Đêm giữa ban ngày (kỳ 29 – hết)

41

– Malêlết ló mốn cặp (gặp) mày! – Cố Thủ Chẩu đứng trước mặt tôi, ngúc ngắc cái đầu húi cua, nói bằng giọng khàn khàn.

– Có chuyện gì thế? – tôi nhìn đôi mắt một mí không chớp của anh ta.

– Khôông pết! – Cố Thủ Chẩu nói.

– Sao lại không biết?

– Ló bảo ngộ tến lói.

– Sao anh ta không tự đến?

Cố Thủ Chẩu nhăn nhó:

– Mà mày pằng lòng chớ, có không?

Cố Thủ Chẩu dặng hắng, đôi mắt tròn xoe đã bắt đầu mờ đục buồn rầu nhìn tôi. Tôi kiên nhẫn chờ, nhưng mãi vẫn chẳng thấy anh ta nói gì.

"Rõ ngốc!" Tôi rủa thầm tôi ngu. Ai cũng biết Cố Thủ Chẩu nói tiếng Việt không sõi. Mỗi lần phải dùng đến tiếng Việt là một lần anh ta mệt. Chỉ nghĩ đến phải nói tiếng Việt là anh ta đã muốn thở rốc, gương mặt đặc Tàu đờ đẫn hẳn ra trên cái cổ bạnh như cổ trâu. Trong đám tù chính trị họ Cố nổi tiếng hà tiện lời vì lẽ đó. Ngay cả với cán bộ trại anh ta cũng chẳng buồn trả lời khi họ hỏi. Lúc đầu họ còn nổi sùng, riết rồi quen.

– Thì ít nhất cũng phải cho tôi biết có chuyện gì chứ – tôi nói.

Tôi vừa viết vội cho xong bản báo cáo hình thức hàng tháng về lớp bổ túc văn hóa trại để nộp lên Ban giáo dục trại vừa cố đoán tiếp lý do khiến Marinet muốn gặp tôi. Trong trại mấy ngày qua mọi chuyện đều bình thường. Cả tuần chẳng có sự cố gì đặc biệt. Mà Marinet muốn gặp tôi theo kiểu này, có hỏi trước, nghĩa là phải có vấn đề. Từ khi tôi được Ban Giám thị cử làm chân “văn hóa trại” thì, theo một thỏa thuận không thành văn được toàn thể tù nhân tán thành, những người tù có chuyện lủng củng với nhau không báo cáo vụ việc thẳng với cán bộ như trước nữa mà đến bàn với tôi để tìm cách giải quyết nội bộ.

Cố Thủ Chẩu cụp mắt xuống, chân nọ gãi chân kia:

– Malêlết pảo thế! Ló mốn nhều.

Tôi gật đầu:

– Được, tôi sẽ đến.

– Tố hảo a!

Cố Thủ Chẩu nhe răng cười hài lòng, bỏ đi.

Tù ở trại A Phong Quang không đông, lối năm trăm nhân mạng là cùng, phần lớn là số lẻ. Như ở bất cứ trại nào, những người tù ít khi chơi thân với nhau. Người ta sợ, cái sợ cố hữu được Đảng cấy vào người họ, nó bám theo họ vào trong tù, cộng thêm cái sợ mới sinh ra bởi hệ thống ăng-ten dày đặc và thói quen bẩm báo để kiếm chác. Để tạo ra những ốc đảo an toàn, những người tù họp lại với nhau thành những nhóm nhỏ, gồm những người đã quen biết nhau ở ngoài hoặc những người đã được quan sát kỹ, thậm chí đã được thử thách trong cuộc sống giam cầm. Thường mỗi nhóm như thế chỉ hai người một, ba người một, gọi là gia đình, hiếm khi đông hơn. Tuy không giao du với nhau, nhưng cùng trong một trại, ra đụng vào chạm chan chát, mọi người đều nhẵn mặt nhau, thậm chí quen nhau tuốt tuột, có thể nói như thế. Chẳng hạn, tôi không phải bạn Cố Thủ Chẩu, ấy thế mà gặp nhau chúng tôi bao giờ cũng chào hỏi xã giao như những người quen biết, dù sau đó chỉ nói với nhau đôi ba câu bâng quơ.

Marinet, hay Malêlết theo cách phát âm của Cố Thủ Chẩu, là một cái lạ của trại Phong Quang. Mà có thể nó còn là cái lạ trong mọi trại giam. Lần đầu tiên tôi gặp trong bộ lạc tù số lẻ một người Âu. Một người Âu trăm phần trăm, Âu hoàn toàn, từ đầu đến chân – mũi lõ, tóc vàng, mắt xanh, da trắng. Không phải tây lai. Lại không phải phi công Mỹ. Cũng không phải tù binh còn sót lại của chiến tranh Đông Dương. Nghĩa là không thể nào giải thích được vì sao anh ta lại có mặt giữa vùng lam sơn chướng khí chỉ dành cho bọn tù số lẻ, lũ kẻ thù giai cấp của chính quyền vô sản. Mà khốn nạn làm sao, anh chàng lại không biết tiếng Việt để có thể trò chuyện với bạn tù, để cảm thấy đỡ cô đơn trong cảnh sống bị trói buộc. Cán bộ trại gọi tên anh ta theo hồ sơ hay anh ta tự xưng không biết, nhưng mọi người đều gọi anh ta là Ma Ri Nết. Chắc là tên chứ không phải họ.

Lầm lũi như một cái bóng, cao lênh khênh, nước da xanh xao, cái nhìn bất động,Marinet ngồi yên lặng xếp hàng trên sân trại mỗi buổi sáng chờ đi lao động. Khi đội anh ta được gọi tới, anh ta lẳng lặng đội nón lên đầu, đứng dậy cùng đi với các bạn tù. Bên cạnh những người tù thấp bé, ốm o, Marinet trong hình hài lênh khênh, tách ra khỏi đám đông xám xịt. Như một Gulliver ở xứ người Liliput, anh nhẫn nhục sống, lẳng lặng đi, lẳng lặng làm.

Theo lời kể của những người tù, thường tò mò và thích ngồi lê đôi mách, thì Marinet là một thương gia Hà Lan chuyên buôn bán mễ cốc trong vùng Thái Bình Dương. Sự có mặt của anh ta ở đây được giải thích bằng một nguyên nhân không cần tới lô-gích. Ấy là anh ta bị Chúa trừng phạt. Theo lời họ, câu chuyện là thế này.

Marinet vì quá sốt ruột muốn hưởng ngay lập tức phần gia tài kếch sù được ghi trong di chúc của ông nhạc, đã mưu mô với vợ đầu độc ông ta. Vụ giết người không bị phát giác. Nhưng oan hồn ông bố vợ không tha cho Marinet. Trong một chuyến áp tải hàng trên Thái Bình Dương, giữa bữa rượu mừng sinh nhật mình, Marinet say túy lúy đã rơi tõm xuống biển mà không ai biết. Nhưng Marinet không chết. Marinet dạt vào Việt Nam.

Chắc hẳn Marinet có kể cho ai đó, cho nên người ta mới biết chuyện này. Chứ nếu anh ta không kể thì ai có thể bịa ra câu chuyện với những chi tiết như thế được? Mà chẳng cứ bạn tù, các cán bộ trại cũng tin câu chuyện đó. Hẳn Marinet đã khai với công an như vậy. Mà cũng có thể Marinet kể cho Cố Thủ Chẩu nghe, rồi Cố Thủ Chẩu kể lại cho người khác. Trong trại Marinet chẳng chơi với một ai trừ Cố Thủ Chẩu.

Cố Thủ Chẩu là thổ phỉ. Nhưng trông họ Cố lại chẳng có thớ ăn cướp tẹo nào. Đậm người, đi đứng chậm chạp, tay chân vụng về, da mặt bóng nhẫy, trông Cố Thủ Chẩu có vẻ một ông chủ tiệm chạp phô ở một thị trấn hẻo lánh vùng biên giới. Để làm một tên cướp, họ Cố có vẻ người lù đù quá, khờ khạo quá, trong đối nhân xử thế thì lại tử tế quá, ân nghĩa quá. Cố Thủ Chẩu cũng dân “boọc”, cũng án tù mù. Từ bên Lào sang họ Cố được phiên vào một toán số lẻ, mặc dầu thổ phỉ là tội thuộc số chẵn.

Làm xong công việc hàng ngày của anh văn hóa trại, nghĩa là có mặt trong giờ điểm danh, đi kiểm tra vệ sinh lán trại, treo báo luân phiên trong các khu cho anh em tù đọc, tôi lững thững đi gặp Marinet.

– Chào đồng chí!

Đôi mắt xanh biếc của Marinet cười rộng, bàn tay to và xương xẩu xiết chặt tay tôi. Chưa hết ngạc nhiên với câu chào của Marinet, tôi đã bị anh lôi vào trong nhà.

Chúng tôi theo nhau trèo lên tầng trên cái giường chạy dài suốt năm gian. Giang sơn của Marinet là một manh chiếu, sát vách là khối chăn màn vuông vức, kể cả tay nải. Marinet nghèo, anh không có cái hòm gỗ mộc như những dân “boọc” số lẻ khác (là những người ít tin ở ngày về hơn bất cứ thứ tù nào). Cũng khác với tất cả, bên trên vách, ở đầu chỗ nằm của anh, có một thập giá tết bằng lá cọ non, đã khô xác và xám xịt vì lâu ngày. Theo nguyên tắc trại giam, những người tù theo đạo Thiên Chúa không được phép treo thập giá ở đầu giường, nếu ai treo cán bộ trại sẽ thu rồi quẳng đi, nhưng Marinet được hưởng ngoại lệ. Dù sao anh ta cũng là người nước ngoài.

Không vội vã Marinet châm đóm. Lửa bùng lên trong bóng tối ẩm ướt buổi sáng đầu đông có sương mù, tạo ra không khí ấm cúng. Tay phải Marinet cầm đóm huơ những vòng lửa nhỏ dưới trôn cái ống bơ cầm chắc trong tay trái, nước trong ống bơ chẳng mấy chốc đã sôi sùng sục. Trong tù, thủ tục tiếp khách bao giờ cũng trang trọng. Cái bát men thủng làm bếp, ống bơ sữa bò làm ấm đun, cái ca men sứt sẹo thay ấm pha, chén đựng trà làm bằng nứa tép cắt ngắn – bộ đồ trà của tù là thế.

– Mời! – Marinet đưa cho tôi một chén trà nóng bỏng bằng hai tay.

– Mời! – tôi nâng chén, cũng bằng hai tay.

Chúng tôi lẳng lặng thưởng trà như hai nhà ngoại giao đại diện cho hai dân tộc Âu-Á trong một cuộc gặp gỡ vào những thế kỷ đã xa.

– Anh không lấy làm lạ thấy tôi gọi anh bằng đồng chí sao?

Marinet nheo mắt cười qua hơi nước sôi nghi ngút. Hóa ra anh ta biết tiếng Việt. Mà biết không tồi.

– Thú thật, tôi lấy làm lạ – tôi nói – Ở trong tù người ta không gọi nhau như thế. Tôi nghĩ anh chưa rành tiếng Việt.

– Tôi cố ý. Tôi nói có cân nhắc – Marinet nói.

– Thật vậy à?

– Tôi quan sát anh từ khi anh vừa tới trại này. Mọi việc anh làm, nhân cách của anh, kể từ khi anh làm văn hóa trại, đều được chúng tôi theo dõi. – Marinet nhẩn nha giải thích – Và tôi kết luận: anh là một người cộng sản.

Một kết luận kỳ cục, tôi nghĩ.

– Vâng, một người cộng sản – Marinet nói thêm – Như tôi.

Tôi nhìn Marinet, không nói được lời nào.

– Vâng, tôi là đảng viên Đảng cộng sản Trung Quốc.

Tôi còn sửng sốt hơn nữa:

– Anh? Là đảng viên Đảng cộng sản… Trung Quốc?

– Vâng.

– Cả Cố Thủ Chẩu?

– Không, Cố Thủ Chẩu khác – Marinet cười khe khẽ, lắc đầu – Anh ta là người của Khun Sa[1].

– Tôi lại càng không hiểu… – tôi nói – Hoàn toàn không hiểu.

Sao mà cuộc đời lắm chuyện lạ lùng đến thế? Tôi chờ đợi nhìn Marinet. Anh nhẩn nha uống ly trà đặc.

– Người ta nói anh còn là écrivain[2] – Marinet uống xong ly trà rồi mới đủng đỉnh hỏi – Phải vậy không?

– Trước kia cũng có lúc tôi làm công việc viết lách.

Tôi miễn cưỡng xác nhận. Tôi không thích nghe ai nói tới cái tôi trước kia.

Marinet pha tuần trà thứ hai.

– Hôm nay tôi muốn gặp anh chính là để kể cho anh về những cái tôi vừa nói, về cuộc đời tôi… Nếu anh muốn nghe…

Tôi vội vã trả lời:

– Tất nhiên, tôi muốn nghe.

Marinet cười:

– Tôi biết mà, tôi không lầm khi chọn anh để nói về những bí mật của đời tôi. Mà cuộc đời tôi đáng được kể lại… Nó không giống những gì anh đã nghe đâu. Đó là chuyện bịa. Gặp anh tôi mừng lắm. Không phải ai cũng may mắn được gặp một écrivain ở trong tù.

Chao ôi, cuộc đời tôi mới kỳ cục làm sao! Cứ như thể tôi sinh ra chỉ để làm một việc duy nhất là làm nhân chứng cho những sự kiện, đặc biệt là cho những sự kiện không bình thường. Mà những sự kiện không bình thường thì ở trong nhà tù vô số kể. Chẳng hạn như Marinet đây.

Mà Marinet cũng chẳng phải là người nước ngoài đầu tiên tôi gặp trong tù.

Trước Marinet tôi đã gặp một người khác – một thanh niên Triều Tiên. Tôi gặp anh chàng họ Kim này tại Tân Lập, mùa thu năm 1971. Cũng là một dân số lẻ, cũng “boọc”. Lạ lắm. Mà cũng bi thảm lắm. Tôi sẽ kể về anh chàng này sau.

Marinet nói tiếng Việt còn kém, nhưng hiểu tốt. Anh sợ người ta tò mò về anh, thành thử anh chỉ chăm chú nghe mọi người nói rồi quay mặt vào vách mà lẩm bẩm những lời học được ban ngày, người không biết tưởng anh cầu nguyện Chúa. Gặp những từ anh chưa biết, hoặc quên mất, Marinet chêm tiếng Pháp, tiếng Anh vào. Cuộc đối thoại lúc đầu có trục trặc chút ít, nhưng chúng tôi mau chóng tìm được cách hiểu nhau.

Câu chuyện Marinet kể như sau:

Anh là người Trung Quốc tính theo quốc tịch. Nhưng về dòng máu, Marinet là người Hà Lan. Cha của Marinet, một bác sĩ, là con một gia đình trí thức nghèo ở Amsterdam. Ông học nghề thày thuốc theo truyền thống gia đình – cụ nội Marinet làm nghề cứu nhân độ thế, ông nội Marinet nối nghiệp. Có một con trai, cụ cho vào trường y. Ngay sau khi ra trường, cha của Marinet xin đi thực tập tại Trung Quốc. Sở dĩ ông chọn nước này vì ở đây có điều kiện tốt cho một bác sĩ trẻ trưởng thành, có thể mau chóng trở thành bác sĩ lành nghề. Trung Quốc vào đầu thế kỷ XX là một nước lạc hậu, nghèo nàn, luôn có dịch bệnh. Người thày thuốc được điều trị nhiều thì chóng giỏi. Hơn nữa, lương trả cho bác sĩ thực tập ở một bệnh viện Hà Lan tại Thượng Hải, nơi ông phải tới, cao hơn ở các nước khác. Mẹ Marinet người Trung Quốc chính gốc, cũng sinh viên ngành y. Là một thanh niên đầy nhiệt huyết cách mạng, bà lôi kéo người bạn Hà Lan vào những hoạt động của lớp thanh niên thiên tả thuộc thế hệ bà. Họ yêu nhau, rồi cả hai cùng gia nhập Đảng cộng sản. Khi lực lượng cách mạng rời các thành phố duyên hải chuyển vào sâu nội địa, tiếp đến cuộc Vạn lý Trường Chinh lên phía Bắc, đôi vợ chồng trẻ với đứa con năm tuổi đã cùng Mao Trạch Đông, Bành Đức Hoài, Chu Đức vượt qua những gian khổ không kể xiết lên tới tận căn cứ địa Diên An.

Marinet lớn lên trong lòng cuộc cách mạng Trung Quốc. Mẹ anh qua đời vì một cơn bạo bệnh thiếu thuốc chữa. Cha anh suy sụp hẳn sau cái chết của bà. Ông làm việc như một cái xác không hồn. Sau này, lớn lên, Marinet mới tôi biết ông không bao giờ tha thứ cho Đảng của ông về cái chết của vợ. Dường như thuốc để chữa cho mẹ anh lúc bấy giờ có, nhưng nó đã được dùng một cách vô ích cho một trường hợp khác, chỉ vì Mao Trạch Đông muốn biểu diễn sự quan tâm của ông ta tới một đối thủ chính trị.

Marinet trở thành chiến sĩ Hồng quân rất sớm, anh vào Đảng cộng sản Trung Quốc ngay từ khi 17 tuổi. Trung Hoa lục địa hoàn toàn giải phóng, anh được cử đi học một lớp huấn luyện công an và chuyển hẳn sang ngành này. Học xong anh được điều về Quảng Châu, địa đầu của nhiều ngả thông thương giữa Trung Quốc và nước ngoài, phụ trách công tác phản gián. Chính ở đây Marinet gặp Cố Thủ Chẩu.

– Cố Thủ Chẩu người Quảng Châu? – tôi hỏi.

– Không phải. Chính anh ta cũng chẳng biết mình quê ở đâu. Họ Cố là một tay mất gốc. Trông lù đù thế mà, anh biết không, Cố Thủ Chẩu đã lê gót khắp thế giới rồi đấy. Anh ta đã ở trong những khách sạn sang nhất của Washington, New York, Paris…

– Cố Thủ Chẩu làm nghề gì?

– Cố Thủ Chẩu không có nghề. Anh ta là một trong những boss[3] của Tam Giác Vàng, vựa thuốc phiện của thế giới…

– Anh quen Cố Thủ Chẩu ở Quảng Châu?

Marinet chưa kịp trả lời thì Cố Thủ Chẩu trở về. Anh ta cười hể hả, lồm cồm leo lên “nhậm xà” cùng chúng tôi.

Cố Thủ Chẩu được coi là “cải tạo tốt” nhờ tính tình hiền lành và đức cần mẫn. Đã hơn một năm nay anh được Ban Giám thị cho tự giác, trông nom trạm thủy điện. Công việc này nhàn lắm. Trạm thủy điện nhỏ dùng dòng chảy chạy suốt ngày đêm. Người trông trạm chỉ phải đóng mở mấy cái cầu dao cho dòng điện lúc thì chạy máy bơm nước, lúc thì thắp sáng. Trong những ngày nước lũ thì vất vả hơn một chút, phải thức khuya dậy sớm trông nom cái tua-bin và máy phát điện, không để chúng bị trôi đi.

– Tang lói chuện dề? – Cố Thủ Chẩu khề khà hỏi. Anh đặt lên chiếu trước mặt chúng tôi một gói trà “tự biên tự diễn”, có tới ba lạng. – Hôm lay ngộ hên lắm, vớt lờ ngoài suối tược cả kí lô cá, mới sang pên lâm sản tổi xà (đổi trà) ngon về cho các pạn…

– Đang hỏi chuyện hai anh quen nhau thế nào? – tôi nói.

– Quen quen cấy chi! – Cố Thủ Chẩu ngửa mặt cười hắc hắc – Malêlết ló pắt ngộ chớ. Chính cấy thằng lày lày. Pỏ tù a. Hổi cung a. Tủ cả. Malêlết pắn chếch (bắn chết) ngộ lồi lếu ngộ không có cấy hộ chếu Mỹ, phảy thế khôông?

– Bậy nào. Bắn là bắn làm sao?

– Thì pắn pằng cấy tạn (cái đạn) tùng tùng chớ pằng cấy chi. Trung Cộng cố tạn nhều nhều. Người cũng nhều nhều. Pắn không cố tếc (tiếc).

Marinet ở Quảng Châu được ít lâu thì xảy ra tam phản hay ngũ phản chi chi đó, anh kể mà tôi không nhớ. Trong những cuộc thường trực phản như vậy cán bộ cách mạng đều lần lượt bị dính, hết người này tới người khác đi tù, đi học "trường thất ngũ", một thứ trại cải tạo.

Marinet gặp may – qua rất nhiều thứ “phản” anh không hề hấn gì. Đùng một cái, các bạn đồng đội từ thời Diên An đang đêm bí mật đến lôi anh khỏi nhà, bỏ anh lên một chiếc thuyền nhỏ, dùng ca nô hải quân kéo ra hải phận quốc tế. "Đồng chí thấy có tàu thuyền treo cờ nước ngoài thì vẫy họ xin cứu, họ dặn anh. Còn hơn chết trong trại tập trung, mà đồng chí thì chắc chắn bị bắt nếu chúng tôi không đến kịp. Thôi, vĩnh biệt Marinet!"

Lênh đênh trên biển hai tuần liền, Marinet không gọi được một chiếc tàu nước ngoài nào. Anh có nhìn thấy chúng trên đường chân trời, nhưng con thuyền nhỏ bé của anh chỉ là một chấm đen trên mặt biển mênh mông, nên người ta không thấy anh. Nắng như đổ lửa trên đại dương vô vọng. Nhờ những đồng đội thông minh, anh đã không chết khát sau khi lượng nước ngọt dự trữ cạn – trong đám lương khô anh tìm thấy cả một bao tải khoai lang, thứ khoai ngoài tinh bột còn chứa rất nhiều nước ngọt trong củ.

Thế rồi bão nổi, tung lên dìm xuống con thuyền của anh. Nó tơi tả bay lượn trên những ngọn sóng như một cọng rơm. Marinet tỉnh dậy khi chân anh đụng thềm cát của đất liền. Trong cơn u mê anh vẫn còn đủ tỉnh trí để trút bỏ bộ quần áo. Không thể để cho người ta biết anh từ đâu tới trước khi anh biết những người cứu anh là ai. Những người du kích Việt Nam tìm thấy Marinet trong trạng thái trần truồng bất tỉnh trên bờ biển. Họ đưa anh về trụ sở ủy ban xã. Marinet nhận ra chân dung ông Hồ Chí Minh. Anh hiểu anh đang ở đâu. Biết chắc nếu khai thật anh sẽ bị chính quyền Việt Nam trả anh về Trung Quốc ngay lập tức, anh trút nốt cái quần lót trong nhà vệ sinh khi xin đi đại tiện. Nó là vật chứng duy nhất tố cáo anh là người Trung Quốc. Sau đó, có lẽ trong thời kỳ khai cung, anh đã sáng tác ra câu chuyện anh đầu độc bố vợ và bị Chúa phạt.

Anh không ngờ lại gặp Cố Thủ Chẩu trong nhà tù Việt Nam.

– Tôi ngẩn người, không nói được câu nào khi thấy Cố Thủ Chẩu trước cổng trại, đang chăn mấy con trâu.

– Ngộ cũng thế. Ngộ cứ há cấy mồm (há cái mồm).

Cố Thủ Chẩu kể: anh đi ăn cưới em gái một người anh em kết nghĩa ở Thượng Lào. Không thể nào từ chối lời mời của người anh em thân thiết cho được. Họ uống say bí tỉ. Tỉnh dậy, Cố Thủ Chẩu thấy mình bị trói gô. Người anh em kết nghĩa bị bắt về tội làm thổ phỉ. Không biết Cố Thủ Chẩu là ai, người ta buộc anh là thổ phỉ nốt. Cho tiện. Sau đó là các nhà tù Lào, rồi nhà tù Việt Nam.

– Tôi dặn Cố Thủ Chẩu chớ nói với công an Việt Nam tôi là ai.

– Ngộ cũng pảo ló thế – Cố Thủ Chẩu nói – Côông an Vệt Lam ló pết mềnh ở Tam Dác Vàng thì lôi thôi lắm à, rách vệệc nhều nhều.

Tôi hỏi Marinet:

– Công an Việt Nam hoàn toàn không biết tí gì về anh?

– Không. Nếu họ biết tôi đã không còn ngồi đây nói chuyện với anh.

– Và anh dám tin tôi?

Marinet nhún vai.

– Tại sao tôi lại không tin?

– Cảm ơn anh đã tin.

– Tôi phải cảm ơn Chúa đã cho tôi được gặp anh để mà tin.

Marinet ngước mắt nhìn lên cái thập giá và tôi hiểu: người cộng sản Marinet bây giờ tin thật có Chúa Trời.

– Vì sao anh muốn kể cho tôi nghe cuộc đời anh?

Trên mặt Marinet thoảng qua một nụ cười cay đắng.

– Bởi vì tôi biết tôi không còn sống lâu nữa. Tôi muốn kể cho anh nghe về cuộc đời tôi để rồi một lúc nào đó anh kể lại cho người khác.

– Anh nghĩ rằng tôi còn cơ hội để kể lại sao?

Tới năm thứ tám của đời tù tôi gần như không tin mình sẽ còn sống cho tới ngày trở về. Thời hạn ba năm cho một lệnh tập trung cải tạo là thời hạn hình thức, nó chẳng được ai tính đến, trừ thói quen của guồng máy quan liêu, đến ngày thì cho đánh máy thêm một lệnh mới, kéo dài thêm cái lệnh cũ. Tôi là tên tù “xử lý nội bộ”, tức là tên vừa-tù-vừa-không-phải-tù, số phận tôi là do Đảng quyết định, nếu tin vào lời người đứng đầu Ban bảo vệ Đảng. Mặt khác tôi lại là tên tù tập trung cải tạo, có hạn ba năm một, nếu tin lời phổ biến của tên đại úy công an đẹp trai nói cho tôi và Phùng Mỹ. Tất cả cái mớ bòng bong những lời bịp bợm cố tình hoặc dối trá hồn nhiên ấy chẳng có gì đáng tin,

– Tại sao lại không thể nghĩ như thế? – Marinet phản bác – Anh còn trẻ mà.

– Chúng ta đều còn trẻ. Nói cho đúng hơn, chúng ta đang già đi ở đây…

– Nhưng anh sẽ còn sống.

– Anh cũng vậy.

– Không, tôi không sống đến ngày ra khỏi đây đâu, tôi biết. Anh xem này.

Marinet lê ra gần cửa sổ, húng hắng ho rồi khạc vào một tờ giấy. Anh vẫy tôi lại gần. Trên tờ giấy, lẫn trong đờm là những tia máu kéo dài. Anh gập tờ giấy vứt ra ngoài cửa sổ.

– Anh bị lao?

– Rõ ràng là thế.

– Cần phải chữa.

Nghe tôi nói Cố Thủ Chẩu kêu lên bằng một thổ ngữ Trung Quốc lạ tai, nhưng tôi hiểu – anh ta chửi thề. Marinet lườm bạn:

– Này, đừng nói bậy nhá!

– Chỡ, chỡ cấy… tỉu na má! Khám lồi, khám nhều nhều lồi, thằng ê sĩ cho mấy vên thốc ho lồi pảo ti về, ti về.

Marinet cười hiền lành:

– Nhà tù chứ có phải an dưỡng đường đâu. Nơi để chết chứ không phải nơi để sống…

Anh chàng Triều Tiên họ Kim mà tôi nhắc tới ở trên chắc đã chết. Tôi vẫn quan tâm tới anh ta, nhưng không nghe ai nói tới một người Triều Tiên ở trại nào nữa, mặc dầu ở Phong Quang có đủ mặt tù từ các trại khác tới.

Kim đến Tân Lập trong một chuyến tù từ Hà Nội. Những người tù mới chỉ trỏ anh ta cho chúng tôi thấy, khoe với chúng tôi của lạ trong đám họ. Anh chàng Triều Tiên đứng ngẩn ngơ một mình, không biết nói chuyện với ai. Tôi “nỉ hảo”[4] với anh ta bằng tiếng Trung Quốc rồi hỏi có phải anh ta là người Triều Tiên không?

– Tuây![5]

Tôi hiểu. Nhưng vốn liếng tiếng Trung Quốc của tôi đến đấy là hết. May, Kim võ vẽ biết tiếng Nga. Tôi hỏi vì sao anh bị bắt.

– Tôi không hiểu – Kim nói, mặt ngây độn – Tôi không hiểu gì cả. Tại sao người ta lại bắt tôi? Tôi là sinh viên Triều Tiên học ở Bắc Kinh. Tôi yêu Việt Nam. Tôi tình nguyện đi kháng Mỹ viện Việt, chẳng ai nhận tôi cả. Tôi mới đáp tàu hỏa xuống phía Nam, ở đó chắc chắn có đường qua Việt Nam. Tới Ping Seng[6], tôi thấy hàng dãy xe tải chở những ống lớn chờ qua biên giới. Mới chui vào một cái ống, quả nhiên sang được. Đó là những ống dẫn dầu viện trợ cho Việt Nam. Đến Bắc Giang, tôi chui ra. Tôi đi tìm chính quyền Việt Nam xin chiến đấu chống Mỹ thì bị bắt…

– Người ta không tin?

– Họ chẳng nói gì hết. Cho ăn, cho uống. Bảo sẽ kiểm tra việc này. Họ hỏi sứ quán nước tôi tại Hà Nội…

– Sứ quán trả lời ra sao?

– Qua lời anh phiên dịch thì hình như sứ quán nói: ở Triều Tiên không có những công dân vô kỷ luật, tùy các đồng chí Việt Nam xử lý. Thế là tôi bị tù.

– Anh phản đối chứ?

– Tôi phản đối. Họ bảo: hãy yên tâm, cứ ở tạm đây đã để người ta còn điều tra thêm.

Kim thở dài.

Không hiểu sao lúc ấy trong tôi lại nảy ra một ý nghĩ đùa cợt, bây giờ nghĩ lại thấy thật là ác.

– Anh Kim à – tôi nói – Tôi nghĩ anh bị tình nghi về một tội khác… Mà người ta không nói ra với anh.

– Tội gì? Tôi đã khai thực với họ: tôi chỉ muốn tham gia chống Mỹ cùng với nhân dân Việt Nam.

Tôi làm bộ suy nghĩ một lát.

– Có thể, người ta nghi anh là gián điệp.

– Bozhe moy![7] Tại sao người ta có thể nghĩ bậy thế được! Tôi mà làm gián điệp cho Mỹ sao?

– Chắc anh biết một trong những thế mạnh của nền xuất khẩu Triều Tiên là nhân sâm, jinseng…

– Đúng!

– Việt Nam cũng có một thứ jinseng – tôi hạ giọng, thì thầm – Chỉ có nó mới cạnh tranh được với jinseng Triều Tiên, và nhà nước Việt Nam rất bảo vệ bí mật ginseng của mình…

– Chà!

– Có phải jinseng Triều Tiên to chừng này không? – tôi chìa ngón tay cái – Ít có củ to hơn.

– Phải. Một củ và hai hoặc ba chẽ.

– Anh chờ một lát sẽ thấy jinseng Việt Nam lớn đến thế nào!

Khi những đội nông nghiệp kìn kìn gánh sắn thu hoạch về cho nhà bếp thì Kim trợn tròn mắt, kêu lên mấy thán từ bằng tiếng Triều Tiên mà tôi không hiểu.

Tối hôm đó, tôi tưởng anh chàng Triều Tiên sau khi đã được đứng lẫn với tù Việt Nam thì sẽ được đưa vào một toán số lẻ nào đó, nhưng không phải. Anh ta bị biệt giam trong một xà lim kỷ luật. Ban đêm tôi nghe tiếng Kim đập phá, la hét cho tới tận sáng. Mấy ngày kế tiếp cũng vậy. Rồi khu biệt giam im lặng hoàn toàn – anh ta đã được đưa đi nơi khác, hoặc đã chết.

Marinet nói:

– Anh hứa sẽ viết về cuộc đời tôi chứ?

– Nếu tôi còn sống.

Marinet đưa tay ra, buộc tôi phải ký kết giao ước vừa thỏa thuận với nhau bằng cái bắt tay chặt.

– Chủ nghĩa lãng mạn giết chết con người chẳng kém gì dịch hạch. – Marinet trầm ngâm – Anh thử nghĩ mà xem: có biết bao nhiêu người đã thành tâm đi theo chủ nghĩa cộng sản và trở thành nạn nhân của nó?

Tôi nghĩ tới Kim. Trường hợp của Marinet, của tôi, còn phải lý giải dài dài, nhưng trường hợp của Kim thật rõ ràng.

Chủ nghĩa lãng mạn không phải chỉ có mặt trong những bi kịch có dính líu tới chủ nghĩa cộng sản. Một tù nhân chính trị mà tôi gặp ở Phong Quang còn làm cho tôi sửng sốt hơn bởi lòng yêu nước kỳ lạ trong anh ta. Là một thanh niên nông dân, trình độ học vấn chỉ khoảng lớp bốn lớp năm, Phong rơi vào tù (cũng không có án xử) do những bức thư gửi cho Trung ương Đảng, trong đó anh ta lên án các bậc chèo lái quốc gia mời quân Trung Quốc vào Việt Nam là "cõng rắn cắn gà nhà". Để bàn về chuyện đúng sai trong việc này còn phải mất nhiều giấy mực, nhưng điều không phải bàn là lòng yêu nước trong anh ta.

Phong không có chân trong bất kỳ đảng phái "phản động" nào, cũng không giáo điều hoặc xét lại – anh ta chỉ có trần trụi một lòng yêu nước chẳng cần biết đến đúng sai.

Lòng yêu nước này có thể gọi là cực đoan hay mù quáng là tùy ở mỗi người, nhưng nó gợi lên trong tôi sự kính trọng. Mà không phải chỉ trong tôi.

Một hôm trung úy Bưởi mời tôi tới phòng giáo dục rồi đưa cho tôi một tập hồ sơ.

– Anh đọc đi.

Đó là những bức thư Phong gửi Trung ương Đảng. Không phải những bức thư đã đưa anh ta vào tù, mà những bức thư kế tiếp, vừa mới viết, những bức thư nằm trong tiêu chuẩn hiếm hoi mà người tù được phép gửi ra ngoài. "Tôi kêu gọi các người hãy tỉnh lại, đừng mơ hồ với mưu toan bành trướng của Trung Quốc. – một bức thư viết – Tham vọng mở mang bờ cõi của họ tổ tiên ta đã biết từ lâu. Nếu con cháu không nghe lời để chúng xâm lấn đất đai tổ tiên một lần nữa thì tội ấy ngàn đời không rửa sạch… " Trong một bức thư khác Phong dọa Trung ương Đảng rằng lịch sử sẽ không tha thứ cho họ, nếu như họ ngoan cố kết liên với kẻ thù truyền kiếp để mang họa cho đất nước.

– Anh này thậm chí nhịn đói chứ không ăn cơm nấu bằng gạo Trung Quốc viện trợ.

– Tôi cũng có nghe chuyện này. Những ngày trại ăn gạo Trung Quốc anh ta ăn sắn mót trên nương.

Bưởi lắc đầu buồn bã.

– Anh muốn nghe ý kiến gì ở tôi? – tôi hỏi Bưởi.

– Tôi muốn hỏi anh: nếu ở địa vị tôi anh sẽ xử trí với những bức thư này như thế nào?

– Tôi có thể không đồng ý cách nhìn bất biến của anh ta với Trung Quốc cũng như với bất cứ kẻ thù cũ nào – tôi nói chậm, tìm những lời lẽ không thể bắt bẻ được – Lịch sử là lịch sử. Nếu dân tộc Chàm nhìn người Kinh hiện nay như kẻ thù thì sẽ ra sao[8]? Tôi không nói anh ta sai trong cách nhìn nhận cụ thể đối với Trung Quốc hiện tại. Hình như cách nhìn Trung Quốc của Đảng năm nay, 1974, cũng đã thay đổi so với năm 1964…

Trung thành với nghề nghiệp, Bưởi nín lặng. Qua báo Nhân dân là tờ báo duy nhất tù được đọc, tôi nhận thấy giọng tờ báo không còn nồng nàn đối với Trung Quốc như hồi ban lãnh đạo Đảng dưới sự lãnh đạo của ông bẻ ghi Lê Duẩn còn hào hứng thấy "trung tâm cách mạng đã chuyển về phương Đông".

– Điều rõ ràng là những bức thư này được viết ra dưới sự thôi thúc của lòng yêu nước – tôi kết luận – còn yêu theo cách nào là chuyện khác, tôi không bàn đến.

– Nếu những bức thư này được đính thêm vào hồ sơ anh ta, chắc chắn anh ta sẽ còn ở tù còn lâu… – Bưởi nói – Theo anh, ta nên làm gì với những bức thư này?

– Tôi nghĩ chúng chẳng có ích gì, tức là tôi muốn nói, chẳng thay đổi được gì trong đường lối của Đảng nếu nó được gửi tới đúng địa chỉ…

– Chính vì vậy mà tôi đã không gửi.

– Anh nên đốt đi – tôi khuyên Bưởi – Đó có lẽ là cách tốt nhất, nếu ta còn biết kính trọng lòng yêu nước của một con người.

Bưởi đưa cho tôi cái bật lửa.

– Anh đốt hộ tôi.

Tôi ra đầu hồi châm lửa vào mấy bức thư. Chúng cháy cong queo, tàn bay lả tả trong gió. Tôi hiểu vì sao Bưởi không tự tay đốt những bức thư. Chẳng phải Bưởi sợ cái gì. Chẳng qua anh ta muốn tôi thấy anh ta tin tôi tới mức nào.

Marinet mỗi ngày một yếu. Tôi không có cách nào cứu anh. Tôi viết một bức thư về cho vợ tôi, bảo vợ tôi tới bác sĩ Hoài nhờ anh kiếm thuốc chữa lao gửi lên cho tôi. Tôi hơi ngần ngại khi viết bức thư này, sợ vợ tôi tưởng tôi bị lao. Nhưng bức thư không có hồi âm. Người đi tiếp tế mà Cố Thủ Chẩu nhờ chuyển thư đã không chuyển.

Marinet bảo tôi:

– Đừng lo lắng cho tôi, đồng chí! Tôi đã cố gắng vật lộn với cái bệnh khốn kiếp này, nhưng xem ra không ăn thua. Tôi đã nuốt cả những con thạch thùng sống theo lời khuyên của những người tù già, họ nói đó là bài thuốc dân gian cổ truyền. Tôi đã ăn những con giun, nghe nói chúng làm tăng sức đề kháng. Có người còn bảo tôi nướng những con gì giống con cóc nhưng bụng rất to mà da nhẵn thín, tôi ăn và nôn mửa gần chết… Tất cả đều vô ích. Tốt nhất là thỉnh thoảng chúng ta kiếm cách gặp nhau để tôi có thể kể thêm cho đồng chí về cuộc đời tôi và về số phận những người cộng sản Trung Quốc. Biết đâu đấy, đồng chí lại chẳng cho người đọc biết thêm một chút gì bên trong bức màn sắt của Trung Quốc bao la đầy bi kịch…

Tôi đã không viết gì hết sau khi ra khỏi nhà tù. Tôi sợ. Và cũng vì tôi không thích sự nửa vời. Nếu viết thì tôi phải viết tất cả những gì tôi nghĩ. Những người Trung Quốc dũng cảm đã làm việc đó hơn hẳn người Việt Nam. Thế giới được biết những việc xảy ra ở Trung Quốc nhiều hơn hẳn những gì xảy ra ở Việt Nam. Việt Nam, xét cho cùng, là một quốc gia nhỏ bé. Người ta không biết đến cũng phải.

Tôi cũng đã không viết về cuộc đời của ông già Bát. Ông ở cùng đội với tôi, nhưng giống như những người tù số lẻ khác, ông lầm lì và không thích nói tới nguyên nhân dẫn ông vào tù. Cái sự vào tù một cách dớ dẩn, chẳng ra đâu vào đâu, tưởng chừng chỉ riêng kẻ bắt người bỏ tù oan phải xấu hổ, hóa ra nó còn làm cho cả người bị tù oan cũng cảm thấy ngượng ngùng, mới lạ. Cứ như thể họ không xứng đáng với danh hiệu tù chính trị bị khoác cho một cách bất đắc dĩ, như thể họ là kẻ nhận vơ, mà nhận vơ cái không phải của mình là sự rất đáng chê cười.

Tôi thường chọn một góc vắng ngồi đan tranh cùng ông trong thời kỳ trại sơ tán vào rừng để tránh máy bay Mỹ. Ngồi với ông thú vị ở chỗ mình có thể tha hồ suy nghĩ mà không bị cản trở – ông lão cậy miệng cũng chẳng nói một câu. Tán lá rừng xòe ra, đan kết với nhau, làm thành một tấm che khổng lồ, chỉ ở phía dưới là thoáng đãng, lác đác từng nhóm tù ngồi cặm cụi đan lát. Một anh lính canh ôm súng nhìn bao quát tất cả, canh chừng. Những người tù số lẻ hiền lành, chẳng bao giờ trốn, đôi khi anh lính tự cho phép mình gà gật một lát hoặc kê một vật phẳng lên đùi cặm cụi viết thư về nhà. Cái đời lính đóng trên vùng sơn cước, xét cho cùng, chẳng khác đời tù là mấy. Cũng sáng dậy đi làm, tối về chui vào màn. Không vợ con, không bếp lửa gia đình.

Một hôm, ông Bát đang đan tranh bỗng nổi khùng. Ông vứt toẹt con dao xuống đất, ngồi thừ ra, không thèm đan nữa. Rồi hai hàng nước mắt lã chã, ông vật vã ngiêng ngả như lên đồng, miệng lẩm bẩm xuýt xoa những tiếng vừa run rẩy, vừa luống cuống, nghe não lòng lắm, như trong một cơn đau đến mức không nói được.

Tôi cuống lên, chồm tới bên ông:

– Bác làm sao thế?

Ông không trả lời mà chỉ lắc đầu rền rĩ:

– Ối giời cao đất dày ôi! Tôi đau quá, đau quá, ông ơi! Sao cái số kiếp tôi khổ thế này hở giời?!

Tôi hiểu. Ông không lên cơn đau bệnh, mà lên cơn đau lòng. Tôi đã vài lần chứng kiến cảnh tương tự. Những người tù đang yên lành bỗng nổi cơn điên, chửi bới, đập phá lung tung. Công an sầm sập chạy vào, trói tay trói chân, nhét giẻ vào miệng, sai trật tự khiêng đi. Sau mấy ngày nằm xà lim kỷ luật họ trở ra, mặt mũi phờ phạc, cái nhìn vô cảm, bước chân đờ đẫn, đi mà như không đi.

Anh lính canh khoác súng lên vai đủng đỉnh bước lại:

– Ê, hai anh kia, mần đi chớ!

– Bác ấy bị trúng gió. – tôi nói.

Anh lính nheo mắt nhìn ông già vật vã trên đống tranh, nói nhẹ nhàng:

– Rứa nghỉ đi chút. Tôi có hộp dầu xoa đây.

Anh lục túi, đưa cho tôi hộp dầu cao.

Tôi đỡ lấy, cảm ơn anh lính tốt bụng. Không phải anh lính canh nào cũng được như anh. Nhưng có thứ dầu nào xoa dịu được nỗi đau trong lòng ông bạn già của tôi lúc này? Tôi ôm lấy ông Bát trong vòng tay, đung đưa ông như ru đứa trẻ. Ông nhẹ bỗng, không thể tưởng tượng nổi ông già có thể nhẹ như thế. Trông bề ngoài ông cũng không đến nỗi nào. Có lẽ những tấm áo bông mặc đắp lên nhau làm cho tôi có cảm giác ông to hơn, nặng hơn.

Ông choàng tay ôm lấy tôi:

– Đời tôi khổ lắm, ông ơi!

– Chúng mình ở đây có ai sướng đâu!

– Nhưng tôi khổ hơn cả. Người ta còn có tội, chứ tôi thì tội tình gì đâu!

– Cũng nhiều người không có tội đấy.

– Ông nghe tôi nói này – ông thì thào – Ông chớ có tin chúng nó. Đám số lẻ này toàn chống chế độ cả đấy! Chúng nó phản động cả đấy. Không oan đâu. Tôi ở tù lâu, tôi biết. ông thì không, ông cũng như tôi…

Tôi cười buồn:

– Tôi cũng chống chế độ đấy. Người ta bảo thế.

– Người ta nói mặc người ta! Mình biết mình – không là không!

– Bác làm sao bị bắt?

Ông già nấc lên từng chặp.

– Tôi theo cách mạng cướp chính quyền, cũng đã làm thôn đội rồi xã đội một hồi kháng chiến chống Pháp… Tôi theo cụ Hồ…

– Thì vẫn…

– Sao, ông không tin hở?

– Tôi tin chứ.

Ông rền rĩ:

– Sau, hòa bình lập lại rồi, tôi nghỉ. Tôi nghĩ mình làm đủ phận sự rồi, giờ để người khác làm. Thế là mọi sự khốn khó bắt đầu…

– Người ta bảo bác bất mãn?

– Không. Nhưng ở chế độ ta không làm cán bộ nữa là hết, thì người ta không tin mình nữa, không còn coi trọng mình nữa. Mà làm dân thì, ối giời ơi, khổ lắm, khổ đủ đường, khổ từ đời cha xuống đời con, ông chắc cũng biết, có cần kể cho ông nghe không?

– Không cần.

– Cho nên các cháu nhà tôi đều nhao đi làm cán bộ. Thằng cả chưa đủ tuổi xung phong đi bộ đội. Con bé sau nó xin làm chân văn thư cho ủy ban xã không được, xin làm công an xã. Rồi nó được cảm tình Đảng[9]

– Tiến bộ quá!

– Tiến bộ cái con mẹ nó, tiến bộ cái nỗi gì? Con bé nhà tôi năm nay hăm nhăm rồi. Vẫn chưa chồng. Khốn nạn, nó xinh, ông ạ. Mắt đen lay láy, mà nhanh lắm. Má lúm đồng tiền. Da cứ trắng hồng. Nó trông mẹ nó, như lột.

Ông nấc lên, kéo vạt áo lau mắt.

– Cô ấy làm sao?

– Chẳng làm sao cả. – ông mếu máo – Thằng công an xã, chi ủy viên, cứ gọi nó đi hội ý hội báo, bồi dưỡng… Rồi con bé nhà tôi phễnh bụng ra.

-…

Câu chuyện của ông Bát không ly kỳ. Nó là chuyện thường. Ở đâu cũng có. Mà có nhiều.

– Tôi phẫn chí. Chưa ai biết cả, nhưng bà nhà tôi biết, tôi biết. Tôi uống rượu, say rồi, tôi mới chửi cha chúng nó lên, tôi mới chửi cả lò nhà chúng nó…

– Chết thật!

– Đến khi làng phong phanh biết con tôi chửa hoang, thì tôi chửi cả cái Đảng của chúng nó…

– Chậc chậc, khiếp quá! Sao bác dại thế?

– Không chửi để cho chúng nó muốn làm gì thì làm à? Đảng gì mà họp thì thọt, bồi dưỡng cảm tình đảng gì mà cứ tối đến mới í ới gọi nhau đi bồi dưỡng, bồi dưỡng cái mả cha chúng bay à?!

Bị chửi quá, bí thư xã, chủ tịch xã vội vã cho con gái ông đi dự lớp huấn luyện, kỳ thực là đi lên tỉnh, vào nhà thương để phá thai. Ông đoán ra, rồi ông biết, ông cấm con gái ông phá. Cái thai nó tội tình gì? Nó cũng là một con người chứ. Nó chưa ra đời. Nó chưa làm hại ai. Nó không như cái quân chó dái chạy nhông, quân ăn cứt uống đái làm hại đồng bào. Con kia, tao truyền đời báo danh cho mày biết: không được phá, cứ đẻ, xấu thì đã xấu rồi, cháu tao tao nuôi, giết cái thai trong bụng là bất nhân, là vô đạo… Ông bảo thế. Ông trói con ông vào chân giường mà dạy. Nhưng con ông xấu hổ, nó không chịu nghe ông, nó cứ đi phá thai, lẻn ông mà đi. Ông uống rượu nhiều hơn nữa, chửi dữ hơn nữa.

Tóm lại, ông Bát chửi sướng miệng thì thôi. Còn những đứa bị ông chửi thì thù ông mục mả. Trưởng công an xã báo cáo công an huyện. Công an huyện lập hồ sơ. Cứ mỗi lần ông Bát chửi là một lần công an xã báo cáo, cứ mỗi lần báo cáo được gửi lên huyện là hồ sơ tên phản động Nguyễn Thái Bát lại dày thêm một chút. Cho tới ngày người ta quyết định bắt ông đi cải tạo về tội "tuyên truyền phản động, chống Đảng, chống chế độ".

Tôi dửng dưng. Những câu chuyện tương tự nghe nhiều, đâm ngán.

– Tôi kể cho ông nghe để ông là nhà văn ông nhớ lấy, ông kể cho mọi người biết. Đừng nói đến tên tôi là được rồi, kẻo tội cháu. Nó còn lấy chồng.

Ông Bát dặn tôi thế.

– Nhà văn gì tôi! – tôi ậm ừ – Ở nước ta cứ viết dăm bài báo là người ta bốc nhau lên, gọi là nhà văn rồi.

– Thì ông đưa lên báo cũng được.

– Biết bao giờ tôi về? Tôi cũng như bác thôi, cũng án cao su cả…

Ông thở dài:

– Ừ nhẩy!

– Mà giá có ra được, viết thế lại đi tù nữa, tôi ngán lắm rồi!

Ông không nói gì nữa.

Ông chết vào ngày Quốc Khánh, cái ông Bát đã đi cướp chính quyền năm bốn lăm. Ông đã ốm liệt trước đó gần một tháng, được trại cho đi nằm bệnh xá. Nằm được một tuần ông nằng nặc đòi về đội. Người ông phù thũng, trong ra, như một con búp bê sứt sẹo chứa đầy nước. Trại cũng không bắt ông đi làm lao động nữa, cho ông ở nhà. Hàng ngày ông ra đầu hè ngồi sưởi nắng, bắt rận.

Hai ngày trước khi chết ông không dậy, cứ nằm thiêm thiếp. Ông chỉ tỉnh lại khi nghe tiếng dao thớt ầm ĩ phía nhà bếp vọng lại. Ông mở mắt ra, vẫy tôi lại gần rồi thều thào bảo tôi:

– Ông xem giúp chúng nó chia có đều không?

Tôi nể ông, giả vờ ra ngoài, chỗ tù đang xúm đông xúm đỏ chia thịt. Nhưng tôi chỉ đứng đó, chứ chẳng buồn nhìn. Tôi biết ông Bát chẳng còn sống được bao lâu. Không hiểu sao ông còn quan tâm tới suất thịt đến thế? Mà có theo dõi hộ ông cũng vô ích. Tôi đã kể, tù số lẻ chia theo kiểu quay mặt đặt tên, nói chung là rất công bằng, hơn kém nhau không đáng kể. Vả lại, cảnh tượng những con người đói khổ hau háu theo dõi những miếng thịt tí xíu được đặt vào những cái bát sứt sẹo trông thảm lắm, tôi không muốn nhìn.

Cuộc chia thịt đã xong, ông bạn nằm cạnh ông Bát mang cái tô tráng men có ba miếng thịt to bằng ba quân cờ với bát canh sắn sền sệt – khẩu phần của ông Bát – đến bên ông. Ông Bát đang khò khè, ngửi thấy hơi thịt là tỉnh hẳn.

– Phần ông đây! – ông bạn ông Bát nói – Dậy mà ăn đi. Ngon lắm!

– Tôi xem cho bác rồi. Chia đều. – tôi nói chêm vào – Suất của bác có phần còn nhỉnh hơn các suất khác kia đấy. Bác cố dậy mà ăn kẻo nguội.

Ông gật đầu, hoặc tôi nghĩ rằng ông gật đầu. Ông cố gắng chống hai tay để ngồi lên, nhưng ngồi không được, ông ngã xuống. Cố thêm một lần nữa cũng không được, ông nghển cổ ngó vào bát thịt một cái rồi nói:

– Thịt rang à? Tí nữa tôi ăn.

Ông nằm xuống và “đi” ngay. Người ta nói thế. Tôi không có mặt lúc ông Bát “đi”. Lúc tôi ra ngoài sân, ông ngủ thiêm thiếp. Hoặc ông đã “đi” mà tôi tưởng ông ngủ.

Anh em tù ăn xong, vào tận chỗ ngó ông, mặt buồn rầu.

Không ai nói câu nào. Như thế gọi là viếng.

Suất cơm của ông để chỏng chơ. Mọi người bảo cứ để đó, khi chôn thì đặt nó lên mộ ông thay cho bát cơm quả trứng.

Xác ông được đưa xuống trạm xá chờ cán bộ trại mang hồ sơ xuống xác nhận chính là tên phản động Nguyễn Thái Bát đã chết chứ không phải tên nào khác.

Khi cửa các phòng giam đã khóa lại rồi, tôi cứ ngồi bên cửa sổ mà nhìn về phía trạm xá. Trời tối hẳn mới thấy nghe tiếng búa nện chan chát trên ván thiên – dấu chấm hết cho một kiếp người. Rồi quan tài được khiêng ra dưới ánh sáng của một bó đuốc. Đi lững thững sau quan tài là một anh công an mang AK.

Không thấy suất ăn tươi của ông đâu. Chắc hẳn ai đó trong những người đào huyệt tiếc của giời đã ăn rồi. Còn hai cái bát của ông họ sẽ đánh rửa sạch sẽ lại rồi đem “chác” cho tù mới.

Thay lời nói cuối

Chương này chỉ là mấy dòng ghi chép lộn xộn về số phận của một số nhân vật được nói tới ở trên. Nó được viết thêm do lời nhắc của bạn bè đã đọc bản thảo cuốn sách muốn biết thêm những gì tiếp theo, nằm ngoài những hồi tưởng.

Tôi rời Phong Quang ngày 7 tháng Chín năm 1976.

Cuộc giã biệt đời tù của tôi, trái với hình dung thông thường, diễn ra không êm ả.

Chuyện thế này. Theo lệ, người tù ra trại (tức là được tha, mãn hạn hoặc không có hạn để mà mãn) phải viết một bản nhận tội, một bản cam đoan không tái phạm, không tiết lộ bí mật của trại giam. Bản nhận tội, bản cam đoan đã được soạn sẵn thành mẫu, chỉ việc chép lại, ký tên, là xong. Tù được tha làm cái roẹt, nộp Ban Giám thị rồi cuốn xéo. Không ai nấn ná thêm một phút.

Không hiểu sao mà đúng cái thời khắc sung sướng nhất đời tù tôi lại nổi điên, nhất định không chịu làm cái việc đối với mọi người chỉ có giá trị hình thức ấy. Tôi nói với những cán bộ bàn giấy của trại giam rằng tôi sẵn sàng ở tù thêm, ở bao lâu nữa cũng được, nhưng tôi sẽ chờ cho tới khi việc giam giữ tôi được làm cho sáng tỏ. Tôi nói: tôi không có tội. Mà đã không có tội thì không thể nhận tội được.

Nhùng nhằng một hồi, người ta hỏi nhau, chụm đầu lại bàn tán, rồi chạy đi thỉnh thị cấp trên. Viên phó giám thị đến, gãi đầu suy nghĩ, rồi rủ tôi về phòng anh uống trà. Đó là một anh công an đã đứng tuổi, tốt bụng, dễ thương, được tù mến. "Chúng tôi chẳng qua chỉ là một thứ thủ kho thôi, anh ạ. Lệnh trên bảo nhập thì chúng tôi cho hàng vào, lệnh trên bảo xuất thì tôi cho hàng ra – anh phân trần, giọng phiền não – Trên lệnh xuống bảo xuất mà anh không chịu ra thì chỉ khổ mấy thằng tôi thôi. Ai biết các ông ấy tính cái gì, mình không thực hiện được việc các ông ấy bảo làm, thì rồi ra các ông ấy hỏi han, kiểm điểm, rắc rối lắm"…

Tôi nhìn anh ái ngại. Tôi thông cảm với anh trong hoàn cảnh khó xử. Trong thâm tâm, tôi mến anh. Anh đối xử với tôi tử tế.Mấy hôm trước chính anh chạy vào trại ra hiệu gọi tôi ra một chỗ vắng rồi thì thào báo có tin đồn Mao sắp chết: "Anh được về đến nơi rồi! – anh nói, giọng hồ hởi, vui vẻ – Mao chết là xong hết". Tôi bảo anh: "Chớ vội mừng. Con cháu Mao đông lắm!".

Trà thuốc xong, chúng tôi thỏa thuận với nhau mỗi bên nhân nhượng một ít. Tôi ra về không viết bản nhận tội nữa, anh làm thế nào thì làm, tự anh phải xoay xỏa, tìm cách mà chống đỡ với trên. Nhưng đổi lại, tôi phải nhận tờ Lệnh Tạm Tha, trong đó tội của tôi được ghi rõ rành rành là "phản động chống chế độ"..

Cái Lệnh Tạm Tha tôi giữ được hơn một tuần. Anh công an khu vực, lại cũng một chàng trai dễ thương nốt, đến hỏi thăm tôi, đòi xem, xem xong anh ta nhét luôn vào xà-cột, bảo để làm chứng từ gốc cho việc nhập hộ khẩu sau này. Anh Hoàng Minh Chính tiếc mãi: "Bằng ấy anh em, mỗi mình cậu nắm được tờ giấy quý như thế làm bằng mà để xổng mất. Tài liệu lịch sử đấy!".

Đúng là chỉ mình tôi có tờ giấy như thế, anh em khác chỉ được công an đọc cho nghe chứ không cho giữ. Tiếc thật! Nhưng nếu nhà cầm quyền đã quyết không thích chúng tôi giữ nó trong tay thì họ chẳng thiếu gì cách, tôi nghĩ. Mà đúng thế. Lũ đệ tử ruột của Duẩn-Thọ, những Trần Trọng Tân, Đào Duy Tùng, Nguyễn Đức Bình… về sau này, khi Duẩn-Thọ băng hà hết cả rồi, vẫn lấp liếm vụ án chúng tôi bằng đủ mọi giọng lưỡi trí trá, mặc kệ thiên hạ, dù biết thừa rằng thiên hạ chẳng tin. Tôi có giữ được tờ giấy ấy cho tới bây giờ thì đám ấy cũng chẳng lấy làm ngại. Ai chứ họ thì dám xưng xưng bảo rằng giấy giả lắm. Tôi cũng không nghĩ ra phải giữ nó làm bằng cớ, hoặc làm kỷ niệm. Ý nghĩ ấy không đến với tôi, đơn giản là như vậy. Vả lại, hồi ấy Hà Nội chưa có tiệm photocopy nào. Chụp ảnh lại cũng nhiêu khê lắm. Tôi không có máy ảnh, đưa đi chụp chắc chẳng tiệm ảnh nào dám chụp thứ giấy tờ kiểu như thế. Với tinh thần cảnh giác bảo vệ nồi cơm họ sẽ lễ phép hỏi tôi chụp nó để làm gì, nhằm mục đích gì?

Thế là vật chứng cuối cùng và duy nhất về vụ "nhóm xét lại chống Đảng" mất tiêu. Giờ thậm chí người ta có chối băng rằng chúng tôi không hề bị giam giữ cũng được. Có lệnh tống giam tống giếc gì đâu. Được cái nhà cầm quyền không đến nỗi mặt trơ trán bóng quá. Họ tránh không nói tới chuyện họ đã bỏ tù chúng tôi, quả có vậy, nhưng họ cũng không chối rằng không. Khi cần dằn mặt, họ khéo léo nhắc chúng tôi chớ quên chúng tôi là kẻ đã có “tiền sự”. Kẻ có “tiền sự” trong xã hội do họ cai trị chỉ khác kẻ có “tiền án” như con vện khác với con mực ở bộ lông.

Ngày rằm Tháng Tám năm ấy gia đình chúng tôi ăn bữa cơm đoàn tụ đầu tiên sau chín năm mỗi người mỗi ngả. Cha tôi cũng đã được trở về Hà Nội sau ba năm lưu đầy ở Nam Định. Ông già xọm, da bọc xương. Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Trường Chinh, Trần Quốc Hoàn nhìn thấy ông lúc này chắc hả dạ. Mẹ tôi vẫn lúc trên nhà lúc dưới bếp, tất tả đủ việc, y như trong ngôi nhà chưa hề có bão táp đi qua. Con gái út tôi đứng từ xa quan sát tôi, chào tôi bằng chú. Sau khi so kỹ bức ảnh tôi chụp với vợ con trước khi bị bắt với người vừa từ nhà tù trở về, tin rằng con người gày còm xa lạ kia chính là bố nó, nó mới bắt đầu ngượng nghịu gọi tôi bằng bố. Vợ tôi xanh xao, các con tôi võ vàng trong quần áo vá chằng vá đụp.

Tôi được tha có điều kiện: Bộ Nội Vụ báo cho gia đình tôi biết Đảng chủ trương tha tôi rồi, nhưng phải có một cơ quan nhận tôi vào làm thì mới cho tôi về. Mẹ tôi, vợ tôi, cả nhà tôi nhờ hết người này tới người khác, chạy vạy khắp nơi để kiếm cho tôi một chỗ làm. Cái điều kiện Đảng ra khó quá, oái oăm quá – chẳng ai dại gì nhận một tên chống Đảng về cơ quan, xí nghiệp mình. Rách việc lắm. Không dưng lại bị công an theo dõi. Thời buổi thì khó khăn, trong mọi việc làm ai cũng phải sai một tí để mà sống, cái gì cũng làm đúng chính sách thì chết nhăn răng. Thế mà rồi cũng có người dám nhận, mới quý. Tôi được thả ra, nhưng không phải thả về nguyên quán, mà về Công ty cung ứng vật liệu xây dựng Hà-Sơn-Bình. Tiếng là tôi được nhận về công ty làm chân bốc vác (cái hợp đồng tạm tuyển làm công nhân bốc vác đến nay tôi còn giữ được), nhưng các anh lãnh đạo công ty không cho tôi đi bốc vác lấy một buổi, giữ tôi ở văn phòng công ty gọi là để giúp việc ban giám đốc.

Về mặt chính trị, cái xã hội từ đó tôi rơi vào tù, với cái xã hội khi tôi bước ra khỏi chốn ấy không có gì khác. Vẫn thể chế ấy, vẫn những gương mặt ấy, với ít nhiều chính sách bề ngoài có vẻ khác, được cải biến chút ít, tựu trung nó vẫn là nó.

Sau chín năm tù của tôi, cuộc sống có nhiều biến đổi. Bạn bè người mất người còn. Nhiều cháu khi tôi ở ngoài còn đánh khăng đánh đáo nay đã thành liệt sĩ, đến thăm gia đình bạn chỉ thấy cháu từ trên ban thờ hờ hững ngó mình.

Chiến thắng 1975 làm cho chế độ chuyên chế được củng cố, càng thêm khắc nghiệt. Những vị cầm cân nảy mực ở thượng tầng quyền lực tha hồ tự tung tự tác – những chính sách mới thay nhau ra đời, không cần giải thích. Người ta hô hào triệt tận gốc mọi biểu hiện tư bản, cấm đoán mọi thứ có dính dấp tới buôn bán: ra chỉ thị đánh những người dám xây nhà hơn hai tầng, ngăn sông cấm chợ giữa các vùng, các tỉnh, đủ kiểu.

Anh Nguyễn Trọng Luật đã qua đời mấy năm trước, tôi ở trong tù không được tin. Thành thử cái dự định ôm ấp mãi rằng khi trở về thể nào tôi cũng phải đến thăm anh không thành. Chị và các cháu vẫn ở ngõ Chân Cầm, cuộc sống vẫn đạm bạc như khi anh còn sống. Chị nói anh chẳng để lại gì cho vợ con. Tôi an ủi chị, rằng theo chỗ tôi biết thì những người cách mạng chân chính khi chết đều chẳng để lại gì cho những người thân. Trừ lòng kính trọng của người đời. Thế đã là nhiều lắm rồi, đã quý lắm rồi. Tôi đạp xe đi Văn Điển thăm mộ anh, cùng với bác sĩ Hoài. Hoài cho biết trước khi chết anh Luật thường nhắc đến tôi. Anh buồn, nói rằng anh là người thua cuộc, nhưng thua trong canh bạc bịp vĩ đại với một bande des grand salauds[10] thì cũng chẳng xấu hổ cho lắm. Anh được chôn ở Khu A, khu "vĩnh viễn", là khu không phải cải táng để rời đi nơi khác. Chúng tôi thắp hương cho anh và cho những ngôi mộ gần đấy, của những người đáng kính và của cả những người không đáng kính bao nhiêu.

Tôi được bác sĩ Hoài và anh Đích nhiệt tình giúp đỡ trong việc điều trị cấp tốc những bệnh mạn tính đeo đẳng theo tôi từ nhà tù. Anh Đích không trách tôi một câu về vụ tôi khuyên anh trở lại công tác để bị thải hồi. Bạn bè mang tới cho tôi số quần áo đủ dùng ít nhất cũng hai mươi năm, đến nỗi tôi phải mang cho bớt các bạn nghèo hơn. Tuy tôi vừa ở tù ra, nhưng số bạn còn nghèo hơn tôi trong tình trạng đó hóa ra cũng không ít.

Hà Nội còn tiêu điều hơn khi tôi chưa bị bắt. Người ta vẫn nháo nhác đi Nam, "miền Nam nhận họ, miền Bắc nhận hàng". Nhà tôi đã có vô tuyến truyền hình, cũng quà của họ hàng miền Nam cho. Tối đến cả nhà quây quần xem phim tình báo Trên Từng Cây Số của Bulgaria. Cơm độn mì sợi, mì bột, bo bo, ngô, cái gì cũng có mùi bao tải. Một lần, mẹ tôi hớt hải từ dưới bếp chạy lên: "Sao, có phát thêm phiếu sa-tanh à?". Cả nhà cười ầm. Mẹ tôi lầm – đó là phát thanh viên báo trên tivi chương trình chiếu phim sắp tới: "Miếu Sa-tăng".

Dương Tường tất tả kiếm việc cho tôi làm. Công việc đầu tiên tôi có được là dịch các bài báo khoa học và làm tổng thuật các sách nước ngoài cho Viện thông tin khoa học xã hội. Trong sự cấp việc cho tôi làm chị Đỗ Thúy Hà, cán bộ của Viện, là người đỡ đầu rất hăng hái của tôi. Tình hình chính trị tuy có khác trước, nhưng khác không nhiều lắm, ai giúp đỡ tôi người đó phải bỏ ra nếu không nhiều thì cũng một ít tinh thần dũng cảm.

Anh Lê Sĩ Thiện, giảng viên thông tin thời trường Lục quân, tìm được tôi trong lúc tôi đang lúc túng quẫn. Cũng như Trần Quốc Thành, trong anh có một anh bộ đội sống dai. Anh thương tôi lắm. Anh khuyến khích tôi mạnh dạn bước vào những công việc trước kia nằm mơ cũng không thấy mình có thể làm để kiếm sống. Tôi theo anh đi làm thợ cán cao su, đúc tay phanh xe đạp bằng nhôm, đùn đồ nhựa, nấu gang dẻo, làm "ve" quét tường, làm bột nở cho các bà bán cháo quẩy… Cái gì tôi không hiểu, anh giảng cho tôi nghe cặn kẽ. Tôi cũng cố học các nghề anh dạy. Vất vả rất nhiều, nhưng tôi cảm thấy sung sướng vì mình được là mình. Giá họ có cho tôi trở về với nghề báo tôi cũng chối từ.

Có hôm đi làm ở xưởng cao su về qua Yết Kiêu tôi rẽ vào thăm Văn Cao. Nhìn tôi gày còm lam lũ, Văn Cao để rơi một giọt nước mắt xuống chén rượu.

Những công việc phải làm ở chỗ khác thì thôi, chứ công việc nào làm ở nhà đều có bàn tay vợ tôi tham gia. Nhất là hồi tôi làm nhuộm mạ kim loại, chốc lại rửa, nhát lại rửa, vợ tôi chạy trên gác xuống nhà, dưới nhà lên gác, cứ như đèn cù, da tay ngâm nước nhiều bợt ra, trông mà thương. Có qua những ngày gian khổ với nhau tôi mới biết mình thật hạnh phúc có được người vợ như vậy.

Có công việc thì có tiền, vợ con tôi dần có da có thịt, không đến nỗi gày còm như trước, là điều phấn khởi nhất cho tôi. Có tiền rồi, tôi mua cái tủ lạnh trước tiên, sau mua xe máy, tivi. Hồi đó ở Hà Nội có câu: "Tivi, tủ lạnh, Honda. Có ba thứ ấy mới ra con người". Lại nhớ tới Huỳnh Ngự và câu nói của anh ta "Đảng nuôi dạy anh nên người. Không có Đảng ấy à, có mà rã họng!".

Thời đại bắt đầu đổi thay. Người ta cảm thấy hoàn toàn có thể làm người được mà không cần có Đảng, nhất là cái Đảng lúc nào cũng lải nhải kể công với những kẻ gắn bó với Đảng bằng sợi xích.

Trong thời gian còn ở Hà Nội tôi muốn tìm anh Trần Quốc Thành lắm, nhưng không sao tìm được. Vụ của anh người nói có xử, người nói không xử. Cũng như vụ xét lại Đảng quyết định chỉ “xử lý nội bộ” để tránh tiếng. Không biết nên tin ai. Có người nói anh đã vào Sài Gòn, nhưng ở trong Sài Gòn mấy năm, tôi hỏi thăm đã nhiều mà cũng không tìm thấy anh. Nếu tình cờ cuốn sách tới tay anh, xin anh tin cho tôi biết anh ở đâu.

Trung úy Dứa cũng biệt tăm. Nghe nói anh về Mỹ Tho. Thế mà mấy lần đi Mỹ Tho, tôi đều hỏi thăm mọi người có thể cho tôi biết tin anh, tôi vào cả Ty Công an để hỏi, nhưng chẳng ai biết anh ở đâu. Thế mới biết "nhất ẩm nhất trác giai do tiền định"[11], không phải cứ muốn mà được.

Bận kiếm sống, khi ở Hà Nội mấy lần tôi định đi Vĩnh Phú tìm Nguyễn Xuân Cao nhưng rồi lại không đi được. Vả lại, tôi chỉ nhớ được một cái tên làng là Đình Chu. Làng này nằm ở huyện nào trong tỉnh Vĩnh Phú tôi không biết. Cứ chần chừ mãi. Đến khi vào Sài Gòn rồi thì lại ít khi ra. Nhưng nỗi nhớ Cao vẫn canh cánh bên lòng.

Trung úy Bưởi được chọn đi học đại học công an. Tôi đến anh em làm công tác nghiên cứu xin họ sách và tài liệu cho Bưởi. Tên “phản động” Phan Kế Hoành là người cho nhiều nhất: "Nếu có một cậu công an tốt thì phải giúp cho cậu ta nên người". Đưa sách cho Bưởi, tôi nói: "Đây không có tài liệu chống chế độ đâu, toàn sách nhà nước cả, chú đừng sợ". Bưởi bùi ngùi: "Bằng ấy thời gian em ở bên anh, em không hiểu anh sao. Em không tin những gì người ta nói về anh đâu. Cũng mong anh đừng vì bộ quần áo em mặc mà hiểu sai về em". Tôi tin Bưởi sẽ trở thành một cán bộ công an tốt. Chế độ nào cũng cần tới công an. Nhưng phải là công an tốt.

Marinet chết ở trong tù, như anh tiên đoán về cuộc đời mình. Chẳng bao giờ có ai tới để đặt lên mồ anh một nhành hoa, thắp cho anh một nén hương. Rồi thời gian sẽ xóa nhòa mọi dấu tích của một con người đã từng sống, đã từng chiến đấu và mơ ước về một thế giới đại đồng, bốn biển là anh em. Hôm đặt nhành hoa lên lò thiêu người ở Katowicze để tưởng niệm những nạn nhân đã chết trong trại tập trung Auschwitz-Birkenau (Ba Lan), tôi nhớ anh nhiều quá, thuơng anh nhiều quá, Marinet ạ.

Rồi đến kỳ mối tình Trung-Việt "vừa là đồng chí vừa là anh em" tan vỡ, những cuộc xung đột biên giới ngày càng trở nên gay gắt, dẫn đến việc "đồng chí" Đặng Tiểu Bình đòi "dạy cho Việt Nam một bài học", lần này không “tỉu na má” trên miệng nữa, mà bằng pháo hạng nặng và tên lửa, với hàng vạn bộ binh võ trang đến tận răng, vượt biên giới tiến vào tàn phá mấy tỉnh biên giới phía Bắc, thì rất bất ngờ tôi nghe tin Huỳnh Ngự bị phát hiện là người Việt gốc Hoa, bị buộc phải về hưu. Không biết tin có đúng không, tôi nghe mà thương Huỳnh Ngự! Mới biết cái kiếp đảng viên thèo đảnh lắm, mong manh lắm. Nếu đúng thế thì lần này Đảng lại nhầm mất rồi – Huỳnh Ngự là người rất mực trung thành với Đảng, cho dù có gốc gì đi chăng nữa.

Lại cũng có tin đồn Lý Cà Sa, lúc ấy đã được tha ra một nông trường, được quân đội Trung Quốc vượt biên giới đón về. Ít lâu sau mấy người tù cũ đi lang thang bị quân Trung Quốc bắt. Họ nhận ra tướng chỉ huy của phía bên kia chính là Lý Cà Sa. Lý Cà Sa cũng nhận ra bạn tù cũ, hồ hởi đón tiếp họ, mở tiệc chiêu đãi nồng hậu rồi tha về. Những người này có lẽ không biết quân hàm Trung Quốc thế nào, cho nên người nói họ Lý đeo lon trung tướng, người nói không phải, lon thượng tướng. Nếu tin này đúng thì cái lời đồn về đạo quân thứ năm của Trung Quốc là có cơ sở lắm.

Một buổi tối tôi ngồi uống chè chén trong một quán ở phố Hàm Long thì nghe người ta đùa cợt chuyện anh chàng Căn bị bắn hụt. Anh ta cũng ngồi đấy, béo tròn, cười hi hí. Tôi cũng tham gia câu chuyện, như một khách qua đường. Căn chăm chú nhìn tôi. Dường như anh ta nhận ra giọng tôi. Nhưng tôi tảng lờ như không biết. Chắc anh ta nghĩ mình nhận nhầm, không để ý đến tôi nữa. Thế là cuối cùng rồi Căn cũng sống sót, cũng ra khỏi nhà tù. Kiếp người lận đận đến thế, nhưng vẫn còn gặp may, không chết.

Việt Hùng vẫn làm công an. Anh đối với tôi mặn mà hơn trước, bè bạn hơn trước nhiều. Anh cũng nhiệt tình giúp tôi trong sự quan hệ với nhà cầm quyền. Chắc chắn họ hỏi anh về tôi và anh đã nói những lời nếu không trung thực thì cũng không dối trá.

Tôi có hỏi Việt Hùng về Hoàng. Thì ra họ biết nhau. Việt Hùng khen Hoàng là người có học, tử tế, có tư cách. Đến giai đoạn này những cặp khái niệm đúng – sai, phải – trái không còn được đương nhiên là khái niệm thống trị nữa. Người ta bỗng nói nhiều tới những cặp khái niệm đối xứng bị bỏ quên như tử tế – ba que, đứng đắn – vô lại, quân tử – tiểu nhân. Nghe nói sau khi làm việc với đám tù “xử lý nội bộ” mà không đạt được thành tích mà người ta muốn có, Hoàng bị điều động vào công tác ở Huế. Tôi tính có dịp qua Huế thể nào cũng phải ghé thăm anh, nhưng rồi chưa đến Huế được lần nào, trừ nửa giờ phơi nắng trên sân bay Phú Bài trong một lần hạ cánh bắt buộc. Bây giờ chắc Hoàng cũng đã về hưu. Tôi vẫn còn để đấy một chai rượu cho buổi tái ngộ.

Trước khi qua đời ít lâu Nguyễn Tuân một hôm đùng đùng kéo tôi đi ăn chả cá Lã Vọng. Ngồi vào bàn ông rút trong túi vải ra một chai rượu. "Rượu bộ, thưa bác?", tôi hỏi ông. "Không phải, rượu bộ hết rồi, ông nói. Cả cái thời rượu bộ cũng hết rồi!". Chúng tôi uống. Tôi xin lỗi ông, nói tôi xa ông gần chục năm là tại tôi không thuộc cái véc-bờ sợ mà ông dạy. Ông lắc đầu bảo tôi: thời này lẽ ra mình không nên làm văn. Làm văn mà sợ, mà lấm lét, mà run rẩy thì còn ra cái quái gì nữa! Nhưng thôi, cái gì đã qua thì nó cũng qua rồi, ông nói tiếp trong hơi rượu, tôi bây giờ đếch sợ nữa, tôi quyết không sợ nữa, thì đã muộn mất rồi. Bây giờ các anh phải sống theo cách khác cái lũ già hèn nhát chúng tôi, phải học chia một véc-bờ khác: :”Tôi đếch sợ anh, anh đếch sợ tôi, chúng ta đếch sợ chúng nó…, thế mới phải, hà hà!”

Bùi Xuân Phái thết tôi một chầu cà phê nhân dịp tôi ra tù. Anh vẫn trung thành với chủ nghĩa sợ. "Tôi là thằng nhát nhất thế giới!", anh nhỏ nhẻ tuyên bố. Nguyễn Sáng lầm lì cấm cung trong căn phòng của anh, bên cạnh con nghê vỡ trán đựng gạo, vẫn vẽ những bức tranh không bán được, vẫn nghèo. Cách phòng anh mấy bước Trần Đông Lương sống sung túc nhờ vẽ bưu thiếp lụa, sáng tác mẫu rồi cho gia công, theo cách hiện đại. Kiếm được tiền rồi, anh mới vẽ tranh cho mình, anh nói thế. Nguyễn Sáng biết sống như Trần Đông Lương có thể là hay, nhưng theo không được.

Ông Lâm toét tiếp tục cho các họa sĩ ăn chịu, uống chịu. Phòng tranh của ông ngày một phong phú. Nguyễn Sáng vẫn rủ tôi "đi Lâm đi". Gặp tôi, ông Lâm vẫn vồn vã. Chúng tôi lại có dịp ngồi với nhau trên gác, phòng triển lãm tranh của riêng ông, được ông đãi rượu, thuốc lá Samit và thưởng tranh. Nếu ông Lâm giàu hơn, ông có thể trở thành một Mạnh Thường quân cho nền hội họa Việt Nam lắm. Kém gì đại phú gia Tretiakov của nước Nga. Ông rất tế nhị, không hỏi tôi một câu rằng mấy năm nay tôi đi đâu, ở đâu. Ông làm như thể ông không biết từ cuộc gặp gỡ lần trước tới giờ đã có chín năm nước chảy qua cầu.

Một trong những điều không ngờ nhất đã xảy ra – Liên Xô, thành trì của cách mạng vô sản toàn thế giới, vào một ngày đẹp trời đã sụp đổ tan tành.

Ngày hôm đó tôi có mặt tại Moskva. Đêm 18 rạng ngày 19 tháng 8 năm 1991, cả khách sạn Thế giới (Mir), gần Nhà Trắng của tổng thống Nga Eltsin, chìm trong bóng tối – điện mất hoàn toàn. Ở chệt có rất nhiều bóng áo da đi đi lại lại, nhân viên khách sạn thì thào rằng đó là người của KGB. Vẳng lại trong đêm mấy tràng tiểu liên rời rạc. Điện thoại vẫn còn. Tôi gọi điện cho anh Glazunov, trưởng ban đối ngoại Đảng cộng sản Liên Xô, gọi cho anh Nguyễn Nhạc, trưởng đoàn Việt Nam ở khối CEB (Hội đồng Tương trợ Kinh tế), cả hai đều hoang mang, không biết chuyện gì đang xảy ra.

Sáng ngày ra, cả Moskva xuống đường. Cuộc đảo chính cung đình của những uỷ viên Bộ Chính trị bảo thủ[12] chống lại đường lối mới của Gorbatchov đã quật lại chính họ. Eltsin lãnh đạo cuộc phản đảo chính, kéo theo cả khối nhân dân bất bình và chán ngán chế độ xô-viết đã giật sập cái tưởng chừng muôn năm bền vững. Bài học mà tôi rút ra từ sự sụp đổ của Liên Xô là chế độ độc tài thường không bị phá vỡ bởi sự can thiệp từ bên ngoài, nó sụp đổ bởi chính những ung nhọt trong lòng nó phát tác. Quá trình mục ruỗng tự nó sẽ dẫn đến điểm nổ bùng, trong đó thời cơ là yếu tố quan trọng nhất. Nếu bọn Yanaev, Kruytchkov không làm đảo chính Gorbatchov thì vị tất đã có cuộc phản đảo chính thắng lợi của Eltsin. Vào thời điểm Yeltsin đứng lên phá nát nền chuyên chế đã tồn tại vững chắc 74 năm, đàng sau ông ta không có một phong trào dân chủ hay một tổ chức dân chủ nào. Tại đại sảnh của ngôi Nhà Trắng nổi tiếng trong những ngày đó, số người đến đấy để biểu thị sự ủng hộ đối với Eltsin sáng ngày 19.8 chỉ vẻn vẹn có khoảng 300 người, kể cả những người đến vì tò mò như tôi.

Bốn chục năm đi qua cái vèo, tôi đã ở lại nước ngoài, mọi sự khốn khó để lại sau lưng, chỉ thỉnh thoảng mới sực nhớ đến một chuyện nào đó thuộc về quá khứ. Ông bạn họa sĩ học cùng trường với tôi ở Moskva, người đã đánh cắp cuốn nhật ký của tôi theo lệnh đại sứ Nguyễn Văn Kỉnh để cho Kỉnh nộp công an, bỗng dưng tìm con con rể tôi nhờ nhắn lời rằng ông xin lỗi tôi vì hành động hèn mạt nọ. Tôi nhắn lại rằng chuyện cũ quá rồi, tôi đã quên. Mà Kỉnh thì cũng đã chết rồi. Trước khi Kỉnh chết, công an bắt được mấy tên lưu manh mang kim cương đi bán; chúng khai lấy ở nhà Kỉnh, nhưng hỏi Kỉnh thì Kỉnh không nhận mình mất trộm. Dù sao thì sau việc này, Kỉnh chết không được chôn ở nghĩa trang Mai Dịch là nơi yên nghỉ của các bậc chức sắc cao cấp, theo lời bình của anh bạn công an kể cho tôi nghe câu chuyện trên. Thì ra tôi đoán đúng: cái sự lập công, ra cái điều trung thành với Đảng thường được dùng để che giấu những việc làm tồi tệ, và ngài đại sứ trung thành với Đảng không quên bỏ lỡ dịp may buôn lậu. Kim cương ở Liên Xô vốn rẻ hơn ở thị trường thế giới, lại mua được bằng đồng rúp giấy, chứ không phải bằng đồng rúp vàng, theo tỷ hối chính thức.

Về chuyện "nhóm xét lại chống Đảng", tôi luôn gặp những câu hỏi khó trả lời. Bộ máy tuyên truyền của Đảng làm việc theo kiểu Goebbels[13]: "nói mãi, nói mãi, thì sự giả cũng thành sự thật", làm cho nhiều người cứ ngẩn ngơ, bán tín bán nghi, không biết có nên tin tôi hay không khi tôi nói rằng tôi chưa hề ở trong một nhóm nào như thế, rằng theo tôi thì chẳng hề có một nhóm nào như thế cả. Họ tin rằng Đảng là một tập thể lớn, còn tôi là một cá nhân, không lẽ Đảng nói dối. Họ chưa đủ trưởng thành để hiểu rằng một tập thể lớn khi nói dối thì đó là chỉ là lời nói dối lớn mà thôi.

Chẳng cứ người ngoài, ngay khi tôi vừa được thả, Huy Vân ra tù trước tôi ba năm còn hỏi tôi: "Cậu có ở trong tổ chức chống Đảng nào không đấy?". Tôi cười: "Chắc chắn là tớ không ở trong tổ chức chống Đảng của cậu rồi. Nếu có cái đó, chắc cậu với mình phải sinh hoạt cùng trong một tiểu tổ hoặc một chi bộ". Hẳn Huy Vân cho rằng có "nhóm xét lại chống Đảng" thật, và anh bị bắt oan là vì người ta tưởng anh ở trong nhóm đó. Đến khi biết chắc chẳng có "nhóm xét lại chống Đảng" nào hết thì anh tức lắm, anh nói anh sẽ làm cho ra nhẽ. Cách anh sẽ làm cho ra nhẽ thế nào thì chẳng ai biết, anh cũng không nói cho tôi nghe. Anh yêu nghề điện ảnh lắm, vì nó anh đã bỏ phứt cái hoạn lộ thênh thang của anh.

Huy Vân là một trong những người biết tiếng Nga đầu tiên ở Việt Nam. Anh học tiếng Nga ở Trung Quốc cùng với Nguyễn Mạnh Cầm, bộ trưởng Bộ Ngoại giao sau này. Vào năm đó, khi Huy Vân là ngôi sao sáng, thì Nguyễn Mạnh Cầm “chưa là cái gì”, theo cách người ta thường nói bây giờ. Được thả rồi, Huy Vân đã cúi mình xuống chạy chọt, thậm chí xin xỏ những bạn đồng sự cũ nay làm quan trong ngành điện ảnh, vì anh còn yêu nghề lắm, nhưng chẳng ma nào dám liều mạng nhận anh trở lại Xưởng phim. Năm 1977, anh lại bị bắt, lần này vì tội ăn cắp xe đạp. Thiên hạ kể: anh cứ lừng lững dắt khỏi cổng cơ quan một cái xe đạp không khóa và cũng chẳng buồn bỏ chạy khi thấy công an đuổi bắt. Anh ra tù, tôi hỏi tại sao anh lại làm chuyện bậy bạ thế, thì Huy Vân trả lời: "Mình cần được ra tòa để nói lại chuyện trước, nhưng cả lần này nữa chúng nó cũng không chịu xử. Thế là lỗ vốn". Anh bị bắt lần thứ ba trên một ngọn đồi giáp biên giới Trung Quốc cùng với một nữ biên tập viên báo Phụ Nữ hay Nhà xuất bản Phụ Nữ, tôi không rõ. Người ta buộc anh tội vượt biên. Tôi không tin anh có ý định vượt biên sang Trung Quốc – đi đâu khác còn có thể, chứ anh sang nước Trung Quốc cộng sản làm gì? Huy Vân bị đưa về Hỏa Lò Hà Nội, sau chết trong tù, không rõ ở nhà tù nào, Hỏa Lò hay một trại Trung ương. Có người nói anh chết ở Sơn La. Chuyện Huy Vân ăn cắp xe đạp chứng tỏ những năm dài ở xà lim đã làm cho anh thành một bệnh nhân tâm thần mà không ai biết.

Anh là người thứ ba qua đời trong số những người thuộc "nhóm xét lại chống Đảng".

Người thứ hai là ông Bùi Công Trừng, một trong những tên "xét lại hiện đại" là ủy viên Trung ương nên được Đảng xử lý nhẹ nhàng, chỉ khai trừ Đảng chứ không tống vào Hỏa Lò. Ông mất sau khi tôi được tha ít lâu. Trước khi chết ông nói với tôi: "Bác thương nước quá!". Ông nói trong nước mắt giàn giụa.

Người thứ tư là Trần Minh Việt, nhà lý luận của "nhóm xét lại chống Đảng", theo sự phong chức hào phóng của những người tự xưng bảo vệ Đảng. Anh từ giã cuộc đời bình thản, hiền lành, nho nhã, chẳng giống bất cứ thứ kẻ thù nào của bất cứ ai. Tôi đi theo linh cữu, đưa anh đến nơi an nghỉ cuối cùng.

Sau anh đến lượt tướng Đặng Kim Giang, rồi cha tôi, rồi tướng Lê Liêm, rồi ông Ung Văn Khiêm.

Một người nữa cần phải kể như một tên “xét lại”, tuy không nằm trong danh sách những người bị bắt cùng đợt với chúng tôi là Tuân Nguyễn, cũng qua đời vào những năm ấy. Tôi vào Sài Gòn khi Tuân Nguyễn đã mất. Dương Tường gọi điện tìm tôi, nhưng tìm tôi khó, tôi không có mặt ở nơi nào nhất định, thành thử khi tìm được tôi để bảo tôi thay mặt anh em ngoài Bắc đến đưa chân anh thì không tới kịp nữa rồi – tang lễ đã xong. Tuân Nguyễn không phải là một nhân vật đáng để người ta đăng cáo phó trên mấy tờ báo đảng hoặc trên truyền hình. Tôi chỉ còn có thể đến nhà anh để thắp nén hương tưởng niệm. Nhưng nén hương cũng không được thắp, chị Tuân Nguyễn không cho. Hoá ra sinh thời Tuân Nguyễn rất ghét mùi hương (nó gợi tới cái chết chăng?), vì thế mặc dầu tục lệ xưa chị Tuân Nguyễn không thắp hương cho anh. Bù lại, Tuân Nguyễn rất thích hoa. Chị dẫn tôi ra vườn, ở đó có nhiều thứ hoa không tên tuổi mà Tuân Nguyễn đã mang về trồng. Chúng tôi hái vài bông hoa đồng nội ấy đặt lên ban thờ. Tôi đứng đấy, ngước nhìn anh, thầm khấn anh hãy phù hộ cho những kẻ khốn khổ như anh vẫn còn phải sống dặt dẹo trên thế gian. Anh là tên “xét lại” đầu tiên bị bắt, nhưng không mấy ai biết điều đó. Vào sống ở Sài Gòn anh có được một người bạn thân thiết hiểu anh và yêu anh là Trịnh Công Sơn.

Nguyễn Lộc không trở lại với triết học và mỹ học nữa. Anh không viết gì, làm nghề dịch thuê để nuôi vợ con. Thỉnh thoảng chúng tôi vẫn gặp nhau. Trong những lần gặp ấy Lộc chỉ cười hiền lành, anh chán chính trị đến tận cổ, thứ chính trị "lăn tròn trên mọi lưỡi". Tôi được tin anh chết trong cảnh nghèo khổ khi tôi đã không còn ở Việt Nam. Anh mới đích thực là người thua cháy túi trong canh bạc bịp vĩ đại.

Phùng Mỹ làm kế toán cho một lò gốm Bát Tràng. Năm thì mười họa anh tạt qua Hà Nội. Gày và già đi rất nhanh, Phùng Mỹ nhìn đời bằng cặp mắt hờ hững. Anh chán ngán tất cả, thậm chí không buồn phục hồi kinh tế gia đình như một số anh em khác, cho rằng đó là sự bon chen. Anh chỉ vui ở chỗ được chia tay một lần cho mãi mãi với Đảng của anh.

Vũ Huy Cương tiếp tục cuộc sống độc thân trong căn phòng nhỏ xíu nằm sâu sau mặt đường Bà Triệu. Tôi giục anh lấy vợ. Cương cười méo mó: "Cô nào lấy mình bây giờ là phải lấy kèm mấy anh công an mật, mấy anh cán bộ tổ chức, như thế thì nhiều quá, vất vả quá!" Anh là người quảng giao. Nhờ bạn bè giúp đỡ, anh làm công việc in ấn trăm thứ bà dằn, nghe nói cũng sống được. Cho tới khi tôi viết những dòng này Vũ Huy Cương vẫn chưa lấy vợ. Bây giờ anh nói: "Ai lấy mà lấy? Lấy nhau bây giờ để dắt díu nhau đi Hoàn Vũ[14] à?"

Vợ Trần Châu đi lấy chồng khi anh ở tù. Anh trở về, sống cô độc mấy năm rồi gá nghĩa với vợ một liệt sĩ thời chống Mỹ, hai vợ chồng mở một quán tạp hóa trong làng bán vở và kẹo bột cho học sinh, nước mắm và mì ăn liền cho người lớn, nghe nói sống cũng được.

Hoàng Thế Dũng điếc đặc sau những năm tù, lẽo đẽo theo tôi làm ve quét tường, buổi tối trở về mặt xanh lè bột màu phtalocyanine. Anh làm hợp đồng cho tờ Lịch Sử Quân Sự, viết được nhiều tài liệu tổng kết các chiến dịch, trong đó có mấy bài hay về cuộc vượt biên giới của quân đội Việt Nam giải phóng vùng Thập Vạn Đại Sơn cho Trung Quốc. Hoàng Thế Dũng có kể cho tôi nghe một câu chuyện cảm động. Một hôm anh đi cùng một phái đoàn quân sự tới thăm một quân khu, việc của anh là thu thập các tài liệu lịch sử của quân khu này cho Tập san, thì tư lệnh trưởng quân khu, một thiếu tướng chạy tới trước mặt anh rập gót, đưa tay lên vành mũ chào anh theo đúng quân phong: "Chào thủ trưởng!". Thì ra đó là một cán bộ cấp dưới của anh từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Sau khi chào phái đoàn, tư lệnh trưởng mời thủ trưởng cũ ngồi bên cạnh mình, điềm nhiên như không hề biết chuyện gì xảy ra với anh những năm qua.

Lê Trọng Nghĩa thỉnh thoảng lại vào Sài Gòn. Chị Thảo, vợ anh, công tác tại đây lâu, có một chỗ ở trên đường Võ Thị Sáu. Nhà lãnh đạo ngành tình báo quân đội trong suốt cuộc chiến tranh Việt-Pháp già đi nhanh, nhưng còn rất minh mẫn. Những nhận định thời cuộc của anh vẫn sắc sảo như khi anh còn trẻ. Tôi uống trà với anh, nghe anh kể chuyện bằng cách nào Cục 2 đã phát hiện người Pháp chuẩn bị mặt trận Điện Biên Phủ, chuyện cán bộ Cục 2 đi vào Nam ngay từ khi Hiệp nghị Genève về Đông Dương vừa được ký kết. Chị Thảo kể: khi đại tướng Hoàng Văn Thái sắp nhận chức bộ trưởng Bộ Quốc phòng, ông mời chị tới nhờ chị nói với anh hãy bỏ qua chuyện cũ để trở lại công tác với ông. Nhưng nói chuyện với chị hôm trước thì hôm sau ông đột tử. Người Hà Nội đồn cái chết của ông do Lê Đức Thọ gây ra. Tiếp đến cái chết của đại tướng Lê Trọng Tấn. Ông cũng sửa soạn nhận chức bộ trưởng Bộ Quốc phòng thì lại đột tử. Cái chết của ông cũng lại được buộc cho Lê Đức Thọ. Đúng là một lần ỉa bậy, lần sau thấy cứt người ta gọi đến.

Trần Thư bắt đầu cuộc sống ngoài biên chế bằng cách chữa nước mắm thối, làm nước mắm từ cá khô, in nhãn hương và dịch sách. Mấy năm nay anh mang một khối ung thư trong bụng. Cuốn Chuyện Người Tù Xử Lý Nội Bộ của anh, mới xong phần đầu, đã được in ở nước ngoài, hé mở một phần vụ án được Đảng giữ bí mật. Nguyễn Kiến Giang cũng ra được một tuyển tập những bài viết về chủ nghĩa Marx thời hiện đại trong mối quan hệ với vận mệnh đất nước, được người đọc chú ý. Cũng như phần lớn anh em trong vụ án, anh sống bằng nghề dịch – sách văn học, sách chính trị, sách triết học, tài liệu thương mại, đủ thứ.

Lưu Động vẫn ầm ầm chửi "bọn tiếm quyền khốn nạn", nhưng Lê Đức Thọ trước khi chết đã ngán Lưu Động lắm, giả vờ điếc không nghe thấy. Không thể bắt Lưu Động một lần nữa. Lại càng không thể bắt Lưu Động câm mồm. Thấy quan thầy không dám động tới Lưu Động, lũ đệ tử cũng đành làm ngơ. Khi tôi rời Việt Nam, nghe sức khoẻ anh đã kém lắm, nhưng vẫn còn minh mẫn.

Được biết nhiều trường hợp oan ức xảy ra với dân chúng trong những nhà tù mà tôi đi qua, vừa từ nhà tù về tới nhà tôi viết ngay một bức thư cho ông Nguyễn Lương Bằng: "Chuyện của cháu hãy để đấy cho lịch sử. Nhưng nỗi oan của dân thì phải giải quyết ngay. Cháu đề nghị bác hãy tới các nhà tù để nghe dân khiếu oan. Cháu tình nguyện làm người dẫn đường cho bác… " Ông Nguyễn Lương Bằng im lặng như một lãnh tụ chính cống trước lời khẩn cầu của dân đen. Tôi hoàn toàn thất vọng về người anh hùng cách mạng trong thuở ấu thơ của mình. Lúc đó tôi cũng còn chưa được biết về vai trò của ông trong vụ "nhóm xét lại chống Đảng". Chỉ khi đi tìm tư liệu cho cuốn sách này tôi mới phát hiện ra rằng rồi ông cũng nhảy vào Ban chuyên án xử lý vụ án, chính thức trở thành một trong những tên cai ngục của tôi. Tôi tiếc đã viết bức thư nọ – cái hi vọng mới hão huyền làm sao! Hôm đưa tang ông, cha tôi rủ tôi cùng đi. Cha tôi vẫn giữ tình bạn cũ với ông. Tôi vốn là đứa con ngoan, luôn vâng lời, nhưng hôm ấy tôi đã từ chối. Tôi không có mối quan hệ thân thiết trong quá khứ với Nguyễn Lương Bằng như cha tôi. Tôi không rộng lượng như cha tôi. Tôi cũng không thừa thời giờ cho một con người đã bán mình cho danh vọng.

Trường Chinh sau khi rút lui khỏi cuộc đọ sức với Lê Đức Thọ vào chân tổng bí thư, buồn bã ngồi nhà. Ông qua đời vì chấn thương não trong một cú ngã ở cầu thang. Người ta đồn rằng ông bị người của Trần Quốc Hoàn, hạ sát. Tên này do Lê Đức Thọ cử tới thay cho nhân viên bảo vệ trước vừa bị ông sa thải. Lẽ ra, theo nguyên tắc, người bảo vệ phải đi sát ông từng bước, nhưng y đã để ông ngã khi có một mình, theo kết luận chính thức. Vết thương ở gáy có thể do mép bậc thang gây ra, mà cũng có thể do một vật bằng gỗ khác đập vào. Mà cũng có thể do lườn bàn tay chém vào, chẳng có gì khó với người có võ thuật. Việt Nam nghèo cái gì thì nghèo nhưng không nghèo tin đồn. Chẳng biết hư thực ra sao.

Hoàng Minh Chính, người chiến sĩ kiên cường, vẫn tiếp tục cuộc đấu tranh cho dân chủ và tự do. Anh bị bắt lần thứ ba[15], năm 1995, lần này bị xử án hẳn hoi, vì tội "lợi dụng các quyền tự do dân chủ". Trước tòa anh bình thản nhận bản án một năm tù, không khiếu nại, đơn giản vì "tôi không công nhận cái bản án xử tôi, cũng như tôi không công nhận cái toà án đã tuyên bản án ấy", như anh phát biểu. Hoàng Minh Chính không công nhận bản án là phải. Nó không những vô lý mà còn vô đạo.

Cùng với vụ xử Hoàng Minh Chính bắt đầu một thời kỳ mới, thời kỳ cuộc đổi mới cài số lùi, thời kỳ ông Đỗ Mười hạ lệnh cho các quan tòa xử lấy được, bất chấp đúng sai. Với cách giải thích luật pháp của Đảng không ai có thể biết cái lằn ranh các quyền tự do dân chủ được Đảng đặt ở đâu, cho nên công dân nào đi luạng quạng đều có cơ may bị các cảnh sát viên mác-xít thổi còi tống vào bót. Lê Đức Thọ chết rồi, nhưng hồn ma của Thọ vẫn lởn vởn trong cung đình.

Nhưng khác với thời trấn áp "nhóm chống Đảng", vụ bắt Hoàng Minh Chính lần này dấy lên cả một làn sóng phản đối, âm ỉ ở trong nước, ồn ào trên thế giới. Có cả một ủy ban bảo vệ Hoàng Minh Chính và Đỗ Trung Hiếu được thành lập ở Paris gồm những trí thức đã từng ủng hộ Việt Nam trong cuộc chiến vừa qua. Một luật sư Pháp gửi đơn xin chiếu khán đi Việt Nam để bảo vệ Hoàng Minh Chính, nhưng đại sứ quán Việt Nam, theo thói quen không cần đến lịch sự và truyền thống ngoại giao lì lợm, không trả lời. Những người nào cổ không đúng cỡ "lợi dụng các quyền tự do dân chủ" thì đã có cái tròng khác, đại loại như "chiếm đoạt bí mật nhà nước" như trường hợp xảy ra với Hà Sĩ Phu, Lê Hồng Hà, Nguyễn Kiến Giang… Những người này bị trấn áp, nhưng, vẫn như thường lệ, không được xử đúng cái tội mà chính quyền chuyên chính vô sản muốn trị, mà vì một cớ khác, được bịa ra một cách ngớ ngẩn, như mọi người đều biết. Vở kịch xử án họ do chính Bộ Chính trị Trung ương Đảng đạo diễn không được hưởng dù chỉ vài tiếng vỗ tay lẹt đẹt ngay trong đám khán giả được Đảng cử tới.

Cũng khác với "nhóm xét lại chống Đảng" những người đối lập mới không còn đòi xét lại chủ nghĩa Marx nữa, mà thẳng thắn bác bỏ nó. Nền tảng của cái gọi là nhà nước vô sản chuyên chính bị xói mòn bởi trào lưu dân chủ trên thế giới, bởi nền kinh tế thị trường, bởi tình hình tồi tệ trong các nước xã hội chủ nghĩa, cho nên cái cùm của nó cũng rệu rã, lỏng lẻo hơn trước nhiều. Với cuốn sách nổi tiếng Từ Bỏ Ý Thức Hệ, Hà Sĩ Phu kêu gọi sự tống tiễn ôn hòa có tình có nghĩa đối với chủ nghĩa Marx ngoại lai ra khỏi Việt Nam, đặt tên cho chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta là triều đại phong kiến cuối cùng. Ngang tàng là thế, ngạo ngược là thế, mà tác giả chỉ bị có một năm tù.

Một buổi tối năm 1983 Hoàng Đạo đến thăm tôi. Anh vừa biết địa chỉ của tôi ở Sài Gòn là tới liền, rủ tôi đi nhậu để hàn huyên. Tác giả vụ điệp báo lừng danh một thời già xọm, người như thấp đi, cặp mắt đã mờ, cái nhìn buồn bã. Tôi nhắc chuyện "Jean Valjean gọi bằng cụ". Anh nói suốt từ năm 1946 anh không nghe nói tới Tôn Thất Tần nữa, nhưng "chuyện anh ấy kể là có thật, đúng như thế". Tiếc rằng tối đó tôi có cái hẹn không thể bỏ, đành hẹn anh bữa khác. Chúng tôi chỉ ngồi với nhau được một lát. Bữa khác ấy rồi không có. Người nói anh đã bỏ đi Đồng Nai, người nói anh ở trong rừng Đồng Tháp. Năm 1995 tôi thấy hình anh trên một tờ báo công an. Người ta kỷ niệm vụ đánh đắm thông báo hạm Amyot d’Inville và nhắc đến cái chết của chị Lợi. Trước đây, trong một thời gian dài người ta không nói tới cái chết cảm tử của chị. Có người có chức quyền hẳn hoi còn nói chị mang va li thuốc nổ lên chiến hạm để tự sát – chị bị lao nặng đã hết cách chữa. Vì thế mà Trung ương không phong cho chị danh hiệu anh hùng. Cũng có thể ngày ấy người ta còn sợ uy Trường Chinh. Danh hiệu này chỉ được truy tặng cho người nữ anh hùng khi ở Việt Nam bắt đầu có "đổi mới".

Nguyễn Chí Thiện được thả ra năm 1977. Từ ga Trần Quý Cáp anh tới thẳng nhà tôi, ăn với tôi bữa cơm rồi mới về Hải Phòng. Thỉnh thoảng anh lên Hà Nội chơi lại rẽ vào thăm tôi. Vẫn ngơ ngác nhìn đời qua cặp kính trắng, ít nói hơn cả trong khi ở tù, còn ít cười hơn nữa, Nguyễn Chí Thiện hoàn toàn thu mình vào nội tâm. Tôi giao cho anh bột nở về bán cho các hàng cháo quẩy của thành phố cảng. Khi tôi chế bột nở cho cao su, anh cũng bán được một ít cho những người buôn hàng vào Nam. Nhưng anh không có khiếu thương mại. Tôi vào Sài Gòn hẳn từ năm 1983. Năm 1988 tôi ra chơi, Lê Trình báo tin Nguyễn Chí Thiện đã bị bắt lại. Anh chạy vào sứ quán Anh ở Hà Nội, trao cho họ tập thơ anh làm trong tù rồi bước ra để vào Hỏa Lò, ở thêm mấy năm nữa. Trình kêu gọi anh em bạn tù góp tiền cho gia đình Nguyễn Chí Thiện tiếp tế cho anh. Năm 1994 Nguyễn Chí Thiện sang Mỹ, từ đó anh đi khắp thế giới để chửi chính quyền Hà Nội. Tôi đọc báo và buồn lòng thấy anh chống cộng vung vít, chống luôn cả những hành động cứu trợ nhân đạo cho đồng bào, chỉ vì những khoản cứu trợ, theo anh nói, nuôi béo chính quyền cộng sản. Tôi biết có những vụ tham ô hàng và tiền cứu trợ, nhưng không phải tất cả đều thế. Anh còn nói rằng không thể tin được bọn cộng sản ly khai, quên khuấy rằng họ cũng là những người yêu nước không kém gì anh, ít nhất là như thế. Nhưng nghĩ tới những gì Nguyễn Chí Thiện đã trải qua, tôi hiểu nỗi căm giận của anh. Có điều, như các cụ nói, no mất ngon, giận mất khôn, nên anh mới khai trừ thẳng cánh những người trước kia là cộng sản ra khỏi đám con cháu Lạc Hồng, vĩnh viễn tước của họ cái quyền yêu nước.

Sau khi ra khỏi nhà tù, khoảng năm 1977, Kiều Duy Vĩnh và tôi gặp nhau luôn. Anh sảng khoái hơn bao giờ hết vì chuyến viễn du bất đắc dĩ cuối cùng rồi cũng đã kết thúc. Chúng tôi kéo nhau lên Hàng Vải Thâm rủ Lê Trình đi uống cà phê. Đôi khi có cả Văn Thợ Mộc, Phổ Gián Điệp. Vĩnh giàu nhất trong bọn chúng tôi, vì chị Vĩnh có sạp bán trà ở chợ Bắc Qua. Nhưng Trình Hàng Vải, cao niên hơn cả, bao giờ cũng tranh trả tiền. Có thể nói đây là hạt nhân của Hội Cựu Tù Nhân Chính trị Việt Nam, nếu như một ngày nào đó nó ra đời.

Phổ Gián Điệp được các đồng chí cũ thanh minh, được thả ra, nhưng gia đình đã tan nát, ngôi nhà bị thu vẫn chưa lấy lại được.

Văn Thợ Mộc đã lấy vợ. Cuộc hôn nhân bắt nguồn từ việc ông thợ mộc hiền lành của chúng tôi đi đóng giường thuê cho vợ một liệt sĩ. Chị kể với anh chị ước mong có một ban thờ tử tế để thờ chồng mà mãi chưa thực hiện được. Đúng ngày 27 tháng Bảy[16] anh xuất hiện ở nhà chị, hì hục đóng cho chị cái ban thờ mà chị muốn có, không lấy tiền. Chị xúc động trước tấm lòng cởi mở của anh. Hai người trở thành bạn. Rồi anh trở thành chồng chị, chăm nom những đứa con của người mà lẽ ra anh phải coi là kẻ thù. Những đứa con của người đã khuất rất yêu quý anh.

"Jean Valjean gọi bằng cụ" cũng đã ra khỏi nhà tù. Như tôi đã kể, thật ra chính quyền cũng không có ý định nâng cao kỷ lục tù cho ông, nhưng vì lúng túng không biết thả ông thế nào, nên đành để ông đó cái đã. Tiễn tôi ra trại, trung úy Bưởi hứa với tôi sẽ giúp đỡ "Jean Valjean gọi bằng cụ". Anh cho tôi biết nếu bây giờ có người nhận, ông sẽ được về ngay. Tôi tới gặp nhà sử học Chiêm Tế, cũng là người trong hoàng tộc, đề nghị anh bảo lãnh cho Tôn Thất Tần thì Chiêm Tế kêu lên: "Anh bị chín năm chưa chán sao mà còn dây vào những chuyện này! Tôi sợ lắm!". Chỉ có Bửu Tiến là hăng hái giúp. Anh vào Nam, tìm được con gái Tôn Thất Tần. Cô làm đơn xin bảo lãnh cho người cha chưa biết mặt. Qua nhà thơ Trần Mạnh Hảo tôi mới gặp lại Tôn Thất Tần. Hóa ra anh là con rể người tù vĩ đại.

Một hôm tôi đang phóng xe máy trên đường Thụy Khê thì bị một công an viên nhảy ra giơ hai tay chặn lại. Thì ra thiếu úy Nguyễn Văn Nhẩm.

– Anh còn nhớ em không?

– Nhớ chứ! – tôi ôm lấy anh – Tôi quên những tên khốn nạn, nhưng nhớ rất lâu những con người tốt bụng.

Nhẩm khoe với tôi anh đã ra khỏi ngành quản lý trại giam, bây giờ làm công an đường phố. Chúng tôi kéo nhau vào một quán bia gần đấy, uống bia Thanh Đảo và ôn lại chuyện những ngày ở Tân Lập. Nhẩm hẹn tôi một bữa ăn trên nhà hàng nổi Hồ Tây.

Tôi hỏi Nhẩm về số phận của gián điệp quốc tế Dịp Pún Mằn. Nhẩm cho biết anh ta đã được tha ra một nông trường gồm những tù nhân không nơi nương tựa ở gần trại. Sau anh ta có về Hải Phòng không thì Nhẩm không biết. Tôi hỏi Nhẩm đã gặp bao nhiêu gián điệp quốc tế kiểu như Diệp Bản Minh thì Nhẩm nói mới gặp có một. Tôi nói thế thì hồng phúc cho nước nhà.

Một năm sau khi tôi ra tù tôi gặp lại Trần Độ, người mấy năm sau bỗng trở thành một trong những con chim đầu đàn của phong trào dân chủ. Tôi nói “bỗng trở thành” vì lúc ấy anh còn tin ở cái đảng của anh lắm. Trong chiến trường, anh mù tịt về những việc xảy ra ở miền Bắc, thậm chí không biết tôi bị ở tù. Anh bảo tôi: “Nếu chú không làm gì sai trái thì sao Đảng lại bắt chú?” Tôi cười buồn: “Anh tự tìm hiểu chuyện này, rồi anh sẽ có kết luận. Anh hứa sẽ tìm hiểu chứ?” Tao hứa, anh nói thế. Tôi tin rằng sự tìm hiểu vụ án của chúng tôi đã góp phần thay đổi đến tận gốc cái nhìn của anh về thể chế mà anh tham gia xây dựng để khẳng định phải xoá bỏ nó.

Kể từ khi tôi ra tù, sự kiện ồn ào nhất về vụ "nhóm xét lại chống Đảng" là vụ ông Nguyễn Trung Thành, nguyên vụ trưởng Vụ Bảo vệ Đảng, cánh tay phải của Lê Đức Thọ trong thời kỳ chúng tôi bị trấn áp, bỗng dưng đùng đùng lên tiếng đòi xét lại vụ án. Ông tuyên bố chúng tôi hoàn toàn vô tội. Ông nói việc tham gia vụ án này làm cho ông bị lương tâm cắn rứt ngày đêm. Đã đến lúc ông không còn có thể im lặng.

Bức thư gửi Ban chấp hành Trung ương Đảng đề ngày 3. 2. 1995 là một tiếng sét giữa trời quang, làm sửng sốt không phải chỉ các nhà lãnh đạo mà cả chúng tôi, những nạn nhân trong vụ án. Có ai ngờ một người như ông mà lại đủ can đảm làm một việc tầy trời như thế – trước hết là lòng dũng cảm phủ định chính mình, sau là sự dấn thân vào một việc khó khăn, vô vọng mà hậu quả chắc chắn là rất nặng nề.

Nguyên vụ trưởng Vụ tổng hợp Bộ Nội vụ vào thời gian nói trên là ông Lê Hồng Hà, cũng có dính líu với vụ án của chúng tôi, đã nhiệt tình ủng hộ ông Nguyễn Trung Thành trong việc lập lại lẽ công bằng cho những người cộng sản yêu nước bị đàn áp.

Tổng bí thư Đỗ Mười nổi giận. Ông gọi Nguyễn Trung Thành lên gặp ông. Ông trách móc, ông khuyên can, rồi ông dọa nạt. Nhưng Nguyễn Trung Thành vẫn trơ trơ.

Lê Hồng Hà còn đi xa hơn. Nhân dịp này ông rà soát lại nhận thức của mình, rồi thẳng thắn vạch ra rằng mọi điều tồi tệ xảy ra là hậu quả sự du nhập chủ nghĩa Marx ngoại lai vào Việt Nam, sự áp dụng những nguyên tắc "dân chủ tập trung " và "chuyên chính vô sản", về thực chất là nền tảng của thói chuyên quyền, độc đoán.

Khi người ta giận dữ thì sự khôn nếu không mất đi ắt cũng thiếu. Cùng với Lê Hồng Hà, một số người dân chủ cũng vào hùa, chửi chủ nghĩa Marx ngoại lai, vì nó ngoại lai nên nó gây hại, quên bẵng rằng chủ nghĩa tam dân cũng là ngoại lai, và nhiều thứ khác cũng ngoại lai, nhưng ta vẫn dùng tốt. Tôi cho rằng thái độ lên án kiểu như vậy dễ thành bài ngoại lắm. Chủ nghĩa Marx không tốt cho chúng ta không phải vì nó là ngoại lai, mà vì những cái chứa trong lòng nó. Trong gia tài của nhân loại, cái gì tốt, hợp với ta thì ta xài, cái gì không hợp hay chưa hợp thì ta không xài hoặc chưa xài vội. Chỉ có sự lựa chọn như thế mới có lợi cho dân tộc.

Không làm gì được hai nhân vật phản tỉnh, tổng bí thư Đỗ Mười ra lệnh khai trừ họ khỏi Đảng. Chưa đủ. Lê Hồng Hà bị bắt, cùng một lượt với Hà Sĩ Phu, bị tòa xử hai năm tù giam, nhưng không phải vì lập trường chống chủ nghĩa Marx, vì thái độ phản kháng sự bạo hành của chính quyền đối với nhân dân, mà vì… "có hành vi chiếm đoạt bí mật nhà nước". Mà bí mật nhà nước ở đây là cái gì? Là bức thư của đảng viên Võ Văn Kiệt gửi các đồng chí của ông trong Bộ Chính trị, mà đồng bào Việt Nam ở nước ngoài đã được biết từ lâu.

Sau khi biết việc ông Nguyễn Trung Thành gửi thư cho Trung ương Đảng, mẹ tôi đi xích-lô lên tận nhà ông ở Ngọc Hà để nói với ông:

– Trước kia, tôi căm thù anh không kém gì căm thù Lê Đức Thọ. Nhưng nay tôi lại thấy ở anh một đồng chí, hay nếu ta không dùng cái chữ ấy nữa vì nó bị người ta làm cho ô uế rồi thì ta dùng chữ khác vậy, anh là một người tử tế…

– Cảm ơn chị.

– Mà này, tuổi đời cũng như tuổi cách mạng anh đều kém tôi, chi bằng tôi gọi anh bằng chú cho thân mật.

– Thưa chị – ông Nguyễn Trung Thành nói – chị đã tha tội cho tôi, lại còn nhận tôi làm em nữa thì lòng chị thật là rộng rãi, thật là bao dung! Tôi rất biết ơn chị.

Mẹ tôi cười vui vẻ:

– Đã coi là chị em rồi thì mọi sự là tình nghĩa chị em, đâu còn chuyện ai rộng rãi với ai, ai bao dung với ai?

– Nhưng nếu thằng em này rồi cũng bị bắt, thì chị lại đi tiếp tế cho nó nhá?

– Chú yên tâm – mẹ tôi nói – Cái việc này chị quen rồi. Thời Pháp chị đã đi tiếp tế, thời Nhật chị đã đi tiếp tế, thời ta lại được đi tiếp tế cả cho chồng lẫn cho con, như thế gọi là có thâm niên đấy. Chị sẽ đi tiếp tế cho chú…

Hà Nội – Moskva- Warszawa-Paris

1993-1997


[1] Người dứng đầu các lực lượng vũ trang sản xuất và buôn bán ma túy ở Tam Giác Vàng.

[2] Nhà văn (tiếng Pháp)

[3] Ông chủ (tiếng Anh).

[4] Anh khoẻ không? Tiếng chào hỏi của người Trung Hoa.

[5] Đúng! (tiếng Trung Hoa).

[6] Đọc theo âm Hán Việt là Bằng Tường, một thời là địa điểm đặt trạm biên phòng Trung Quốc.

[7] Trời ơi! (tiếng Nga(

[8] Vương quốc Chàm (Champa) nằm ở vùng Trung-Nam Việt Nam hiện nay, là một bộ lạc có cùng nguồn gốc với dòng Indonesia, đã cát cứ tại đây từ thời kỳ đồ đá mới. Vương quốc Champa được thành lập khoảng thế kỷ II trước CN. Thủ đô của Champa ở các thế kỷ VII – IX là Indrapura (Trà Kiều), vào thế kỷ XI dời đến Vijaya (gần Quy Nhơn). Khoảng năm 1470 Việt Nam thôn tính hoàn toàn vương quốc này.

[9] Người “tiến bộ”, được Đảng để mắt đến, có ý định kết nạp.

[10] Một lũ đểu cáng vĩ đại (tiếng Pháp).

[11] Một chén (rượu), một bát (cơm) đều do Trời định trước.

[12] Nhóm các uỷ viên Bộ Chính trị này gồm Kruytchkov, Yazov, Yanaev, Pavlov đã thành lập Uỷ ban Tình trạng Khẩn cấp, dùng KGB (Uỷ ban An ninh Quốc gia) và quân đội, nhằm lật đổ Gorbatchov lúc ấy đang nghỉ ở Krưm (Krimê).

[13] Goebbels, Paul Joseph (1897-1945), chính trị gia Đức, vào Đảng Quốc Xã (Nazi) năm 1922. Trở thành bộ trưởng Bộ Tuyên truyền và Giáo dục trong thời kỳ Hitler lên nắm quyền (1933).

[14] Lò thiêu xác ở ngoại thành Hà Nội.

[15] Mãi tới cuối năm 1996, Hoàng Minh Chính mới biết lý do thật khiến anh bị vào tù lần chót. Số là vào tháng 5 năm 1995 anh và một số cựu đảng viên Đảng dân chủ Việt Nam, là những đảng viên đầu tiên của đảng này trước khi nó trở thành một đảng bù nhìn thật sự, có gặp nhau trong một bữa trà dư tửu hậu tại nhà anh. Trong cuộc gặp gỡ này có người nêu ý kiến nên có một cuộc họp mặt rộng hơn nhân ngày kỷ niệm Đảng dân chủ Việt Nam ra đời, vào giữa tháng 6. Cuộc nói chuyện bị ghi âm trộm. Thế là người ta tá hỏa, nghĩ rằng Hoàng Minh Chính và các cựu đảng viên Đảng dân chủ Việt Nam có ý tái lập đảng, do đó vội vã bắt ngay Hoàng Minh Chính. Lý do thì không có, người ta viện cớ Hoàng Minh Chính dám gửi hộ Đỗ Trung Hiếu những kiến nghị của ông tới địa chỉ các vị lãnh đạo, là hành động tán phát những tài liệu chống nhà nước và chủ nghĩa xã hội, để buộc tội. Thế là ông Đỗ Trung Hiếu trở thành đầu vụ một cách oan uổng.

[16] Ngày thương binh liệt sĩ.

Comments are closed.