỉ nhu cầu có bạn trong cảnh cô đơn mà người tù xà lim nuôi những con vật chẳng ai nuôi làm cảnh bao giờ. Con người cần có ai đó để mà săn sóc. Nói cách khác, nó cần được thấy có ai đó cần đến nó, để được thấy nó đang hiện hữu và hiện hữu có ích. Tình cảm đó là hạt nhân Thiện nằm trong mỗi chúng ta.
Tôi cảm thấy đỡ đơn chiếc hơn nhiều khi có Arlequin ở bên. Nhưng càng lớn lên Arlequin càng bướng bỉnh. Nhiều lần tôi gọi, nó không tới nữa, mà cứ ngồi yên trong nỗi trầm tư của nó, chỉ một mình nó biết nó nghĩ gì.
Một hôm, vào buổi trưa tôi bắt gặp Arlequin đang ì ạch trèo lên bức tường gai góc. Nó thở dốc, cái bụng phập phồng. Tôi tiếp tục giấc ngủ chập chờn trong cái nóng đầu hè. Tỉnh dậy, tôi thấy Arlequin đang giãy giụa dưới đất. Hình như cu cậu vừa bị ngã một cú trời giáng. Tôi nghĩ đó là trò nghịch ngợm của trẻ con, không đáng để ý.
Nhưng những cuộc phiêu lưu của vận động viên leo núi diễn ra ngày một nhiều thêm. Những cú ngã cũng nặng nề hơn. Bức tường xà lim Bất Bạt, như tôi đã kể, lổn nhổn vẩy vữa cứng và sắc, gây ra những vết xước khá trầm trọng cho Arlequin – trên bộ cánh đẹp đẽ của nó, nhất là ở chỗ da bụng mịn màng, xuất hiện những cái sẹo nhem nhuốc.
Cho tới một buổi trưa đang ngủ say chợt thức giấc tôi thấy Arlequin hì hục trèo lên cao bằng cách bám vào những vẩy vữa rồi đi ngang về phía cửa sổ. Thì ra nó muốn bỏ trốn.
Tôi nổi giận. Ít nhất thì cũng đã mấy tháng trời chúng tôi chung sống cùng nhau, vậy mà nó tệ, muốn bỏ tôi mà đi. Chẳng phải là tôi đã nhịn phần đường của mình để nuôi nó sao? Tôi nhoài người vớ cái chổi quét một nhát thật mạnh. Arlequin bay bổng lên rồi rơi bịch xuống đất. Nó giãy giụa một hồi, rồi nằm thẳng cẳng, phơi cái bụng xây xát. Đã tưởng nó chết, nhưng nó vẫn sống. Tỉnh lại, nó bực bội nhảy vào một góc tối.
Arlequin giận tôi. Từ hôm đó tôi gọi nó không thèm nhảy lại nữa.
Mùa hè ở Bất Bạt nóng lắm. Mặc dầu ở trên đồi cao, nhưng những hôm trời lặng gió trong xà lim nóng như trong lò lửa. Cái nóng thật kinh người, so ra cũng chẳng kém ở Hỏa Lò là mấy. Tấm phản mộc dày là thế mà cong hẳn lên trong cái nóng khô khấc, thỉnh thoảng lại phát ra những tiếng tí tách của gỗ nứt. Không đường chạy trốn, tôi quằn quại trong cơn thiêm thiếp của sinh vật hấp hối. Bây giờ không phải là những người lính gác đóng cửa sổ lại không cho phép tôi nhìn ra ngoài, mà tự tay tôi phải đóng lại để cho mắt khỏi nhức nhối bởi cái nắng chói chang đang thiêu đốt khoảnh đất trần trụi trước mặt.
Trong một buổi chiều nóng bức như thế, tôi choàng tỉnh như bị đánh thức. Linh tính báo cho tôi biết trong xà lim chỉ còn lại một mình tôi.
Arlequin đã đi rồi!
Mắt nhắm mắt mở, tôi gọi ầm lên "Arlequin! Arlequin!". Đáp lại tiếng gọi tuyệt vọng của tôi chỉ có im lặng mênh mông.
Nghe tiếng tôi kêu lớn, mấy anh lính gác xồng xộc chạy lại. Nhưng ngó nghiêng một lát, chẳng thấy có chuyện gì xảy ra, họ bỏ đi. Tôi nghe tiếng một người vẳng lại:
– Lại một thằng nữa phát điên!
– Nóng bỏ mẹ thế này, chúng nó chưa chết là giỏi rồi! – có tiếng cười hô hố.
– Còn nóng kéo dài chúng nó còn điên nhiều…
Bọn khốn kiếp, tôi chửi thầm. Nhưng tôi chả còn tâm địa nào nghĩ tới họ. Tôi còn đang đau khổ vì sự bỏ đi của Arlequin. Tôi chui xuống gầm phản, sờ soạng tìm trong mọi xó xỉnh của cái hầm trú ẩn tối om lởm chởm đá răm và cuội. Nhưng đó là cuộc tìm kiếm vô vọng – Arlequin đã đủ lớn để không thể chui vào những lỗ nhỏ có rất nhiều trong lòng đất laterit.
Mệt mỏi, tôi nằm vật ra phản. Nước mắt tôi chảy ra. Tôi nhớ Arlequin như nhớ một con người.
Buổi chiều tôi bỏ cơm. Viên quản giáo bộ đội ái ngại:
– Anh ốm à?
– Vâng.
– Phải ăn để giữ sức khoẻ chứ.
– Anh báo cháo giùm tôi.
Anh ta khép cửa lại.
Trong xà lim vắng lặng hẳn. Cứ như thể Arlequin còn đó thì xà lim không vắng vẻ đến thế. Tôi cảm thấy hụt hẫng. Không còn nữa tiếng sột sạt khe khẽ khi Arlequin di chuyển trên nền xi măng, chỉ có thể nghe thấy được nếu rất chú ý. Không còn cái bóng nhỏ lui cui lúc chỗ này lúc chỗ kia trong cái cũi người nay còn lại mình tôi.
Về chiều trời oi nồng như chưa bao giờ oi nồng đến thế. Miệng đắng ngắt, tôi vật vã trên tấm phản khô cong, không sao ngủ nổi. Trong cơn mơ màng tôi nghe tiếng đàn cóc đông đảo bên ngoài xà lim kêu rộn rã. Có vẻ chúng hoan hỉ đón mừng Arlequin thoát vòng tù ngục.
Tôi lịm đi khi cơn mưa rào giội xuống xối xả.
Trong giấc mơ tôi thấy Arlequin trở về. Không phải con cóc mà là một chàng trai cường tráng. Không phải xà lim mà ở một nơi nào đó không rõ rệt, không ra là ở ngoài đời, cũng không ra ở trong tù.
– Tôi quay lại để từ biệt anh! – Arlequin nói – Tôi không thể ra đi mà không chào anh một lời…
Tôi nhỏm dậy.
Giữa hai chúng tôi là những song sắt. Hiện thực trở lại một nửa, lờ mờ.
– Sao chú nỡ bỏ tôi mà đi, hở Arlequin?
– Tại sao ư? – Arlequin đăm đăm nhìn tôi, cái nhìn thương xót – Chẳng lẽ anh lại không hiểu nổi một điều đơn giản như thế sao?!
Tôi cảm thấy cay cay nơi sống mũi, cái nhìn nhòa đi.
– Tôi có đối xử với chú quá tồi tệ đâu, Arlequin? Tất nhiên, tôi cũng có lúc nóng nảy, nhưng đó là khuyết điểm có thể bỏ qua cho nhau được…
-…, chuyện đó tôi quên rồi! Anh đối với tôi tốt, rất tốt. Tôi không quên anh đã nuôi tôi lớn lên, tôi cũng không quên những gì anh đã làm cho tôi, tôi hiểu tấm lòng của anh đối với tôi… Những cái đó làm sao quên được! Nhưng thú thực, có một điều tôi không hiểu nổi: vì sao anh có thể ở mãi trong cái chuồng này mà không chán. Tôi thì tôi không thể sống như thế được.
Tôi rầu rầu nhìn cái xà lim, ngôi nhà của tôi.
– Không phải tôi muốn thế. – tôi kêu lên – Tôi bị cầm tù, Arlequin hiểu không, tôi bị cầm tù…
– Và anh muốn cầm tù tôi cùng với anh?
– Tôi không cầm tù Arlequin, tôi chỉ muốn Arlequin ở cùng tôi thôi. Không có Arlequin tôi buồn lắm.
Arlequin nói, ngậm ngùi:
– Tôi cũng muốn ở cùng anh, nhưng rất tiếc, không thể được. Tôi là một con cóc. Không con vật nào muốn sống trong lồng, trong chuồng, anh có hiểu như thế không? Sống như thế không phải là sống. Chúng tôi không cầm tù nhau như các anh, loài người… Không biết và không nỡ. Tôi biết: các anh nghĩ rằng loài người các anh là sinh vật thượng đẳng, các anh coi các anh cao hơn các loài khác, nhưng tôi nghĩ các anh lầm. Hoàn toàn không phải thế…
Tôi không biết nói gì với Arlequin. Tôi buồn nỗi mình thuộc một loài mà cả đến con cóc cũng không thèm kính trọng.
Arlequin đưa tay cho tôi:
– Anh ở lại nhé, nếu anh không thể ra được. Vĩnh biệt anh!
Tôi nắm chặt tay Arlequin không rời. Nhưng bàn tay Arlequin cứ nhỏ dần, nhỏ dần cho tới khi trở thành bàn tay của con cóc bé nhỏ đã ở cùng tôi, con vật xấu xí dễ thương đã là niềm vui của tôi trong mấy tháng trời. Tôi nhắm mắt lại vuốt ve bàn tay nhỏ bé nhưng nó đã tuột khỏi tay tôi.
Tôi choàng tỉnh. Mở mắt ra thì trời đã rạng. Không khí mát và ngọt sau cơn mưa rào ùa vào lồng ngực. Chung quanh tôi là sự tĩnh lặng của vô cùng. Qua song sắt nhà tù tôi nhìn thấy bầu trời nhợt dần, bóng đêm mất đi nhường chỗ cho một ánh hồng cảm thấy được chứ chưa nhìn thấy được đang dâng lên từ phương Đông. Đầu óc tôi bừng sáng trong một tia chớp từ bên trong, những ý nghĩ trở nên rõ ràng như chưa bao giờ rõ ràng như thế. Nỗi buồn mất đi không để lại dấu vết. Thế chỗ nó là một niềm vui không tên, trong sáng. Đó là phút mà con người đặt tên là mặc khải. Tôi nghĩ tới Lênin và hiểu rằng ông đã sai biết bao nhiêu khi đặt tự do nằm trong phạm trù ý thức. Bằng sự ra đi ấy, Arlequin chứng minh điều ngược lại: tự do nằm trong phạm trù bản năng.
34
Cùng một lúc cửa sổ các nhà-xà lim theo nhau đóng sập lại rầm rầm, tiếng lính gác chạy sầm sập. Sau đó là im lặng hoàn toàn. Chỉ còn tiếng gió hú trên đồi, quanh quất giữa bàn cờ những ô biệt giam.
Xà lim tối om. Tôi rón rén bước ra phía cửa ra vào để nhìn qua lỗ thủng ra ngoài.
Thường cho tù ra đi cung người ta không đóng hết mọi cửa sổ mà chỉ đóng ở những nhà nào có tù đi ngang. Khi các cửa sổ bị đóng hết có nghĩa là sự kiện bất thường. Tôi phải chờ một lúc mới nghe tiếng cánh cổng tôn rền rĩ mở ra xa xa, tiếng đế giày sàn sạt trên sỏi, rồi mới tới đoàn người. Đi đầu là những tên bảo vệ lăng xăng. Theo sau chúng là các quan chức líu ríu vây quanh một nhân vật bệ vệ. Tôi nhận ra bộ trưởng Bộ Nội Vụ Trần Quốc Hoàn.
Đây là lần thứ hai kể từ khi bị giam tôi nhìn thấy tên Berya[4] của Việt Nam.
Lần đầu là ở sân Hỏa Lò, lúc Huỳnh Ngự lấy tôi đi cung. Cũng một đoàn rầm rộ như thế này. Hoàn đi thẳng một mạch từ cổng vào tới khu ngách trái của Hỏa Lò, gần nơi diễn ra những cuộc hỏi cung. Tôi đoán Hoàn vào giải quyết chuyện gì đó trong vụ chúng tôi. Sau này, cha tôi tính ngày tháng để nhớ lại, ông nói có lẽ đó là hôm Hoàn vào gặp ông để yêu cầu ông chấm dứt cuộc tuyệt thực kéo dài đã mười ngày. Gương mặt lầm lì, cái nhìn vô cảm, nhân vật thứ hai trong ngành chuyên chính vô sản. chỉ sau có Lê Đức Thọ, gợi nghĩ tới một con sâu róm. Khi tôi đi ngang, Hoàn liếc xéo tôi, như nhìn một con vật trong đàn gia súc.
Cuộc đi thăm của Hoàn lần này chắc chắn liên quan tới vụ chúng tôi. Bất Bạt là trại không thuộc quyền Bộ Nội Vụ. Hoàn tới đây hẳn lại để gặp ai đó trong số những tên tù bướng bỉnh, thuộc loại cao cấp. Chứ không phải để gặp những tên tù lèm nhèm như tôi. Tôi thuộc loại con sâu cái kiến, loại không được các đại quan tính đến.
Hình như bất cứ người cầm bút nào cũng có lần gặp trạng thái kỳ cục này: mạch văn đang trôi chảy bỗng ì ra khi gặp một nhân vật mà ngòi bút khước từ không muốn viết về nó. Chuyện đó xảy ra với tôi khi đụng tới Trần Quốc Hoàn. Tôi đã tính bỏ, không viết về y. Y không xứng đáng được nhắc tới trong cuốn sách. Không hoàn toàn chỉ vì y không có quan hệ trực tiếp với tôi trong quá trình vụ án. Trong vụ án tôi đang kể cho các bạn, tên Trần Quốc Hoàn được nói đến như một trong những nhân vật chủ chốt, nhưng y chỉ là tay sai cho Lê Đức Thọ mà thôi. Tay sai là tay sai, cho dù có là bộ trưởng. Thế nhưng nghĩ đi nghĩ lại tôi thấy vẫn cần phải viết. Bức tranh xã hội Việt Nam vào thập niên 60 thiếu Hoàn sẽ mất đi một mảng điển hình.
Cùng ngồi tù với cha tôi ở Sơn La, nhưng Hoàn không nhập được vào khối các cựu tù nhân bè bạn với cha tôi. Những người cựu tù Sơn La sau Cách mạng Tháng Tám vẫn thường qua lại thăm nhau. Nếu tôi nhớ không lầm thì Hoàn chỉ lui tới ngôi nhà chúng tôi ở 65 phố Nhà Rượu (tênbình dân gọi phố Sergent Larrivet cũ) đôi lần trong thời kỳ bí mật. Kháng chiến thành công rồi không bao giờ tôi nhìn thấy Hoàn tới nữa. Đối với tôi, điều đó có nghĩa Hoàn không thuộc số người mà cha tôi coi là bạn. Cha tôi rất phân biệt bạn và đồng chí. Những người cộng sản hiển nhiên là đồng chí, nhưng không hiển nhiên là bạn. Bạn bè của ông đông, đủ loại, trong đó có nhiều người không phải là cộng sản, thậm chí có xu hướng trái ngược với cha tôi, như ông Tiến cố tôi đã có dịp nhắc tới ở trên, hoặc các ông Hoàng Văn Chí[5], ông Phan Tử Nghĩa[6], Nguyễn Văn Ái[7]… theo xu hướng xã hội. Mỗi khi gặp nhau họ tranh luận ầm ĩ về thời cuộc, cãi nhau về chủ trương, nhưng khi mẹ tôi đã dọn cơm lên thì bầu không khí lại trở về vui vẻ, nhộn nhạo tiếng cười và những câu nói đùa bất tận.
Khoảng đầu những năm 60, Trần Quốc Hoàn bỗng nổi bật lên như một tên mao-ít cuồng nhiệt, một hung thần xã hội chủ nghĩa. Khắp nơi, người ta xì xào về những lời tuyên bố của Hoàn, coi như Hoàn là cái phong vũ biểu cho thời tiết chính trị của đất nước. Hoàn được chúng tôi gán cho cái biệt hiệu "Berya của Việt Nam" chính là trong thời kỳ này, không phải vì những cuộc bắt bớ (lúc đó chưa xảy ra) mà vì những lời dọa dẫm sẽ đè bẹp, sẽ đập tan, sẽ nghiền nát những mầm mống "xét lại hiện đại", được Hoàn hào phóng ban phát trên các diễn đàn. Tôi có lần hỏi cha tôi: Hoàn là người thế nào.
– Con phải cẩn thận. – cha tôi không bằng lòng câu hỏi tò mò của tôi, ông càu nhàu – Tình hình nước ta không đơn giản. Động tới Trần Quốc Hoàn là nguy hiểm lắm. Con đã ở Liên Xô thời kỳ Đại hội XX, con thừa hiểu tình hình bên đó ngày trước là thế nào. Bố nói phải cẩn thận là trong ý nghĩa đó. Berya dù sao cũng còn là một hạ sĩ quan trong quân đội Nga hoàng, hắn còn được học hành đôi chút, chứ Trần Quốc Hoàn thì hoàn toàn vô học. Hồi ở Sơn La anh em tù nhận xét hắn tham ăn tục uống, đã thế lại có tính tắt mắt, nhưng coi đó là khuyết điểm sinh hoạt, chỉ nhắc nhở hắn rồi bỏ qua. Trong đời thường mà thế, ắt trong công việc không thể đàng hoàng. Hắn tiểu nhân, mà đó là một tư chất đáng sợ. Hắn chấp nhặt lắm đấy. Và không từ việc gì không dám làm. Nhất là bây giờ hắn lại ở trong Bộ Chính trị, tuy là ủy viên dự khuyết, trên hắn lại có Lê Đức Thọ đỡ đầu. Khi có quyền lực trong tay, kẻ vô học có thể làm bất cứ điều gì.
– Thế những người biết hắn đâu cả mà không ai dám can ngăn?
Cha tôi thở dài:
– Hồi cuối năm 1954 các cố vấn Trung Quốc phát biểu không đồng ý cho bác Lê Giản lãnh đạo ngành Công an, cụ Hồ nghe theo. Sau đó ít lâu, một hôm ông Cụ có hỏi bố: "Chú thấy liệu Trần Quốc Hoàn có đảm đương được trách nhiệm bộ trưởng Bộ Công an[8] không?" Bố biết can cũng chẳng được, nên chỉ trả lời qua quít: "Tôi ở Sơn La với anh ấy mấy năm tôi biết, trình độ văn hóa cũng như kiến thức chính trị của anh này kém lắm. Mà trông nom một bộ quan trọng như Bộ Công an, theo tôi nghĩ, phải có người giỏi, có học thức, sao Bác không giao cho ai khác?".
Người tiến cử Trần Quốc Hoàn nắm Bộ Công an là Lê Đức Thọ. Trường Chinh tán thành. Ông Hồ hỏi ý kiến cha tôi cũng chỉ để tham khảo. Cho dù ông có thấy cha tôi nói phải ông cũng không nghe theo. Còn cha tôi thì cho rằng để trả lời cho một câu hỏi của ông Hồ về nhân sự ông nói thế đã là nhiều. Thường ông kín đáo, không hay nhận xét về người này người khác. Không phải vì sợ hãi, hay nể nang, mà vì thận trọng. Ông cho rằng con người ta lúc thế này lúc thế khác, không phải bất biến, lấy một giai đoạn mà nhận định cho cả cuộc đời con người là không nên. Đấy là nói chung, chứ riêng trường hợp này ông không nói còn vì e ngại thế lực của Lê Đức Thọ. Năm 1955, khi Cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức phá sản, Lê Đức Thọ được thay Lê Văn Lương nắm công tác tổ chức, thì thế lực Thọ đã mạnh lắm. Cha tôi sợ, nói thẳng ra là như thế. Như một bệnh truyền nhiễm bắt đầu lan rộng, cái sợ không chừa một ai, kể cả cha tôi. Cái khí phách còn lại của tinh thần nho sĩ chỉ còn lại ở chỗ ông đủ nghị lực để giữ mình không dây vào những việc làm bạc đức, một thứ khí phách mà vài thập niên sau được đặt tên là chủ nghĩa makeno[9].
Vào năm 1965, nhân người nhà một viên chức chế độ cũ bị bắt tìm đến ông nhờ ông can thiệp giùm, cha tôi nhận lời đi gặp Trần Quốc Hoàn. Cha tôi biết rõ người bị bắt, ông này là người đứng đắn, trước đã có công giúp đỡ cách mạng. Chắc hẳn do tính tình nóng nảy, không biết giữ gìn lời ăn tiếng nói mà ông ta bị bắt. Lúc ấy cha tôi đã về hưu, không còn quyền chức gì để có thể trực tiếp giúp đỡ ông. Cha tôi đến với Trần Quốc Hoàn, nghĩ Trần Quốc Hoàn sẽ nể tình bạn tù cũ mà nghe ông xem xét lại vụ án. Nhưng ông lầm. Hoàn tiếp ông lạnh nhạt, hứa hẹn bâng quơ, nhưng rồi việc đâu bỏ đó.
Không giúp được người oan ức cha tôi rất buồn.
– Thằng lưu manh khó lòng trở thành người tử tế. – ông than phiền với ông Đặng Kim Giang – Mình quá tin ở khả năng cải tạo của môi trường đối với con người, hóa ra không phải như vậy.
Ông Giang an ủi cha tôi:
– Cậu không giúp được người ta thì cũng đừng dằn vặt mình quá. Ai chịu trách nhiệm được thay kẻ khác?
Ông Đặng Châu Tuệ[10] hôm đó có mặt thở dài:
– Thời bây giờ khác trước rồi. Nghĩ nhiều đến số phận dân chúng lúc này là lạc hậu lắm, chúng mày ơi. Bây giờ người ta nghĩ tới những cái khác kia – cái chức, cái quyền, cái lợi. Cách mạng mà rồi thế này ư? Tao ngấy đến tận cổ.
Tôi nghe được mẩu đối thoại ấy, nhưng tôi không nghĩ cha tôi nói theo nghĩa đen. Một nhà cách mạng làm tới chức vụ cao như thế sao lại có thể là một tên lưu manh được?
Bộ Nội Vụ, trung thành với tính chất bí hiểm của nó, không hay tổ chức những cuộc gặp gỡ các nhà báo, nếu có thì chỉ là những cuộc họp báo hạn hẹp để nghe một cán bộ cấp vụ phổ biến chủ trương hoặc công bố kết quả một chiến dịch, một vụ phá án gián điệp chẳng hạn. Cho nên các nhà báo ít có dịp tiếp xúc với Trần Quốc Hoàn. Tôi chỉ thỉnh thoảng được gặp, nói cho đúng là nhìn thấy Hoàn, trong một số buổi khánh tiết long trọng, ở những cuộc đón tiếp ở địa phương mà tôi tình cờ có mặt. Trong các nhân vật lãnh đạo ở Việt Nam thời bấy giờ Trần Quốc Hoàn có bộ mặt khả ố nhất, theo cách nhìn của tôi. Có thể người khác thấy Hoàn theo cách khác, nhưng tôi thì tôi thấy đúng như vậy. Hay vì Hoàn là bộ trưởng công an nổi tiếng tàn bạo mà tôi nhìn ra thế chăng? Từ ngày Trần Quốc Hoàn lên làm bộ trưởng thì trên miền Bắc không có mấy gia đình không có người thân trong gia tộc ở tù.
Trần Quốc Hoàn thường xuất hiện cùng lúc với Lê Quốc Thân, phó của Hoàn. Béo núc ních, cổ rụt, hai mắt ti hí, Thân giống hệt một con lợn ỉ. Trần Quốc Hoàn tiếng thế còn học mót được vài đường đạo đức giả ở đàn anh Lê Đức Thọ, chứ Lê Quốc Thân ngu độn chỉ biết kêu gọi dùng bàn tay sắt. Được Đảng tâng bốc là thanh kiếm và lá chắn[11] cho chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, ngành công an Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Trần Quốc Hoàn và Lê Quốc Thân nhanh chóng trở thành một đạo kiêu binh. Đến nỗi, những cán bộ công an có công tâm phải thốt lên: "Cái sự coi mỗi công dân là một tù nhân dự khuyết mở đầu cho một thời đại khốn nạn. Rồi đây chúng ta sẽ phải trả giá đắt cho sự thất nhân tâm này". Tôi được nghe, được đọc một số bài nói chuyện với cán bộ ngành công an của Lê Quốc Thân. Những bài báo này, theo nhận xét của giới trí thức, vừa ngu xuẩn vừa sặc mùi bạo lực. Tôi là người yêu chủ nghĩa xã hội, và tôi lấy làm xấu hổ cho cái chủ nghĩa xã hội mà tôi theo vì những bài phát biểu thiếu văn hóa đó.
Khoảng từ cuối cuộc kháng chiến chống Pháp phương châm "bắt nhầm còn hơn bỏ sót" của Trường Chinh được người ta nói tới nhiều, như thể đó là đường lối tốt nhất để bảo vệ cách mạng. Tôi cũng là người chăm đọc sách mác-xít, nhưng trong những đoạn văn viết về chuyên chính vô sản tôi không thấy những nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx nói tới một phương châm bất nhân như thế.
Bắt nhầm còn hơn bỏ sót là sự biện minh cho những hành động tùy tiện của nền độc tài. Nó được chính thức nhìn nhận như tinh thần cảnh giác cách mạng nhất thiết phải có trong mỗi người cách mạng, chứ không phải chỉ riêng cho ngành Công an. Trong sự bảo vệ địa vị thống trị, nó cực kỳ thuận tiện và vô cùng dễ chịu cho tên độc tài, hoặc tập đoàn độc tài. Nó cho phép tên độc tài thoát khỏi mọi ràng buộc, vô trách nhiệm trước sinh mệnh đồng loại. Trên thực tế nó đã trở thành phương châm hành động của công an nhiều nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là các nước châu Á (ở các nước châu Âu, sau Đại hội XX Đảng cộng sản Liên Xô, tình hình đã có thay đổi theo chiều hướng dân chủ hơn). Công an tha hồ bắt oan, tha hồ giết oan đồng bào họ. Vạn nhất có bị phát hiện họ sẽ được chuyển sang công tác khác, được bảo hiểm không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nhiều khi lại còn được thay tên đổi họ để đi công tác nước ngoài, như là một phần thưởng. Kết quả là không biết bao nhiêu thường dân vô tội trở thành nạn nhân của cái phương châm bạc ác này.
Mà nói thường dân làm chi, đến những cán bộ một thời được tin cậy, như Tạ Đình Đề, nguyên đội trưởng Biệt động thành Hà Nội, cũng bị đem ra "làm thịt". Tạ Đình Đề là một trong những nhân vật huyền thoại của cuộc kháng chiến chống Pháp ở Liên khu 3. Nào là Tạ Đình Đề làm gián điệp cho Pháp, được Pháp cử đi ám sát chủ tịch Hồ Chí Minh, nhưng Hồ Chí Minh đã phát hiện khi anh còn nấp trên mái nhà chuẩn bị ra tay, rồi cảm hoá anh đi với cách mạng (“Hoan hô anh Tạ Đình Đề, Trước làm gián điệp sau về với ta”, thơ Bút Tre, hoặc kiểu Bút Tre). Chiến tranh kết thúc, anh làm giám đốc xưởng sản xuất vợt bóng bàn ngành đường sắt, rồi bị ra tòa vì tội "chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa". Chưa bao giờ ở miền Bắc có một cuộc xử án mà quần chúng ủng hộ bị can kéo tới Tòa án đông đảo như trong vụ xử án Tạ Đình Đề. Đám đông ủng hộ anh trở thành một áp lực không thể coi thường. Anh được xử trắng án. Trong khi thẩm vấn tại toà, các quan tòa bắt bẻ Tạ Đình Đề vì sap anh lại thu nạp những kẻ có tiền án tiền sự (tù được tha) vào xưởng của anh nhiều đến thế, Tạ Đình Đề thản nhiên trả lời: "Họ là những người đáng thương. Ai còn có tình người thì phải giúp đỡ họ".
Tôi quen Tạ Đình Đề từ năm 1949 khi chúng tôi ở cùng trường sĩ quan lục quân Trần Quốc Tuấn. Đại đội 3 của chúng tôi đóng bên đại đội Lê Hồng Phong gồm các sĩ quan cấp đại đội và tiểu đoàn (phần lớn là tự xưng trong giai đoạn đầu cuộc kháng chiến chống Pháp) được triệu tập về học khóa 6 trong chủ trương chính quy hóa quân đội. Tạ Đình Đề ở đại đội Lê Hồng Phong. Chúng tôi gặp nhau hàng ngày, tôi hiểu tính cách của anh. Anh là người có tinh thần đồng đội, lại thẳng thắn, bộc trực, không nịnh bợ, hoặc có tài nịnh bợ. Trong triều đại Lê Duẩn những người có tính cách như thế trước sau cũng bị gạt ra khỏi guồng máy. Sau khi được trắng án, Hoàn và Thân còn nhiều lần mưu toan đưa anh trở lại nhà tù, nhưng họ đã không thành công.
Ông Nguyễn Tạo, thứ trưởng Bộ Lâm nghiệp, là phó tổng giám đốc Nha Công an Việt Nam thời ông Lê Giản làm tổng giám đốc, biết rõ tiểu sử Trần Quốc Hoàn.
– Bố anh không nói theo nghĩa bóng đâu. Nghĩa đen đấy – ông trả lời thắc mắc của tôi – Chả là thằng này đích thực lưu manh, anh ạ.
Năm1992, tôi rời Việt Nam lần chót thì ông Nguyễn Tạo còn sống. Tôi hi vọng ông còn sống lâu để có thể kể câu chuyện kỳ lạ này cho nhân dân nghe.
Không thể nào tưởng tượng nổi – một bộ trưởng, hơn nữa, một ủy viên Bộ Chính trị Đảng cộng sản, lại là một tên lưu manh xuất thân! Và tên lưu manh này đã đứng trên đỉnh cao quyền lực làm mưa làm gió nhiều năm trong bộ máy trấn áp của Đảng. Cũng chính tên lưu manh này đã cùng "đại ca" của nó thực hiện vụ hãm hại chưa từng có trong lịch sử đất nước những trung thần của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
Câu chuyện ông Nguyễn Tạo kể được ghi lại như sau:
Trong một thôn nghèo bên một thị trấn heo hút thuộc miền núi Nghệ An có một đôi vợ chồng nghèo hiếm muộn, có độc một mụn con trai. Họ kiếm sống bằng nghề đi rừng kiếm dây leo về bện rế mang ra chợ bán, đắp điếm lần hồi, với hi vọng rồi đây đời con mình sẽ khá. Tuy nghèo khổ, hai người vẫn ăn nhịn để dành cho con trai theo học trường tiểu học phố chợ. Thằng bé loắt choắt được bạn cùng lớp gọi là Cảnh con, không đến nỗi quá tối dạ, khốn nỗi cũng chẳng thông minh, học thì lười, ăn cắp thì chăm.
Lớn lên một chút Cảnh con nổi tiếng cả thị trấn và một vùng xung quanh về tật ăn cắp vặt. Học đến cours préparatoire[12] thì bị đuổi học vì hạnh kiểm xấu. Từ đó Cảnh con lêu lổng như một con mèo hoang. Nhà nào sơ hở là nó lẻn vào, cuỗm của họ từ cái quần lót cho tới cái nồi đồng. Bị bắt, bị đánh, năm ngày ba trận, nhưng nó vẫn chứng nào tật nấy, càng ngày càng lì, càng trở thành bất trị. Cha mẹ nó bị xóm giềngchửi bới, nguyền rủa, bị bắt đền, bị đe dọa. Đứa con hư trở thành gánh nặng, thành nỗi khổ tâm không sao thoát khỏi của đôi vợ chồng nhà nọ. Nỗi giận dữ của dân phố chợ nhằm vào Cảnh con cũng ngày một tăng lên. Rồi tới một lúc không ai còn có thể chịu nổi nữa.
Họ gặp may. Đúng lúc có người mộ phu tới, viên trưởng thôn liền hớn hở giao ngay thằng ăn cắp oắt con cho họ. Vừa được tiền, lại vừa nhẹ mình. Thường người đi phu được lĩnh ở thầy ký mộ phu một khoản rõ ràng, khoảng năm đồng Đông Dương nhưng đám chức sắc ăn chẹn, người đi phu chỉ được lĩnh một nửa, có khi còn ít hơn. Chức sắc ở địa phương bao giờ chả muốn đuổi khỏi địa phương mình những phần tử thanh tích bất hảo, nói theo cách bây giờ là “làm sạch địa bàn”.
– Lúc bấy giờ Cảnh con chừng bao nhiêu tuổi, thưa bác? – tôi hỏi.
– Khoảng mười lăm, mười sáu. – ông Tạo đáp – Thời trước là tuổi đi làm được rồi. Cảnh con được đưa sang Lào, tới một vùng có mỏ vàng, làm phu. Công việc phu đãi vàng rất đơn giản: đào đất ở những chỗ có mạch vàng rồi đem ra suối đãi. Dụng cụ đãi là một cái chảo lớn, dân đãi vàng gọi là pa-tê.
– Công việc phu đãi vàng ngày trước có khó nhọc lắm không, thưa bác?
– Làm phu tất nhiên là khổ rồi. Nhưng phu đãi vàng cũng không đến nỗi khó nhọc so với phu mỏ, phu đồn điền. Cái khổ nhất của phu đãi vàng là bệnh sốt rét ngã nước. Họ sống rải rác trong rừng, từng tốp một, gần suối, mỗi tốp vài chục người. Đứng đầu mỗi tốp có một cai trông coi gọi là xú-ba-dăng (cai). Tiếng là đãi cát ra vàng, nhưng lương phu thấp lắm, chỉ đủ sống, ít có ai hết giao kèo còn dành được tiền mang về nhà. Người đi phu thường không có ý định quay về – ở nông thôn thời bấy giờ còn khổ hơn đi phu. Anh đọc Tắt Đèn rồi chứ ?
– Thưa, đã.
– Nông thôn lúc bấy giờ đúng như cụ Ngô Tất Tố tả. Nhiều người còn đi phu xa hơn, sang tận Nouvelle Calédonie hoặc Nouvelles Hébrides[13], ta gọi là Tân Đảo và Tân Thế Giới, làm công nhân khai thác kền ở Chiepagui…
Các đồng chí ta ở Thái Lan lúc bấy giờ đã có tổ chức Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội hoạt động tương đối mạnh. Chính quyền Thái đối đãi với Việt kiều cũng nhẹ nhàng, họ không gây khó dễ cho các tổ chức cách mạng Việt Nam. Có thể nói đó là sự ủng hộ đáng quý. Cách mạng Việt Nam nhờ Thái Lan nhiều. Chỉ từ khi phái cực hữu Thái Lan lên nắm quyền thì cách đối xử với các tổ chức cách mạng Việt Nam mới xấu đi. Xét cho cùng, là lỗi tại mình. Ai lại nhờ đất người ta mà lại đi vận động dân Thái chống chính quyền ngay trên đất của họ. Thời kỳ mà tôi đang nói tới ngoài việc phát triển hội viên trong kiều bào tại chỗ, Thanh niên cách mạng đồng chí hội còn triển khai tổ chức của mình trong kiều bào ở Lào, Miên.
Khái niệm công nhân trong Hội Thanh niên Đồng chí bấy giờ rất đơn giản – bất cứ ai bán sức lao động chân tay đều là công nhân tuốt tuột, đều là đối tượng xứng đáng để kết nạp vào Hội. Chứ đám phu đãi vàng đâu có là công nhân công nghiệp theo cách phân định thành phần của Marx, như các anh bây giờ hiểu. Vậy là các đồng chí Thanh niên cách mạng quyết định phát triển tổ chức vào đám phu mỏ vàng nọ. Người ta phát triển vào Cảnh con. Mà phát triển vào hắn cũng phải. Chỉ có mình hắn biết đọc biết viết trong đám phu mù chữ. Cảnh con thường viết thư thuê cho các bạn phu lấy mỗi bức vài xu.
Chuyện bắt đầu từ đây. Đồng chí phụ trách phát triển Cảnh con, tôi không nhớ tên, là người thiếu cảnh giác, trong lúc tâm sự con cà con kê đã nói với Cảnh con tên tuổi một số đồng chí. Tôi nghĩ anh này lo xa, lại có chút lãng mạn nữa – vạn nhất mình có bị địch bắt, có bị hy sinh thì Cảnh con còn biết người này người kia để liên lạc. Mấy đồng chí mà anh ta nói đến về sau đều bị bắt hoặc bị bắn chết trên những con đường rừng nằm trên biên giới Thái-Lào. Không ai biết vì sao họ bị lộ, nhưng Cảnh con sau đó cũng mất hút.
– Cảnh con bán các đồng chí cho Pháp?
– Có nghi vấn như vậy. Nhưng không có bằng chứng. Nghi thì để bụng, vậy thôi. Nghe nói có đồng chí bị bắn, chạy thoát, lúc hấp hối có trối trăng lại, nói Cảnh con là tên phản bội.
– Sao họ không báo cáo tổ chức ?
– Một lời nói của một người không thể là bằng chứng. Vả lại, công tác cách mạng thì lu bu, có thể có ai đó đã báo cáo, nhưng người nghe báo cáo rồi cũng chết nốt chẳng hạn. Như tôi cũng chỉ nghe nói lại, mà không từ gốc, làm sao có thể báo cáo được. Đến khi biết đồng chí Trần Quốc Hoàn ngày nay chính là thằng Cảnh con ngày trước thì những người biết hoặc có nghe việc này không dám nói nữa. Cảnh con đã ở trong Trung ương rồi, lại còn vào Bộ Chính trị nữa. Nói ra mất mạng như bỡn. Đành nín lặng.
– Hồi ấy Cảnh con bỏ trốn vì sợ tổ chức biết ?
– Có thể lắm.
Sau khi Cảnh con trốn khỏi Lào, hắn trở thành một tên ăn cắp vặt ở các chợ Hà Nội. Theo lời những tên lưu manh già, trước đó có hồi Cảnh con còn đi theo một đám cướp ở Hải Dương, nhưng vì nhát gan nên bị chúng đuổi, không cho theo. Không còn đường nào, Cảnh con mới bò về Hà Nội, nhập vào đám móc túi, giật dọc. Nhưng ở trong đám này hắn ta cũng bị coi là một tên thuộc hạng bét, loại vét đĩa, như cách gọi của dân lưu manh bây giờ.
Ăn cắp ở quê còn được, chứ ăn cắp ở thành phố khó lắm, dân thì tinh, phú-lít[14] đầy đường. Nhưng không ăn cắp thì đói. Cảnh con mới xin nhập vào đám tiểu yêu cầm cờ đám ma, dưới trướng một tên anh chị ở phố Hàng Chợ Gạo. Bọn cầm cờ đám ma cũng là một dạng lưu manh, từ trong đám lưu manh chuyên nghiệp mà ra, như kiểu thầy tu xuất.
Mỗi băng cầm cờ thường được một nhà đòn thu dùng. Trong số các nhà đòn hồi ấy có nhà Louis Chức rất nổi tiếng. Đám tang do các nhà đòn thời trước tổ chức to lắm, sang lắm. Có minh tinh nhà táng xênh xang, màn che ngù rủ, ngựa cũng vận áo tang hai màu đen trắng, cũng đội kèn bú-dích[15] diễu hành trước linh cữu, trên xe tang ngất ngưởng một anh xà ích ăn vận chẳng khác gì đại tướng nhà ta bây giờ, theo đúng kiểu tây.
Tang chủ nào giàu có là có ngay băng cầm cờ đến xin phục vụ. Cách xin cầm cờ chúng thường là thế này. Mấy đứa lực lưỡng nhất bọn, xăm trổ đầy mình, mặt mũi bặm trợn, chít khăn tang hẳn hoi, kéo nhau đến gặp tang chủ. Lũ cô hồn cứ thế xông thẳng vào nhà chẳng cần ai mời mọc, rồi quỳ lạy trước linh cữu, khóc lóc thảm thiết, kể lể dông dài, cứ như thể trước đây chúng chịu ơn người quá cố, nay đến để giả nghĩa, xin được bảo vệ đám ma ân nhân. Tại sao lại phải bảo vệ đám tang? Thưa, tại vì cụ nhà tuy ân dày đức trọng thật đấy, nhưng, chúng nó nói, thiên hạ trăm người trăm ý, cụ nhà có ăn ở tốt mấy cũng không phải là không có kẻ thù, chẳng ai là người nắm tay được đến sáng, chúng con biết có kẻ định bụng phá đám tang cụ cho nên phải đến ngay để bảo vệ, vì tình sâu nghĩa nặng với ân nhân…
Tang chủ biết chúng nói láo, nhưng đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt – không cho chúng cầm cờ thì chính chúng chứ chẳng phải kẻ thù nào khác sẽ phá đám, thôi thì đành chịu chúng, nghĩa tử là nghĩa tận. Công cầm cờ do vậy mà rất cao: một lá đại kỳ (cờ lớn) 1 đồng Đông Dương (piastre), cờ phướn từ 3 hào tới 4 hào (giá một tạ gạo hồi ấy khoảng 5 đồng, hơn 5 đồng một tí). Loại tiểu yêu như Cảnh con chỉ được cầm cờ phướn thôi, đại kỳ không đến lượt. Mà đã là tiểu yêu thì cũng chẳng được hưởng trọn tiền. Tang chủ cho năm hào thì đàn anh lấy ba, thương tình lắm cũng lấy hai, không kém. Lại nữa, không phải ngày nào cũng có đám tang nhà giàu để được cầm cờ. Chưa kể đến chuyện băng cầm cờ Hàng Chợ Gạo còn phải giành giật, tranh khách với băng cầm cờ chợ Đồng Xuân, chợ Hàng Da, và những băng khác. Nói tóm lại, Cảnh con sống dặt dẹo, bữa no bữa đói, khổ sở lắm.
Tình cờ một hôm hắn ta đọc mục rao vặt trên báo Đông Pháp thấy nhà in Tân Dân tìm thợ sắp chữ, mừng quá, bèn ba chân bốn cẳng chạy đến xin việc. Chủ nhà in sát hạch thấy nó đọc được quốc ngữ, bèn cho vào làm. Anh phải biết: thời thuộc địa dân mình ít học lắm. Trong làng đỗ được cái certificat (sơ học yếu lược) đã là oai rồi, đã là thành phần trí thức rồi, đã được dân làng vị nể rồi. Thời kỳ tập sự, gọi là học việc, lương công nhân chẳng được là bao, giỏi lắm thì đủ ăn, nhưng cũng vẫn là có lương, còn hơn sống phập phù với bọn cầm cờ đám ma. Cảnh con ra sức làm, được chủ khen.
Nhưng chẳng bao lâu sau, chứng nào tật nấy, Cảnh con lại xoay ra ăn cắp. Ai cũng tưởng làm nhà in thì chẳng xoay xở được gì, ngờ đâu nó vớ bở. Chữ in làm bằng hợp kim antimoine, ta thường gọi là chữ chì, hồi ấy được dân đúc gang ở phường Ngũ Xã rất chuộng, mua với giá cao. Chả là đang lúc Tây cấm nghề đúc đồng (đồng là nguyên liệu chiến lược, mẫu quốc cấm dân thuộc địa đúc đồng để đưa về Pháp đúc đạn), cho nên dân Ngũ Xã phải quay ra đúc chảo gang. Chảo lớn thì phom[16] lớn, gang nung nóng chảy ra rót vào “phom” nguội quá nhanh nên chảo hay bị nứt mẻ, phải pha thêm một chút antimoine cho độ đông cứng chậm lại mới đúc được. Cảnh con liền ăn cắp chữ in đem bán. Trường Chinh hồi ấy cần chữ in cho báo Đảng, là báo Cờ Gỉai Phóng, mới cho người đi tìm gặp Cảnh con để mua, nhưng hắn ta không bán. Một kí lô chữ in bán cho dân Ngũ Xã được sáu đồng, người của Trường Chinh chỉ trả có năm đồng với lại năm đồng rưỡi, đời nào hắn bán. Thằng Cảnh con này khôn như rận".
– Nghĩa là vào thời kỳ Mặt trận Bình dân Cảnh con không hoạt động gì cho cách mạng?
– Hoạt động gì, trong khi nó còn bận ăn cắp?!
Đi đêm lắm có ngày gặp ma, Cảnh con bị bắt quả tang trong lúc trên vai còn cả bị chữ in. Chả là nhà in mất nhiều chữ quá, xót của, mới thuê thám tử tư đi điều tra. May cho Cảnh con, hắn bị tống ngục trúng lúc Mặt trận Bình dân vẫn còn cầm quyền. Thời kỳ này, sau cuộc đi thăm Đông Dương của các nghị sĩ cộng sản và xã hội, nhất là sau cuốn Đông Dương Cấp Cứu của bà André Viollis[17], các lực lượng phái tả của Pháp lên án mạnh chính quyền thuộc địa trong việc giam giữ tù chính trị, cho nên chế độ sinh hoạt cho tù chính trị được cải thiện hơn trước nhiều.
Không biết được ai trong những người bị bắt về tội chính trị đã mách giúp bảo giùm mà thằng ăn cắp chữ in liền khai với Sở Liêm Phóng rằng hắn là nhà ái quốc, chữ in hắn lấy là để cho các tổ chức cách mạng in báo, in truyền đơn. Cảnh con chắc khai cũng lăng nhăng lắm, hắn có liên lạc với ai đâu mà bảo hoạt động. Thế mà hắn được đưa sang bên tù chính trị, mới lạ. Tại Sơn La hắn nói với người của ta rằng hắn là người trong tổ chức, viện tên những đồng chí Thái Lan trước đây đã kết nạp hắn (nay đã chết hết), xin được kết nạp lại. Tổ chức nhờ bên ngoài xác minh, thấy quả có những đồng chí tên tuổi đúng như vậy, bèn cho hắn sinh hoạt. Lê Đức Thọ cũng kết tình thầy trò với hắn ta từ đó.
– Chẳng lẽ Trường Chinh hoặc những đồng chí gần Trường Chinh không nhớ chuyện Cảnh con từ chối không bán chữ in cho họ?
– Nhớ thì cũng thế thôi. Có lục chuyện ấy ra Cảnh con cũng không thiếu gì cách chống chế. Nguyên tắc bí mật chẳng hạn, chưa bắt được liên lạc thì biết ai là ta ai là địch. Theo nguyên tắc đó Cảnh con có quyền không biết Trường Chinh là ai, nói gì người của Trường Chinh cử tới gặp. Sau, Cảnh con đã làm to rồi, có ai biết chuyện cũ cũng im thin thít, không dám hó hé. Chỉ tội bọn lưu manh tép riu, hồi Cách mạng Tháng Tám chúng bị giết vô số kể, là do lệnh của Trần Quốc Hoàn đấy.
– Hoàn muốn bịt miệng những người biết quá khứ của hắn?
– Tất nhiên.
– Hồi ấy ai nắm công tác tổ chức, thưa bác?
– Chẳng có ai. Hoặc có thì cũng là phân công miệng với nhau, bảo nhau mà làm, mỗi người một mảng việc, mỗi người một địa phương. Ngay các chức vụ trong Trung ương cũng vậy, nhiều khi ới nhau mà giao, ai gần thì gọi. Nói chung là phải tự động giải quyết. Đấy, như Văn Tiến Dũng đấy. Có hồi anh ta mất liên lạc với Đảng, chẳng được tổ chức phân công việc gì, nhưng anh ta cứ đi các nơi xây dựng cơ sở, kết nạp đảng viên như thường. Cho tới khi bố anh đi tìm được Văn Tiến Dũng thì anh ta đã có sẵn một mớ chi bộ rồi.
– Có phải hồi chú Văn Tiến Dũng đóng giả nhà sư không?
– Đấy là hồi sau, khi đã bắt được liên lạc. Phải công nhận Văn Tiến Dũng kiên trì cách mạng lắm. Chưa bắt liên lạc lại với đồng chí thì tự nghĩ ra việc mà làm. Văn Tiến Dũng đúng. Nhưng nếu bắt bẻ thì có cái chi không bắt bẻ được, Văn Tiến Dũng làm thế gọi là vô tổ chức, vô kỷ luật rồi, phải không? Tổ chức Đảng trong những năm ấy chẳng chặt chẽ gì. Vả lại số đảng viên bấy giờ ít lắm, đâu có như bây giờ, thêm được một người là quý. Là đảng viên trước đây có nghĩa là tù đầy, là máy chém…
– Bác nghĩ Cảnh con rồi sau cũng giác ngộ cách mạng?
– Ai biết được?! Cũng có thể là như thế – con người ta thay đổi… Mà cũng có thể không… Tôi chỉ tin một điều: con người ta rất khó thoát khỏi bản chất của nó, khó lắm.
Tôi trách cha tôi nhiều. Lẽ ra ông phải cho tôi biết những điều ông biết, nhưng ông đã lảng tránh.
Tôi nhớ một buổi chiều thu 1964, cha tôi đột nhiên bảo tôi:
– Con lấy xe đưa bố đi một lát.
Hôm ấy tôi có một cái hẹn, nhưng đành phải bỏ – trong gia đình tôi sự không tuân lời người trên là lỗi nặng. Đành phải dịch cái hẹn sang ngày khác để đưa cha tôi đi. Ông ngồi sau chiếc Jawa 05 thấp tè, vốn không được thiết kế để chở hai người, hai chân khuỳnh khuỳnh. Nhưng ông chịu khó ngồi, không kêu ca. Năm ấy cha tôi không còn đi được Mobylette nữa, dắt xe ra cửa, cái xe kéo ông theo làm ông ngã dúi dụi. Trước đó, khi còn làm ngoại giao có tiêu chuẩn xe hơi ông cũng chỉ đi xe Mobylette[18] của riêng, do bạn bè ở Pháp gửi cho. Ông bảo: "Nước ta còn nghèo, xe cấp cứu cho đồng bào còn chẳng có, mình đi một mình một xe hơi làm gì, phí phạm!". Có hôm tới dự kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga ở đại sứ quán Liên Xô thì lính gác người Việt không cho ông vào chỉ vì ông đi Mobylette.
Cha tôi sai tôi chở ông lên đường Cổ Ngư cũ về phía Chèm. Tới dốc lên đê, ông bảo tôi dừng xe. Châm một điếu thuốc, ông chọn chỗ cỏ sạch để ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên ông.
Ráng chiều bắt đầu nhuộm đỏ mặt hồ Tây và một phần hồ Trúc Bạch. Gió nồng ẩm mang theo hương dong nước ngọt bị vứt lên bờ và hương lá mục ngai ngái.
– Con nhớ lấy chỗ này, quãng gốc cây thứ tư và thứ năm từ trên đê đổ xuống – cha tôi chỉ tay về phía trước – Nơi này đã xảy ra một tấn thảm kịch mà rồi đây con phải tìm hiểu để mà viết. Nó là tấn thảm kịch có tính chất tượng trưng cho một sự đổ vỡ lớn của một nền đạo đức và rộng ra, của một thời đại…
Mắt cha tôi mờ đi. Giọng ông đứt quãng.
– Con không hiểu bố muốn nói gì…
– Lúc này con không hiểu cũng được. Có những chuyện biết bây giờ vừa sớm, vừa nguy hiểm. Việc của bố là đánh động trí nhớ của con, bắt nó ghi lại một lời nói không rõ ràng để đừng quên, sau này… Thôi, ta về.
Trên đường về nhà cha tôi không nói thêm lời nào nữa. Tôi cũng không dám hỏi. Nếu cha tôi đã không nói, có nghĩa là hỏi cũng vô ích.
Ông Nguyễn Tạo đã giải đáp cho tôi câu hỏi đó, nhiều năm về sau:
– Bố anh không muốn kể vì vào thời kỳ câu chuyện xảy ra bố anh không còn làm việc với Bác Hồ nữa, bố anh e mình không nắm rõ, không trực tiếp biết sự việc, không biết chi tiết, kể sẽ không đầy đủ, không khách quan. Hoặc giả, bố anh biết đấy, nhưng sợ anh biết quá sớm thì hại cho anh, tôi không rõ… Nhưng ý bố anh muốn anh biết để có lúc anh sẽ phải viết ra. Bố anh bảo tôi kể cho anh nghe cũng không ngoài ý đó.
– Bác biết?
Ông gật đầu:
– Không phải chỉ mình tôi biết. Còn có người khác biết. Số cán bộ công an ở cấp vụ trưởng hồi bấy giờ đều biết cả…
– Vậy chuyện gì đã xảy ra ở dốc Chèm, thưa bác?
– Một vụ án mạng oan khuất.
– Ở chính nơi bố cháu chỉ cho cháu?
Nguyễn Tạo im lặng hồi lâu, rồi gật đầu.
– Phải, ở đó. Có một người đàn bà bị xe cán chết. Nói cho đúng hơn, xác của người đó.
– Một hiện trường giả?
– Chính vậy. – ông ngậm ngùi – Người đàn bà này bố anh cũng biết. Cô ta tên Xuân, quê ở thôn Nà Mạ, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng. Cô Xuân rất xinh gái, da trắng nõn, miệng tươi như hoa, được Ban bảo vệ sức khoẻ Trung ương tuyển vào làm việc trông nom sức khoẻ cho Bác Hồ…
– Thời gian nào, thưa bác?
– Sau khi hòa bình lập lại, khoảng năm 1955…
– Cùng được Trần Đăng Ninh tuyển một lúc với cô Xuân còn có hai người em gái cô ta, một em ruột, một em họ, cũng là con cái gia đình gốc gác cách mạng cả. Họ được bố trí ở trong một ngôi nhà ở phố Hàng Bông Thợ Nhuộm, sát đường Quang Trung. Thông thường, Trần Quốc Hoàn tự thân đưa cô Xuân vào gặp Bác rồi đưa về…
– Mỗi lần như vậy cô ta ở lại bao lâu?
– Không chừng. Có khi chỉ một đêm, có khi đôi ba hôm… Cô Xuân rất được lòng Bác. Họ có với nhau một con trai, được đặt tên là Trung, Nguyễn Tất Trung. Về sau trước khi Bác mất Bác ủy thác thằng Trung cho Vũ Kỳ chăm sóc, coi như con nuôi…
Tôi sững sờ. Lại thêm một bí mật tôi được biết trong những bí mật cung đình được giữ rất kín.
– Như vậy, có thể coi như cô Xuân này là bà hoàng hậu cuối cùng trong lịch sử Việt Nam?
Ông cười chua chát:
– Có thể coi là như vậy. Và là bà hoàng hậu bất hạnh nhất trong lịch sử Việt Nam. Bất hạnh vì không một ngày được thừa nhận là hoàng hậu, vì đẻ ra đứa con không được gọi cha ruột của nó bằng cha… Tất cả diễn ra trong sự lén lút nhục nhã, như thể đó là tội lỗi.
– Ai đã giết cô Xuân, thưa bác?
– Đừng vội. Ta hãy ghi nhận sự việc này: vào một buổi sáng mùa xuân năm 1957, người ta thấy có xác một người đàn bà bị xe ô tô đụng chết ở dốc Cổ Ngư lên Chèm[19]. Xác chết được đưa vào bệnh viện Việt Đức, được nhận dạng. Đó chính là cô Xuân. Nhưng xác không được mổ theo thường lệ, mà bị chôn cất vội vã, theo lệnh của Trần Quốc Hoàn[20].
– Tại sao lại Trần Quốc Hoàn?
– Bởi vì cô Xuân là người của cơ quan trực thuộc Trung ương, việc xảy ra phải báo cáo ngay cho Trần Quốc Hoàn biết.
– Rồi sau thì sao?
– Chưa hết. Sau, em ruột của cô Xuân bị điều đi học một lớp y tá ở Thái Nguyên, rồi bị đưa về Cao Bằng điều trị bệnh… thần kinh. Ít lâu sau xác cô nổi lên ở một cây cầu trên sông Bằng Giang… Cô em gái họ cũng biến mất. Như vậy là cùng một thời gian, cùng một sự việc, có tới ba người thiệt mạng.
– Những đầu mối đều bị bịt?
– Tất nhiên. Nhưng những lý do dẫn tới những cái chết đã bị lọt ra ngoài.
– Về những cái chết này không có ai điều tra hết?
Ông Tạo cúi mặt xuống.
– Không.
– Tại sao, thưa bác?
– Tại vì thủ phạm là một nhân vật quá to để có thể đụng tới.
– Trần Quốc Hoàn?
– Phải. – ông thở dài – Tất cả những người biết việc này đều có lỗi với hương hồn cô Xuân và hai cô em, tất cả đã không dám làm gì để rửa mối hận cho họ. Tất cả đã cúi đầu trước guồng máy, trước uy tín của Đảng có thể bị mất đi vì vụ bê bối này. Mọi người đều lầm khi nghĩ như vậy…
– Vì sao Trần Quốc Hoàn giết cô Xuân?
– Đó là một câu chuyện dài. Khi Bộ Nội Vụ, vì công tác bảo vệ, bố trí cho mấy chị em cô Xuân ở ngôi nhà của Bộ ở phố Hàng Bông Thợ Nhuộm, thì chỉ có vài người biết họ là ai. Trong ngôi nhà này còn hai gia đình cấp vụ khác ở cùng. Thời gian trước khi cô Xuân bị giết ít lâu, Trần Quốc Hoàn thường tới đó. Việc Trần Quốc Hoàn tới thăm rồi cưỡng hiếp cô Xuân, cô em của cô Xuân biết, có nói lại cho người yêu của mình ở quê. Anh này về sau có làm đơn tố cáo gửi Trung ương.
– Và Trung ương im lặng?
– Không phải anh ta gửi ngay lập tức. Ngay lập tức thì anh ta cũng bị giết ngay, mà mãi về sau này…
– Cụ Hồ không có ý kiến gì về mấy cái chết oan khuất đó?
Ông Nguyễn Tạo đăm chiêu suy nghĩ.
– Có nhiều điều chúng ta không biết được. – ông nói, giọng bùi ngùi – Tôi nghĩ thân phận Bác lúc ấy cũng tội nghiệp lắm. Biết nói với ai? Với Lê Duẩn chăng? Hay Lê Đức Thọ? Hay nói thẳng với Trần Quốc Hoàn? Tôi nghĩ Bác là con người, Bác cũng biết đau khổ. Nhưng cái thế của Bác buộc Bác phải im lặng…
– Nghĩa là, theo bác, ông Hồ không có lỗi?
– Trong mấy cái chết nói trên? Không.
– Nhưng sự im lặng trước cái chết của họ? Ông Hồ cũng không có lỗi? – tôi gặng – Bỏ ra ngoài mối quan hệ tình cảm, chỉ nói tới cái chết oan khuất của một con người, với tư cách đồng bào?
– Thế hệ các anh khắc nghiệt trong sự phán xét. – ông thở dài – Tôi hiểu các anh. Các anh vô can. Chúng tôi thì không. Chúng tôi tự đặt mình trong sự ràng buộc với Đảng, với những quyết định của nó, dù sai dù đúng. Chúng tôi lo lắng cho uy tín của Đảng. Chúng tôi cảm thấy nhục nhã nếu Đảng bị phỉ báng. Đảng là cuộc sống tinh thần của chúng tôi, là danh dự của chúng tôi. Bác cũng vậy. Ông Cụ cũng đau đớn lắm chứ. Ông cũng là con người. Như mọi người. Các anh khác. Các anh chỉ nhìn thấy một lẽ công bằng, đòi phải có nó, đòi mọi sự phải sòng phẳng. Cái đó là phải thôi. Đúng, chứ không sai. Nhưng có nên như vậy trong mọi trường hợp không? Hay là cần phải độ lượng hơn, thông cảm hơn với sự yếu đuối của con người? Dù họ có là ai đi chăng nữa…
(Còn tiếp)
[1] Ngày ông Hồ Chí Minh chết không phải 3 tháng 9, như Huỳnh Ngự nói, mà 2 tháng 9. Bộ Chính trị đã quyết định sửa lại ngày ngày ông qua đời để ngày Quốc Khánh không phải ngày tang, như sau này họ bào chữa. Do bị nhiều nhân chứng vạch trần hành động tự ý này, đến cuối năm 1990, Ban chấp hành Trung ương đã phải ra thông báo chính thức thanh minh việc cắt xén di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh và thừa nhận ngày tạ thế của ông là 2. 9.
[2] Vùng băng giá phía đông nước Nga, nơi phát vãng tù chính trị. Những nhà cách mạng Tháng chạp, và sau này Lênin và nhiều đồng chí của ông đã bị đi đầy ở vùng này.
[3] Từ tiếng Pháp cachot, ở Hỏa Lò là một phòng giam ngầm dưới đất, rất chật hẹp, tối tăm và bẩn thỉu. Theo những người tù đã từng ở cachot thì tù bị kỷ luật giam vào đây không đứng được, không nằm được, chỉ có thể ngồi trong tư thế lom khom, bên cạnh cái bô cứt đái nồng nặc mùi khai thối, đêm không dám ngủ để khỏi bị chuột cống cắn. Thời xã hội chủ nghĩa cachot vẫn được dùng nhưng may, tôi chưa có hân hạnh nếm mùi.
[4] Berya Lavrenti Pavlovich (1899-1953), đồng hương với Stalin, năm 1938 được Stalin giao cho phụ trách NKVD (tiền thân của KGB, Nha An Ninh Quốc Gia), phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Liên Xô năm 1941, vào Bộ Chính trị năm 1946. Là kẻ giết nhiều người vô tội nhất trong những đợt thanh trừng bịa đặt. Tháng 12. 1953 bị hành quyết.
[5] Hoàng Văn Chí, bút danh Mạc Định (1913-1988), ký tên vào kiến nghị huỷ bỏ chế độ thuộc địa từ năm mới 13 tuổi, nhà hoạt động cách mạng cánh tả, ông tham gia kháng chiến chống Pháp một thời gian, sau đó lui về Thanh Hoá, ở núi Nưa huyện Nông Cống, tới năm 1956 mới về Hà Nội.
[6] Phan Tử Nghĩa, cách mạng phái tả, không cộng sản, sau này là nhân vật lãnh đạo bù nhìn của Đảng Xã hội do Đảng cộng sản dựng nên.
[7] Nguyễn Văn Ái, một nhà cách mạng phái tả, không cộng sản, chết sớm vì bệnh lao.
[8] Tháng 8 năm 1945, ngành Công an đã được thành lập: ở Bắc Bộ nó có tên là Sở Liêm phóng, ở Trung Bộ là Sở trinh sát và ở Nam Bộ là Quốc gia tự vệ cuộc. Ngày 19 tháng 8 năm 1945 được coi là ngày thành lập Công an Việt Nam. Đầu năm 1946 các cơ quan này hợp nhất lại thành Việt Nam Công an vụ, thuộc Bộ Nội vụ với 3 cấp: cấp trung ương gọi là Nha Công an, cấp kỳ có tên gọi là Sở Công an kỳ, cấp tỉnh có tên gọi là Ty Công an tỉnh, thành phố. Giám đốc đầu tiên của Việt Nam Công an vụ là Nguyễn Dương (từ ngày 22 tháng 3 đến ngày 7 tháng 6 năm 1946). Sau đó Phó Giám đốc Việt Nam Công an vụ Lê Giản lên thay. Sau năm 1954, nó được đổi thành Thứ bộ Công an, rồi Bộ Công an. Vào thập niên 60, khi xảy ra vụ khủng bố những người cộng sản dân chủ, nó mang tên Bộ Nội vụ.
[9] Mặc Kệ Nó.
[10] Đặng Châu Tuệ (1907-1998), nhà cách mạng, bắt đầu hoạt động cách mạng từ trước năm 1930, khi còn là học sinh, năm 1928-1930 làm tờ báo Than ở Quảng Ninh. Trong kháng chiến chống Pháp ông làm uỷ viên Nội vụ tỉnh Lào Cai, rồi chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Ninh Bình, sau 1954 làm tại Tòa án tối cao.
[11] "Kiếm và mộc" (còn được gọi “Thanh Kiếm và Lá Chắn”) là biểu tượng của ngành công an Liên Xô.
[12] Lớp 2, hệ tiểu học thời Pháp thuộc, còn gọi là lớp dự bị, trên lớp Đồng ấu (enfantin).
[13] Hai quần đảo ở Nam Thái Bình Dương. Nouvelle Calédonie bị Pháp chiếm năm 1853, nay còn là lãnh thổ hải ngoại của Pháp. Nouvelle Hébrides bị Bồ Đào Nha chiếm năm 1606, sang tay Anh và Pháp năm 1906, năm 1980 tuyên bố độc lập, đổi tên là Cộng hòa Vanuatu.
[14] Cảnh sát, từ tiếng Pháp police mà ra.
[15] Đội kèn tây, do chữ musique (âm nhạc, tiếng Pháp).
[16] Khuôn đúc, do chữ forme, tiếng Pháp.
[17] André Viollis (Ardenne de Tizac) nghị sĩ cánh tả Pháp, đảng viên Đảng Xã hội Pháp, tác giả cuốn Đông Dương cấp cứu (Indochine S.O.S, 1935).
[18] Một thứ xe gắn máy của Pháp.
[19] Ông Nguyễn Minh Cần, vào thời gian đó là phó chủ tịch Ủy ban hành chính Hà Nội phụ trách Văn giáo và Ngoại thành nhớ lại: "Hôm đó (vào mùa xuân năm 1957) tôi đang thường trực thì anh Nguyễn Quốc Hùng, thành ủy viên, tới báo cáo có vụ xe cán chết người trên đường Nhật Tân, người bị cán là một xác chết. Anh em công an nói chiếc xe mang biển số của Phủ Chủ tịch… Mấy hôm sau tôi có hỏi anh Trần Danh Tuyên, bí thư thành ủy, về vụ này (theo phân công, anh Tuyên bí thư phụ trách công an), thì anh ta nói "Vụ đó giải quyết xong rồi ". Anh Nguyễn Quốc Hùng là cán bộ công an thời ông Lê Giản, sau bị Trần Quốc Hoàn đẩy ra ngoài. Theo anh Hùng cái chết này có uẩn khúc, anh nói cần phải tìm hiểu".
[20] Trong bệnh viện Việt-Đức không thể tìm thấy biên bản khám nghiệm tử thi cái xác được chuyển tới vào ngày đó.