Đường thi – chuyện bên lề

Võ Kỳ Điền

TIẾT PHỤ NGÂM (Trương Tịch)

Chuyện chữ nho, nói ra không hết. Cũng không biết tại sao tôi lai đâm ra mê thơ Đường một cách điên cuồng. Nhớ lúc mới bắt đầu học ban Việt Hán ở Đại học Sư phạm, tôi có một anh bạn thân cũng có chung một niềm say mê y như vậy. Nhà anh ở một ngõ hẻm đường Trần Hưng Đạo, gần Đại Thế Giới miệt Chợ Lớn, vô sâu chừng vài chục mét. Vào một buổi trưa tôi đi kiếm nhà bạn để mượn bài vở. Lần lần kiếm từng số nhà. Quanh qua quẹo lại, đường sá ở đây như là một nùi chỉ rối. May quá, qua một khúc quanh tôi tìm ra dãy phố nhỏ nầy với số nhà chính xác. Nhìn kỹ thì thấy cái ổ khóa to chần dần trước cửa. Thấy mà tức ứa gan. Làm sao bây giờ, bạn không có nhà, mà cũng không biết phải làm sao. Tôi bèn lượm một cục gạch bể định ghi vài dòng nhắn tin lại. Đương loay hoay thì cạnh bên có một cô người Tàu khá đẹp còn trẻ tay bồng con nhỏ, mở cửa nhà đi ra. Tôi dọ hỏi thì cô không biết tiếng Việt. Thôi đành. Cầm cục gạch, tôi viết lên cửa cái bốn chữ Hán “Hận bất tương phùng”. Cô Tàu nhìn sững tôi và vừa bỏ đi vừa ngoái nhìn lại. Tôi vẫn nhớ hoài ánh mắt ngạc nhiên đó, cho đến bây giờ.

Các bạn biết tại sao không? Vì đó là bốn chữ trích từ bài thơ Tiết phụ ngâm của thi sĩ Trương Tịch đời Đường. Nguyên câu là “Hận bất tương phùng vị giá thì”. Có nghĩa là: Giận là không gặp lúc em chưa có chồng. Viết như vậy tôi cho là đối với anh bạn chủ nhà thì là tiếc không được gặp, còn đối với cô Tàu hàng xóm xinh xinh nầy là phải chi tôi gặp cô ta sớm hơn lúc còn son… Cô nhìn tôi lom lom chắc là do ý nghĩa câu thơ Tiết phụ nầy. Hay là cô hoài nghi trình độ chữ Hán chỉ mới học lem nhem được vài tháng của tôi?

BÀI THƠ LÔ SƠN CỦA TÔ THỨC (Tô Đông Pha)

Cũng lại ba cái chuyện thơ Tàu. Các bạn đừng trách nhen. Hình như tôi bị ghiền nó như ghiền thuốc phiện vậy. Hồi nhỏ mê thơ Tàu, về già mê phim bộ, cũng là của Tàu. Sao mà kỳ cục quá, có gì hay đâu sao mà mê man, chết lên chết xuống, kỳ cục thiệt. Bạn bè nghe qua ai cũng tức cười. Rồi học gì không học lại đi học ba cái chữ nho rắc rối, hèn chi cả đời rắc rối, cho tới già rồi vẫn còn bị tiếp tục rắc rối. Tính đổi sang sở thích khác chuyện Tây, chuyện Mỹ cho vui. Nào ngờ loanh quanh cũng lại chuyện Tàu. Y như phim bộ nhiều tập, phải nhịn cơm, nhịn nước mà coi. Rồi lại tại nhớ tới bài thơ mắc dịch nầy. Đã có biết bao nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình nhận định, phân tách nghe đã thiệt là đã! Các bạn muốn biết thì tìm vô Google kiếm bài Lô Sơn của Tô Thức (Tô Đông Pha) mà coi cho sướng cái bụng. Xin chép ra đây bài thơ:

Lô Sơn yên tỏa Triết Giang triều
Vị đáo bình sinh hận bất tiêu
Đáo đắc hoàn lai vô biệt dị
Lô Sơn yên tỏa Triết Giang triều

Thiền Sư Mật Thể đã dịch như thế nầy:

Mù tỏa Lô Sơn sóng Triết Giang
Khi chưa đến đó hận muôn vàn
Đến rồi về lại không gì lạ
Mù tỏa Lô Sơn sóng Triết Giang

Nếu bàn về những cái tuyệt diệu của bài thơ nầy thì phải cần bao nhiêu trang sách báo cho đủ. Nội hai đại danh Tô Đông Pha với Thiền Sư Mật Thể nghe qua là muốn té xỉu rồi. Thiệt tình là không dám… dù chỉ một lời. Với tài hèn sức mọn nầy, biết lấy gì mà thưa thốt. Tuy vậy cũng rón rén nói một ý, tuy không ăn nhập gì với bài thơ. Đi tới Lô Sơn rồi về vì không có gì lạ hết. Sắc tức là không, mà không tức là sắc. Có và không đối đãi nhau. Cái tâm khi động khi tĩnh thấy khác nhưng thật ra chỉ có một, có khác chi đâu mà ngó tới ngó lui. Lô Sơn cũng vẫn là Lô Sơn, coi chi cho mất công. Thiên hạ ca tụng tầm bậy tầm bạ không hà. Chán ơi là chán.

Vậy thì tôi không thèm đi Lô Sơn ở Triết Giang, nằm nhà tán gẫu với bạn bè, thì hình như sướng hơn, có lợi hơn vì đỡ vất vả, trèo đèo lội suối, không phải tốn kém mà lại đỡ bực mình. Lý luận ngu ngu như vậy, các bạn thấy được không, xin thành tâm chỉ giáo. Còn bạn nào có hưỡn, muốn đi chơi Lô Sơn xem cảnh đẹp như lời đồn đãi, thì tôi không cản, cứ đi đi rồi về kể lại cho nghe với. Nhớ chụp ảnh quay phim cho nhiều rồi sang cho một bản. Tại hạ muôn vàn cảm tạ!

TẠP THI (Vương Duy)

Sáng nay thức sớm, đọc được nhiều thơ bạn bè đồng nghiệp, cùng học trò cũ quê nhà. Vui buồn lẫn lộn. Đâm nhớ bài thơ cổ của thi sĩ Vương Duy đời Đường:

Quân tự cố hương lai
Ưng tri cố hương sự
Lai nhật ỷ song tiền
Hàn mai chước hoa vị

Bài thơ rất đơn giản dễ hiểu, nghĩa là vầy:

Bạn từ quê hương đến
Ắt biết rõ chuyện quê hương.
Hôm trước tựa cửa sổ,
Thấy hoa mai nở hay chưa? (*)

Tứ thơ của bài nầy là: thấy hoa mai nở hay chưa? Và nhãn tự của câu nầy là chữ “chước” cũng đọc là “trước” có nghĩa là “nở”. Thơ Đường nhiều bài đơn giản lắm, chữ dùng đơn giản, ý nghĩa đơn giản… y như anh em mình nói chuyện. Cứ đọc thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Vương Duy, Vương Hàn, Mạnh Hạo Nhiên… thì thấy ngay. Không có khó khăn rắc rối như thơ bây giờ, chữ dùng nghe mà thấy sợ.

Trở lại chuyện tại sao tôi nhắc đến bài thơ nầy. Bởi vì gần bốn mươi năm xa quê, tôi chưa một lần về. Phải chi không về mà không nhớ thì cũng đâu có sao. Cái nầy không về mà lại nhớ, nhớ quay nhớ quắt… Cái rắc rối là ở chỗ nầy. May nhờ có facebook gặp lại rất nhiều bạn đến từ cố hương, lòng tôi không còn gì sướng hơn nữa. Chuyện của bạn thì biết đã đành rồi nhưng đóa hoa cạnh nhà bạn… mà có một thời tôi đi tới đi lui, đi qua đi lại để ngắm, không biết bây giờ đã nở hay chưa, còn trên cành hay đã rụng mất tiêu rồi. Tôi hoàn toàn không biết gì hết trơn hết trọi. Chờ câu trả lời bạn thân, trái tim tôi đập trật nhịp, tuy là đã rất già, rất già. Có bạn trả lời tôi rất an tâm, có bạn vừa nói xong, tôi đã khóc, khóc ngon lành như chưa bao giờ được khóc. Những người muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ. Où sont les neiges d’antan!

ẨM TỬU KHÁN MẪU ĐƠN (Lưu Vũ Tích)

Lại chuyện chữ nho. Do học văn thơ Trung Hoa nên tôi rất thích cây cỏ hoa lá xứ nầy (xin mời bạn đọc bài Thảo mộc trong cổ văn Việt Nam, bản có ảnh minh họa của Art2all.net đã đăng) Cây ngô đồng và hoa mẫu đơn được giới văn nhân xứ nầy yêu thích nhất. Qua các thư tịch kim cổ, chúng ta đọc tới đọc lui nếu không bắt gặp cây nầy thì sẽ thấy được hoa kia. Mà hình như ở xứ Trung Hoa không có cây và hoa nào khác vậy.

Hồi nhỏ khi học thơ Lưu Vũ Tích, tôi thích bài Ẩm tửu khán mẫu đơn:

Kim nhật hoa tiền ẩm
Cam tâm túy sổ bôi
Đản sầu hoa hữu ngữ
Bất vị lão nhân khai

Nguyễn Hoàng đã dịch như thế nầy:

Vài chén bên hoa nở
Cũng đành say bên hoa
Chạnh buồn e hoa nói
Đâu nở cho người già

Hồi đó tôi cho là tác giả dùng chữ đơn giản, câu thơ đơn giản, bất cứ ai đọc cũng có thể hiểu được dễ dàng. Nhưng thiệt ra có phải như tôi nghĩ đơn giản vậy không? Đến bây giờ tôi đã là một ông già, đọc lại tứ thơ… đâm lạnh toát mồ hôi:

Đản sầu hoa hữu ngữ
Bất vị lão nhân khai

Đôi khi có dịp tôi cũng biết ngắm hoa. Hoa đẹp trong vườn và hoa đẹp nằm phơi nắng trong sân cỏ, balcon. Hình như ngàn năm trước thi sĩ Lưu Vũ Tích viết riêng bài nầy cho tôi. Câu thơ cứ lảng vảng trong đầu và khi thấy hoa đẹp tôi bèn quên mất, cứ mãi mê ngắm nhìn như lúc tuổi mười tám. Và khi nhớ lại thì đau thiệt là đau, hoa đẹp đâu nở vì ông già… Như tôi bây giờ!

(Võ Kỳ Điền, Laval-des-Rapides, 2017 August)

(*) Bản dịch của Trần Trọng Kim (Văn Việt chú):

Ở quê anh mới tới đây,
Việc quê anh biết đổi thay thế nào.
Hôm đi, trước cửa buồng thêu,
Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?

Comments are closed.